tag:blogger.com,1999:blog-50608724376383674062024-02-20T07:22:15.227-08:00Lịch sử quan hệ quốc tếAnonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.comBlogger118125tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-21684395913461092392013-08-28T19:10:00.003-07:002013-08-28T19:10:53.761-07:00Dự báo chiến tranh và xung đột quân sự thế kỷ 21<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pHead" style="color: #444444; font-weight: bold; line-height: 21px; margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">TPO - Chỉ trong 50 năm cuối của thế kỷ XX, đã xảy ra 260 cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang. Từ đó, có thể dự báo được đặc điểm chiến tranh và xung đột cục bộ trong tương lai.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Chiến tranh chiếm vị trí đặc biệt trong toàn bộ tiến trình các sự kiện quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất của lịch sử nhân loại.</span> Chỉ tính riêng trong 50 năm cuối của thế kỷ XX, đã xảy ra 260 cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang.</div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trong suốt toàn bộ lịch sử nhân loại, con người chỉ sống 292 năm trong điều kiện hòa bình, nghĩa là trong 100 năm không có một tuần lễ hòa bình! Điển hình là thế kỷ XX đã kết thúc bằng hai cuộc chiến tranh đẫm máu là Chiến tranh vùng Vịnh và Chiến tranh Kosovo.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
</div>
<table align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" style="background-color: white; border: none; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><tbody style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">
<tr style="border: none; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><td align="center" style="border: none; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><img alt="" imageid="307711" src="http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=307711&Width=450" style="border: 1px solid rgb(0, 0, 0); height: 338px; margin: 0px; max-width: 488px; min-height: 10px; min-width: 50px; outline: none; padding: 0px; width: 450px;" /></td></tr>
</tbody></table>
<br />
<div style="background-color: white; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
</div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"></span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Một nghịch lý bi thảm của thế giới hiện đại trong khi các dân tộc và các quốc gia nhận thức rõ ràng họ đang sống trong một thế giới gồm các nước phụ thuộc lẫn nhau, nhưng vẫn không thể loại trừ được chiến tranh như là một phương tiện giải quyết các mâu thuẫn khác.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Mặc dù loài người đã ngăn chặn được khả năng bùng nổ Chiến tranh thế giới lần thứ 3 trong giai đoạn chạy đua vũ trang, nhưng việc dùng vũ khí để giải quyết các tình huống xung đột vẫn là một nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Cho nên việc nghiên cứu tính chất và đặc điểm các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột quân sự, từ đó rút ra những bài học cần thiết để phát triển chiến lược và nghệ thuật quân sự sẽ vẫn là một yêu cầu cấp thiết của thế kỷ XXI.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Từ kết quả các cuộc chiến tranh trong nửa cuối thế kỷ XX, có thể dự báo được đặc điểm chiến tranh và xung đột cục bộ trong tương lai như sau:</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ nhất.</strong> Trong vô vàn các nguyên nhân và mâu thuẫn về kinh tế, chính trị - xã hội dẫn tới chiến tranh và xung đột quân sự thì lợi ích của các nước lớn có trình độ phát triển cao, nhiều khi không trực tiếp tham gia vào các hành động quân sự, sẽ có tác động đáng kể nhất đến diễn biến và cục diện các cuộc chiến tranh và xung đội.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trong thế kỷ XX, nhiều cuộc chiến tranh đã không xảy ra, hoặc đã có thể có các kết cục khác, nếu như các bên tham chiến không nhận được sự giúp đỡ về kinh tế, quân sự, chính trị của các cường quốc lớn. Bằng chứng là sự giúp đỡ của Mỹ đã dẫn đến 4 cuộc chiến tranh giữa các nước Arab và Israel, cuộc chiến tranh Israel xâm lược Liban, cuộc chiến tranh Triều Tiên (1959 – 1952), cuộc Chiến tranh vùng Vịnh (1990 – 1991). Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ muốn áp đặt lợi ích của họ lên toàn thế giới, trước hết là ở châu Âu, và họ đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tư (1999) và hàng loạt các cuộc xung đột quân sự ở Trung Đông.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trong thế kỷ XXI, có thể dự báo lợi ích và mâu thuẫn giữa các nước lớn có trình độ phát triển cao sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các quốc gia và các giai cấp xã hội khác nhau, tạo tiền đề để châm ngòi chiến tranh. Còn sự giúp đỡ và tham gia trực tiếp của các nước lớn trong các hoạt động quân sự sẽ ảnh hưởng đến diễn biến và cục diện các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột quân sự</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ hai. Sẽ rất dễ nhận diện được kẻ xâm lược, đó thường là những kẻ chủ trương dùng sức mạnh quân sự để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh. Trong trường hợp này, cục diện cuộc chiến phụ thuộc rất lớn vào việc các nước bị xâm lược cảnh giác nhận thức rõ tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh mà ho phải tiến hành. Từ đó, các nước bị xâm lược có được sức mạnh có thể làm thay đổi diễn biến cuộc chiến về phía có lợi cho họ và giành chiến thắng trước kẻ xâm lược mạnh hơn nhiều lần. Một bài học điển hình là cuộc kháng chiến của Việt Nam trước Pháp và Mỹ.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ ba.</strong> Nhân dân các bên tham chiến cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình đặc biệt nhạy cảm với các tổn thất về dân thường. Nếu trong các cuộc Chiến tranh thế giới của thế kỷ XX, thiệt hại về sinh mạng được coi là sự tất yếu, thì trong các cuộc xung đột cục bộ thế kỷ XXI, thiệt hại về sinh mạng sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến tình hình chính trị - xã hội trong các nước tham chiến. Trong điều kiện đó, ở đâu tính chất chính nghĩa của chiến tranh được nhận thức rõ ràng thì dân chúng thà hy sinh và ủng hộ mạnh mẽ chính phủ và quân đội, sẵn sàng đứng lên chiến đấu bảo vệ lợi ích của đất nước.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Một bài học điển hình là ý chí thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ của nhân dân Việt Nam chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược; ý chí hy sinh đến người cuối cùng của nhân dân Nam Tư để bảo vệ chủ quyền chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của NATO. Trong trường hợp chiến tranh phi nghĩa, tổn thất về sinh mạnh trong chiến tranh có thể có tác động rất tiêu cực đối với toàn bộ xã hội. Do đó, các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ, chính phủ và quân đội các nước sẽ đặc biệt chú ý các biện pháp nhằm hạn chế tổn thất về sinh mạng ở mức thấp nhất.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ tư.</strong> Vũ khí chính xác sẽ được sử dụng phổ cập trong các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ nhằm tạo hiệu quả tàn phá đến mức tối đa nhưng lại giảm đến mức thấp nhất về thiệt hại sinh mạng với dân thường. Bằng cách đó bên gây chiến có thể sẽ tránh được nỗi bất bình của dân chúng. Hoặc nếu có chiến tranh xảy ra ở trong nước thì cũng hạn chế được thiệt hại của đông đảo dân chúng không tham gia các hoạt động quân sự.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ năm.</strong> Kinh nghiệm các cuộc chiến tranh thế kỷ XX chứng tỏ trong các cuộc xung đột cục bộ, các bên đều tranh thủ mọi điều kiện để lôi kéo đồng minh và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Sự ủng hộ về mặt tinh thần của các nước khác và cộng đồng quốc tế tạo sức mạnh cho các bên tham chiến. Nếu các nước hữu nghị được huy động để giúp đỡ về mặt kinh tế, chính trị - xã hội hoặc để phong tỏa đối phương thì những hành động đó có ảnh hưởng đáng kể đến diễn biến và kết cục xung đột. Sự ủng hộ đó có thể được so sánh như là sự tham gia trực tiếp vào các hoạt động quân sự. Vì thế mà trong những năm gần đây, các nước đi xâm chiếm đã lợi dụng công pháp quốc tế để biện minh cho hành động xâm lược của mình. Một ví dụ điển hình là chiến dịch "Cáo sa mạc” của Mỹ.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ sáu.</strong> Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ trong nửa cuối thế kỷ XX đều sử dụng vũ khí thông thường. Nhưng cũng có một số vũ khí sát thương hàng loạt mà chủ yếu là vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học cũng được sử dụng. Từ đó thấy được loại vũ khí này là một phương tiện có tính chất tối hậu nhằm giải thoát khỏi tình trạng khẩn cấp khi một bên tham chiến không còn đủ lực lượng và phương tiện để tránh khỏi thảm họa về quân sự.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Vũ khí sát thương hàng loạt cũng có thể được sử dụng khi hoàn toàn tin tưởng rằng đối phương không có biện pháp trả đũa thích đáng. Nghĩa là một nước nào đó có vũ khí sát thương hàng loạt sẽ có sức mạnh kiềm chế bên xâm lược mở rộng hoặc leo thang các hành động quân sự và đồng thời kiềm chế đối phương trong việc sử dụng vũ khí tương tự. Chiến tranh hạt nhân mới trong học thuyết quân sự của Liên bang Nga là một minh chứng rõ ràng cho xu hướng này.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
</div>
<table align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" style="background-color: white; border: none; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><tbody style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">
<tr style="border: none; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><td align="center" style="border: none; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><img alt="" imageid="307712" src="http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=307712&Width=450" style="border: 1px solid rgb(0, 0, 0); height: 350px; margin: 0px; max-width: 488px; min-height: 10px; min-width: 50px; outline: none; padding: 0px; width: 450px;" /></td></tr>
</tbody></table>
<span style="background-color: white; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px;"> Tàu sân bay là thành phần then chốt trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ</span><br />
<div style="background-color: white; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
</div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><br style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;" /><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ bảy.</strong> Quy mô không gian của các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ trong thế kỷ trước thường bị hạn chế trong khu vực có các hoạt động quân sự. Nhưng do có sự phát triển của các phương tiện chiến đấu, phạm vi đó sẽ được mở rộng. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh chứng tỏ hoạt động quân sự trên toàn bộ lãnh thổ của các bên tham chiến vượt ra khỏi khuôn khổ hoạt động của lục quân.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Còn ở chiến tranh Kosovo, không quân NATO đã tiến công vào các mục tiêu nằm rải rác trên toàn bộ lãnh thổ Nam Tư. Như vậy, trong thế kỷ XXI và sau này, các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ mặc dù hạn chế về tính chất và khu vực hoạt động nhưng luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ các bên tham chiến sẽ mở các đòn tấn công ồ ạt trên toàn bộ lãnh thổ đối phương mà không giới hạn trong khu vực giao tranh có các hành động quân sự trực tiếp.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ tám.</strong> Chiến tranh trong thế kỷ 21 là chiến tranh chớp nhoáng, tốc độ cao, với thời gian nhanh nhất. Trong thế kỷ XX, thời gian kéo dài chiến tranh và xung đột cục bộ nắm trong một phạm vi rất rộng: Từ 6 ngày trong cuộc chiến tranh lần thứ 3 giữa các nước Arab và Israel (từ ngày 5 đến 10 - 6 – 1967) đến 8 năm trong cuộc chiến tranh giữa Iran và Iraq (1980 – 1988), và phụ thuộc chủ yếu vào việc các bên đã đạt được mục đích của chiến tranh hoặc do cả hai bên đều cạn kiệt về tiềm lực kinh tế, quân sự, chính trị, tinh thần. Qua đó có thể thấy được một số quy luật quan trọng có thể có ý nghĩa trong thế kỷ XXI.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Nếu một trong các bên tham chiến không đạt được mục đích đề ra trong thời gian quy ước thì chiến tranh sẽ kéo dài và đưa đến những kết cục không thể dự báo trước đối với bên gây chiến. Chiến thắng thường nghiêng về bên tiến công và thuộc về bên nào có ưu thế đáng kể về chiến lược quân sự, tâm lý – tinh thần, hỏa lực và công nghệ so với đối phương với thời gian ngắn. Nhưng dễ dàng nghiêng về một cuộc chiến tranh nhân dân <br style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;" />Trong các cuộc chiến tranh chớp nhoáng, các đội quân được xây dựng trên cơ sở chuyên nghiệp sẽ có ưu thế mạnh hơn các đội quân được xây dựng trên các nguyên tắc tổ chức khác. Tuy nhiên, trong các cuộc chiến tranh kéo dài, ưu thế sẽ thuộc về các đội quân của nước nào được xây dựng trên cơ sở quốc phòng toàn dân bởi vì nước đó có thể huy động toàn bộ nhân dân tham gia chiến tranh và kết cục họ sẽ giành được chiến thắng của một cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ chín. </strong>Chiến tranh hiện đại là cuộc chiến tranh dồn nén thời gian, và được kéo dài ra thành nhiều giai đoạn, nhưng thực tế cho thấy, lý thuyết của chiến tranh dồn nén thời gian đến nay vẫn chưa có được một kết quả hoàn hảo. Ngoại trừ cuộc chiến tranh cục bộ chống lại Gruzia. Nếu bên phòng ngự đánh trả được đòn tiến công đầu tiên của đối phương và động viên được đông đảo lực lượng tham gia chiến tranh thì chiến tranh sẽ kéo dài và rất khó đoán được kết cục của chiến tranh.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Cơ sở để giành chiến thắng trong giai đoạn đầu của chiến tranh thường được xây dựng từ trong thời bình và đặc biệt được tăng cường trong thời kỳ chuẩn bị chiến tranh. Trong giai đoạn đầu, bên khởi chiến sẽ tạo ra ưu thế về lực lượng, phương tiện, công nghệ, tiến hành bố trí lại lực lượng, tổ chức bảo đảm vật chất kỹ thuật tại nơi sẽ xảy ra chiến sự. Ngoài ra, họ còn tiến hành các biện pháp phong tỏa kinh tế, chính trị, ngoại giao mà đặc biệt là phong tỏa đối phương về mặt quân sự, tiến hành các hoạt động đặc biệt và sử dụng các lực lượng chống đối để gây mất ổn định tình hình trong nước.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Các khối liên minh sẽ tạo dựng và lôi cuốn các tổ chức quốc tế đứng về phía họ. Trong giai đoạn chuẩn bị thường có các biện pháp phô trương sức mạnh. Trong giai đoạn đe dọa chiến tranh, các bên sẽ tiến hành các chiến dịch chiến tranh thông tin với cường độ cao nhằm tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý và tinh thần đối với dân chúng và quân đội của đối phương. Do đó, giai đoạn đe dọa và chuẩn bị chiến tranh có tầm quan trọng đặc biệt và có thể coi như một giai đoạn độc lập và là một trong các diễn biến của xung đột quân sự.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ mười.</strong> Các xu hướng cơ bản trong việc phát triển vũ khí trang bị và kỹ thuật quân sự và các phương thức sử dụng đã tạo ra một động lực mới cho sự phát triển nghệ thuật quân sự. Trước hết có thể thấy khả năng cơ động cao của các phương tiện hỏa lực, chiều sâu và độ chính xác của các đòn tiến công hỏa lực cho phép các bên tham chiến tiến công trên suốt chiều sâu đội hình chiến dịch và trên toàn lãnh thổ của đối phương, nhanh chóng thay đổi hướng tiến công nhằm vào các điểm dễ bị tổn thương nhất.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Vì thế, chiến tranh trong thế kỷ XXI sẽ có tính năng động rất cao và phạm vi không gian tác chiến rất rộng lớn, trên vũ trụ, trên không, trên biển, dưới mặt biển và trên mặt đất. Để bảo toàn lực lượng chiến đấu và giảm thiểu tổn thất trước các phương tiện hỏa lực tầm xa và có độ chính xác cao, các lực lượng tác chiến phân tán lực lượng, cơ động và ngụy trang, đồng thời tập trung hỏa lực nhiều chiều vào các hướng tiến công chủ yếu bằng cách kịp thời và nhanh chóng cơ động lực lượng và phương tiện nhằm tiêu diệt mục tiêu.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Chiến tranh hiện đại có tính đặc trưng là nhanh chóng thay đổi hướng tập trung hoặc khu vực tập trung các lực lượng chủ yếu. Được trang bị vũ khí chính xác cao, bộ binh hiện nay thường không tiến hành đột phá hệ thống phòng ngự, mà tìm kiếm các khu vực dễ bị tổn thương nhất hoặc né tránh các khu vực phòng thủ mạnh, nhanh chóng cơ động lực lượng theo chính diện để kịp thời tăng cường lực lượng trên các hướng có nguy cơ bị tấn công.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trong các cuộc chiến tranh tương lai có thể sẽ không có hành động đột phá phòng ngự theo khái niệm cổ điển. Phương án hay được lựa chọn nhất là vòng tránh các lực lượng phòng thủ mạnh, hoặc sử dụng vũ khí có nguyên lý mới để đột phá hệ thống phòng ngự. Ví dụ trong các cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng xe tăng và vũ khí chống tăng có điều khiển chính xác cao thì vũ khí chống tăng thường có ưu thế hơn. Do đó, xe tăng và các phương tiện bọc thép khác được sử dụng chủ yếu để phát triển kết quả sát thương và hủy diệt của vũ khí hiện đại, để nhanh chóng cơ động lực lượng và bảo vệ bộ đội trong quá trình chiến đấu.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
</div>
<table align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="3" style="background-color: white; border: none; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><tbody style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">
<tr style="border: none; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><td align="center" style="border: none; margin: 0px auto; max-width: 488px; outline: none; padding: 0px;"><img alt="" imageid="307713" src="http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=307713&Width=450" style="border: 1px solid rgb(0, 0, 0); height: 338px; margin: 0px; max-width: 488px; min-height: 10px; min-width: 50px; outline: none; padding: 0px; width: 450px;" /></td></tr>
</tbody></table>
<span style="background-color: white; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px;"> Tàu ngầm hạt nhân là phương tiện răn đe trong bộ ba hạt nhân của các cường quốc quân sự</span><br />
<div style="background-color: white; color: #0c0c0c; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
</div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Các trận đánh và các hoạt động chiến đấu sẽ được tiến hành theo các hướng độc lập khác nhau trong đội hình chiến dịch. Các hệ thống chỉ huy, trinh sát và chiến tranh điện tử sẽ nâng cao đáng kể hiệu quả chiến đấu. Ngày nay, trinh sát và tác chiến điện tử không còn là hình thức bảo đảm chiến đấu, mà là một lực lượng chiến đấu thực sự. Trong tương lai, các lực lượng và phương tiện này sẽ là một bộ phận đặc biệt hợp thành đội hình chiến dịch. Vì thế, đó là các lực lượng và phương tiện tác chiến điện tử được các bên ưu tiên tiêu diệt đầu tiên nhằm làm giảm hiệu quả chiến đấu của đối phương.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Hiện nay, các nước công nghiệp phát triển đưa các phương tiện trinh sát, dẫn đường và truyền thông vào vũ trụ. Do đó, các biện pháp triển khai chiến tranh thông tin trong các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ sẽ tiến hành chủ yếu từ vũ trụ. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, khả năng tăng cường năng lực tác chiến của lực lượng vũ trụ quân sự sẽ ngày càng tăng.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trong điều kiện hiện đại, khi hỏa lực của vũ khí sát thương trở thành một yếu tố quyết định sự thành bại của chiến trường thì vai trò của không quân và tên lửa chiến trường sẽ tăng lên vượt bậc trong các cuộc chiến tranh và xung đột cục bộ. Quân đội các nước có công nghệ phát triển cao có khả năng tiến công trên toàn bộ lãnh thổ của đối phương và tiến công có chọn lọc vào các mục tiêu ảnh hưởng sức mạnh toàn bộ tiềm lực kinh tế - quân sự của đối phương.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Kinh nghiệm chiến tranh vùng Vịnh và chiến tranh Kosovo chứng tỏ do khả năng chiến đấu ngày càng tăng của các loại máy bay và các phương tiện tiến công đường không, nên trong chiến tranh tương lai sẽ không sử dụng các phi đoàn không quân tiến quân ồ ạt mà sẽ sử dụng các cụm máy bay tấn công ngoài đường chân trời hoặc các tốp máy bay tàng hình, máy bay không người lái kết hợp với các loại tên lửa và vũ khí thông minh. Không quân và tên lửa hiện đại có khả năng tiến công từ những khoảng cách an toàn. Do đó, bên phòng thủ phải áp dụng phối hợp nhiều phương thức khác nhau trong hoạt động phòng không. Đặc biệt, cần chú trọng bảo vệ hạ tầng cơ sở như giao thông, truyền thông và các cơ sở năng lượng, các cơ quan đầu não. Từng bước, các lực lượng phòng không cũng phải vươn đến tận vị trí xuất phát của vũ khí tiến công, mà hệ thống phòng không S-400 là một điển hình.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Thứ mười một. </strong>Hình thành loại hình chiến tranh nhằm vào hệ thống chỉ huy và điều khiển học, gọi tắt là chiến tranh chỉ huy điều khiển, bao gồm các đặc trưng sau:</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Hệ thống lãnh đạo chỉ huy có trình độ cao là "bộ não” của chiến tranh có điều khiển. Thực tiễn các cuộc Chiến tranh hiện đại đã chứng tỏ nếu bộ máy chỉ huy không có tri thức hiện đại thì không thể chỉ huy các hoạt động tác chiến với trang thiết bị hiện đại, không gian chiến trường đa dạng.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Chiến tranh có điều khiển đã đặt ra yêu cầu rất cao về trình độ tổng hợp của người chỉ huy. Một là, phải có trình độ tri thức cao. Trình độ tri thức của người chỉ huy có ảnh hưởng rất rõ đến thắng thua trong chiến tranh công nghệ cao. Hai là, có trình độ và năng lực ra quyết định độc lập cao.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Người chỉ huy hiện đại cần phải có quan điểm toàn cục và tư duy chiến lược, chiến thuật khoa học, có trình độ lý luận quân sự và lý luận quân sự phù hợp với chiến tranh thông tin, có quan điểm mới về giành thắng lợi trên chiến trường bằng chiến tranh thông tin, nắm bắt khả năng tác chiến của địch, hiểu sâu sắc năng lực thực tiễn của ta, hiểu biết sâu sắc chiến trường, có khả năng phân tích tổng hợp, khả năng xử lý thông tin cao và đưa ra những quyết định chính xác. Phải nắm được tri thức ngành công nghệ thông tin và lý luận mới về tác chiến trong môi trường thông tin, có hiểu biết cao về khoa học kỹ thuật hiện đại tương thích với tác chiến thông tin, thành thạo sử dụng công nghệ thông tin để chỉ huy tác chiến.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Quyền kiểm soát thông tin là tiêu điểm của chiến tranh có điều khiển. <br style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;" />Trong thế kỷ XXI, thông tin là nguồn tài nguyên quan trọng gắn bó với mọi hoạt động tác chiến, trở thành cơ sở vật chất của tác chiến thông tin và của mọi lĩnh vực có liên quan đến tác chiến thông tin như chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa...Trong chiến tranh có điều khiển, ai nắm được nhiều nguồn thông tin, bên đó sẽ có khả năng giành quyền chủ động trên chiến trường.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trong điều kiện chiến tranh thông thường, đối tượng chỉ huy điều khiển của hai bên tham chiến là con người và trang bị vũ khí tạo thành các đơn vị tác chiến riêng lẻ, theo các nhiệm vụ được giao. Trong chiến tranh tương lai, hai bên tham chiến phải dựa ngày càng nhiều vào thu thập, xử lý và trao đổi thông tin. Nắm quyền chủ động về thông tin chiến trường sẽ trở thành tiêu điểm giành giật của hai bên tham chiến. Chiến tranh có điều khiển sẽ được triển khai xoay quanh khả năng thu thập, kiểm soát và xử lý thông tin – mạng thông tin, ra quyết định thực hiện nhiệm vụ.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Nhất thể hóa các biện pháp tiến công "cứng” với tiến công "mềm”. Các biện pháp tác chiến cơ bản của chiến tranh có điều khiển là sử dụng tổng hợp các đòn "tiến công mềm” và "tiến công cứng”, nhằm gây nhiễu, phá hoại và làm tê liệt hệ thống điều hành các hoạt động tác chiến của đối phương.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Tiến công "phẫu thuật ngoại khoa” nhằm thực hiện các đòn đánh mang tính lựa chọn cao nhằm đúng vào các bộ phận then chốt trong hệ thống C3I của đối phương. Trong chiến dịch "’Bão táp sa mạc”, quân đội Mỹ đã xếp nhà máy điện của Iraq vào vị trí thứ 2 trong 12 cụm mục tiêu ưu tiên đánh trước và đã tiến hành những đòn tiến công bằng hỏa lực đường không quy mô lớn và mạnh mẽ vào đó, phá hoại nghiêm trọng các nhà máy điện, cắt đứt nguồn điện dùng cho toàn bộ hệ thống thông tin, truyền thông và chỉ huy của quân đội Iraq, khiến cho hệ thống chỉ huy tác chiến của quân đội Iraq hỗn loạn. Cách đánh này được gọi là tác chiến "phẫu thuật ngoại khoa” làm tê liệt hệ thống chỉ huy, hủy hoại toàn bộ khả năng phản ứng điều hành chiến tranh. <br style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;" />Tiến công mạng. Thông qua hệ thống máy tính để tiến công hệ thống C3I của đối phương. Trong chiến tranh Kosovo, đồng thời với việc dốc sức đánh trả các cuộc tiến công của NATO, Nam Tư còn mở "chiến trường thứ 2” trên mạng, thông qua mạng Internet tập kích hệ thống máy tính của NATO, làm cho một bộ phận mạng máy tính của các nước thành viên trong NATO bị rối loạn, từ đó thông tin liên lạc của quân đồng minh bị xáo trộn.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Gây nhiễu, Đánh lừa và phong tỏa thông tin, làm suy yếu và hủy hoại khả năng trực tiếp thu thập, đánh giá và trao đổi thông tin chiến trường của đối phương. Trong cuộc Chiến tranh Kosovo, cả NATO và Nam Tư đặc biệt coi trọng nhiệm vụ chế áp thông tin. Trong toàn bộ quá trình tác chiến, các bên đã sử dụng các phương thức kỹ thuật để tung vào hệ thống truyền thông khối lượng khổng lồ thông tin giả và chế áp, bảo mật nghiêm ngặt mọi nguồn thông tin.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Hệ thống C4I2 là trụ cột của chiến tranh có điều khiển. Hệ thống C4I2 là hạt nhân của chiến tranh có điều khiển. Trong Chiến tranh Kosovo, Nam Tư có 15 máy bay Mig-29, trong vòng 3 ngày đã bị NATO bắn rơi 5 chiếc. Nguyên nhân chủ yếu là vì NATO có hệ thống C4IRS tiên tiến, có thể phát hiện kịp thời các máy bay của Nam Tư và nhanh chóng điều máy bay đến đánh chặn. Trên chiến trường hiện đại, tác dụng của các loại vũ khí hiện đại ngày càng suy giảm. Hoạt động đối kháng giữa hệ thống vũ khí với hệ thống vũ khí trang bị của đối phương đã trở thành đặc điểm quan trọng trên chiến trường kỹ thuật cao tương lai.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Chỉ có thông qua hệ thống tự động hóa chỉ huy tác chiến mới có thể liên kết các hệ thống vũ khí lại với nhau tạo thành một chỉnh thể hoàn hảo vận hành linh hoạt, phát huy triệt để hiệu quả liên kết phối hợp lớn nhất của vũ khí hiện đại. Hệ thống C4I2 còn là hạ tầng công nghệ không thể thay thế được trong việc nắm quyền kiểm soát thông tin chiến trường và nâng cao vượt bậc khả năng phản ứng nhanh, diễn biến linh hoạt trên chiến trường. Sử dụng các phương tiện hỗ trợ ra quyết định thông minh, tự động hóa vừa có thể phát huy ưu thế của con người, lại có thể phát huy tác dụng to lớn của kỹ thuật cao, nâng cao tốc độ, chất lượng của quyết tâm chiến đấu của người chỉ huy.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px;">
<span class="pBody" style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Những mưu đồ chính trị và ý đồ chiến lược, chiến thuật là yếu tố nhân bội sức mạnh trong chiến tranh có điều khiển. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh việc triển khai các thủ đoạn và sức ép chính trị trước, triển khai binh lực sau vẫn là một chân lý phổ biến. Chiến tranh có điều khiển là cuộc "chiến tranh trí tuệ” trong chiến tranh công nghệ cao, nên việc đối kháng mưu lược trong chỉ huy càng quyết liệt và quan trọng. Các cuộc chiến tranh cục bộ vừa qua chứng tỏ mưu lược là yếu tố nhân bội sức mạnh trong chiến tranh có điều khiển.</span></div>
<div class="pBody" style="background-color: white; font-family: Arial; font-size: 12px; line-height: 18px; margin-bottom: 1em; outline: none; padding: 0px; text-align: right;">
<strong style="margin: 0px; outline: none; padding: 0px;">Trịnh Thái Bằng</strong></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-11409894294123483782013-08-26T18:26:00.000-07:002013-08-26T18:26:09.504-07:00Trung Quốc đang lo ngại mất “con bài” Campuchia vào tay phương Tây?<h2 class="posttitle" style="background-color: white; color: #2854bb; font-family: Arial, Helvetica, Tahoma, sans-serif; font-size: 18px; line-height: 20px; margin: 0px 0px 10px; padding: 0px;">
Trung Quốc đang lo ngại mất “con bài” Campuchia vào tay phương Tây?</h2>
<div>
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; text-align: justify;">Bắc Kinh hiểu rằng bất ổn chính trị của Campuchia không những ảnh hưởng đến ổn định khu vực, mà còn gây cản trở đến chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc trong ASEAN. Hơn nữa, nếu không ngăn chặn được sự trỗi dậy của phe đối lập (cụ thể là CNRP) thì nó sẽ để lại hệ quả không khác gì phong trào Cách mạng Mùa xuân Ả-rập ở Trung Đông (Arab Spring).</span></div>
<div>
<span style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; text-align: justify;"><br /></span></div>
<div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị vừa kết thúc chuyến thăm chính thức hai ngày (21-22/8) tới Vương quốc Campuchia. Chuyến thăm này diễn ra trong bối cảnh Cappuchia vừa mới trải qua một cuộc bầu cử quốc hội gây nhiều tranh cãi với thắng lợi không thực sự thuyết phục của đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của ông Hun Sen trước đảng Cứu quốc Campuchia của ông Sam Rainsy.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Bên cạnh đó, chuyến công du Phnom Penh của Vương Nghị cũng trùng với dịp kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Campuchia – Trung Quốc.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Tại cuộc tiếp xúc với người đồng nhiệm bên phía Campuchia Hor Nam Hong, Ngoại trưởng Vương Nghị cam kết sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa quan hệ song phương, đồng thời Trung Quốc sẽ tiếp tục trợ giúp cho Campuchia về phát triển kinh tế, xã hội và ngăn chặn “những sự nhiễu loạn của các phần tử bên ngoài”.</div>
<div class="wp-caption aligncenter" id="attachment_207687" style="background-color: #f7f7f7; border: 1px solid rgb(230, 230, 230); color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; margin: 0px auto 10px; max-width: 580px !important; padding: 4px 0px 5px; text-align: justify; width: 561px;">
<img alt="" class="size-full wp-image-207687" height="399" src="http://static9.nguyentandung.org/files/2013/08/vuong-nghi-hunsen-1.jpg" style="border: 0px; height: auto; margin: 0px 5px 5px; max-width: 570px; padding: 0px;" width="551" /><div class="wp-caption-text" style="font-size: 12px; line-height: 18px; padding: 0px 5px; text-align: center;">
Thủ tướng Campuchia Hunsen tiếp Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị.</div>
</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Ông Nghị cũng hối thúc Thủ tướng Campuchia Hun Sen nhanh chóng giải quyết những bất đồng về chính trị sau cuộc bầu cử Quốc hội vừa qua của nước này để thành lập một chính phủ mới. Nhìn từ góc độ khác, ẩn sâu bên trong chuyến thăm của Ngoại trưởng Vương Nghị, Trung Quốc còn có những mục tiêu chính trị khác trong quan hệ với Campuchia.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Từ lâu, Campuchia được coi là một trong những đối tác quan trọng nhất của Trung Quốc trong ASEAN. Trong 20 năm qua, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất tại Campuchia với 9.17 tỉ USD để viện trợ và đầu tư vào nước này. Bằng khoản tiền khổng lồ đó, Trung Quốc đã gây áp lực lên Campuchia về mặt chính trị để qua đó tạo được lợi thế trong quan hệ với các quốc gia ASEAN.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Phnom Penh đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Bắc Kinh tạo ảnh hưởng đến các nước khác trong các vấn đề khu vực, nhất là vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Tuy nhiên, trong bối cảnh mà Myanmar – một đối tác quan trọng khác của Trung Quốc trong khu vực – lại đang ngả dần về phía các nước phương Tây sau những cải cách gần đây về mặt chính trị, cộng thêm việc Tổng thống Mỹ Obama vừa có chuyến thăm tới Phnom Penh hồi cuối năm 2012 với mục đích đẩy mạnh quan hệ Mỹ-Campuchia, rõ ràng Trung Quốc không muốn để mất con bài Campuchia vào tay phương Tây.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Thời gian vừa qua, đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) liên tục khiếu kiện về chiến thắng của CPP trong cuộc bầu cử Quốc hội, đồng thời kêu gọi tiến hành một cuộc kiểm phiếu lại dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc, tuy nhiên phía CPP đã từ chối yêu cầu của phe đối lập.</div>
<div class="wp-caption aligncenter" id="attachment_207686" style="background-color: #f7f7f7; border: 1px solid rgb(230, 230, 230); color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; margin: 0px auto 10px; max-width: 580px !important; padding: 4px 0px 5px; text-align: justify; width: 560px;">
<img alt="" class="size-full wp-image-207686" height="409" src="http://static9.nguyentandung.org/files/2013/08/vuong-nghi-hunsen-2.jpg" style="border: 0px; height: auto; margin: 0px 5px 5px; max-width: 570px; padding: 0px;" width="550" /><div class="wp-caption-text" style="font-size: 12px; line-height: 18px; padding: 0px 5px; text-align: center;">
Ông Hunsen và ông Tập Cận Bình.</div>
</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Điều này có thể dẫn đến khả năng bế tắc chính trị ở Campuchia với việc CNRP đòi tẩy chay Quốc hội mới và chính phủ mới, thậm chí tình hình sẽ có thể xấu hơn nữa với các cuộc biểu tình lớn nếu như kết quả bầu cử không được xem xét lại.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Bắc Kinh hiểu rằng bất ổn chính trị của Campuchia không những ảnh hưởng đến ổn định khu vực, mà còn gây cản trở đến chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc trong ASEAN. Hơn nữa, nếu không ngăn chặn được sự trỗi dậy của phe đối lập (cụ thể là CNRP) thì nó sẽ để lại hệ quả không khác gì phong trào Cách mạng Mùa xuân Ả-rập ở Trung Đông (Arab Spring).</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Bắc Kinh không hề mong muốn điều này xảy ra vì một khi phong trào dân chủ ở Campuchia phát triển, nó có thể kéo theo sự can thiệp và gia tăng ảnh hưởng mạnh hơn của Mỹ và phương Tây trong khu vực.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Do đó, việc ông Vương Nghị hối thúc ông Hun Sen nhanh chóng thành lập chính phủ mới cho thấy dù không can thiệp vào nội bộ chính trị của Campuchia, nhưng trong thâm tâm Trung Quốc không muốn để “mất” Campuchia chỉ vì những bất ổn chính trị của nước này.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Về phía CPP, dù giành thắng lợi trong cuộc bầu cử này nhưng ông Hun Sen và đảng CPP phải đối mặt với nhiều bất lợi trong nước và mất đi sự ủng hộ của phương Tây. Trong bối cảnh đó, chuyến thăm của Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị như là một liều thuốc làm gia tăng hơn nữa sự tự tin của CPP khi ông Hun Sen biết có sự ủng hộ của Trung Quốc phía sau.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Tuy nhiên việc dựa vào Trung Quốc cũng có những giới hạn nhất định. Bên cạnh các yếu tố như kinh tế xã hội, kết quả của cuộc bầu cử vừa qua còn là sự thể hiện thái độ bất mãn của người dân Campuchia trước việc chính phủ Hun Sen để cho Trung Quốc thao túng quá nhiều về mặt kinh tế và chính trị của nước này trong những năm qua.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Biểu hiện rõ nhất là sự ủng hộ của Campuchia đối với Trung Quốc tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN hồi tháng 7/2012, khiến lần đầu tiên trong lịch sử của mình ASEAN không thể đưa ra được tuyên bố chung.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Do đó, sau chuyến thăm của ông Vương Nghị, ông Hun Sen đang phải đối mặt với một bài toán khó là có nên tiếp tục dựa vào Trung Quốc trong thời điểm này hoặc giải tỏa mối lo ngại của công chúng Campuchia về việc bị Trung Quốc thao túng bằng cách tăng cường hơn nữa quan hệ với phương Tây hay không.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Hiện tại hãy còn quá sớm để nói về một sự thay đổi lớn trong quan hệ Trung Quốc – Campuchia. Và với chuyến thăm của Vương Nghị, Trung Quốc đã cho thấy sự cảnh giác của họ trước tình hình chính trị phức tạp tại Campuchia hiện nay và không muốn mất ảnh hưởng của mình tại đây với nhiều hệ lụy xấu đi kèm.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
Còn với ông Hun Sen, cuộc bầu cử vừa rồi cùng với chuyến thăm của ông Nghị như là một lời cảnh tỉnh với CPP rằng nếu không điều chỉnh quan hệ với Bắc Kinh một cách hợp lý thì uy tín của của CPP cả ở trong nước lẫn ngoài quốc tế sẽ tiếp tục bị suy giảm.</div>
<div style="background-color: white; color: #222222; font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 14px; line-height: 22.390625px; padding: 0px 0px 10px; text-align: justify;">
(BGD)</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-20129224121389353712013-08-06T09:23:00.002-07:002013-08-06T09:23:46.513-07:00Nhật Bản trong lòng Châu Á<h2 class="entry-title" style="background-color: white; border: 0px; clear: both; font-family: 'Helvetica Neue', Arial, Helvetica, 'Nimbus Sans L', sans-serif; font-size: 21px; line-height: 1.3em; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/2013/06/21/japan-in-asia/" rel="bookmark" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #ff4b33; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none; vertical-align: baseline;">Nhật Bản trong lòng Châu Á</a></h2>
<div>
<br /></div>
<div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nguồn:</b> Green, Michael (2008). “Japan in Asia”, in David Shambaugh & Michael Yahuda (eds), <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">International Relations of Asia</i> (Maryland: Rowman & Littlefield Publishers), pp. 170-191.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Biên dịch:</b> Đinh Nguyễn Lan Hương | <b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hiệu đính:</b> Lê Hồng Hiệp</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<strong style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Download:</strong> <strong style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><a href="http://nghiencuuquocte.files.wordpress.com/2013/06/nghiencuuquocte-net-20-nhat-ban-trong-long-chau-a.pdf" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nhat Ban trong long Chau A.pdf</a></strong></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trong bài luận vào cuối thời kỳ Tokugawa, <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Lý luận của ba kẻ say về Chính phủ</i>, Nakae Chomin đã hình dung ra một vị chủ nhà vào một buổi tối đã cùng hai người bạn rượu của mình tranh cãi trong hơi men về tương lai của Nhật Bản ở châu Á. Một trong hai bạn rượu của ông ta là một “quý ông Tây học”, ăn mặc theo phong cách phương Tây và ca tụng những ưu điểm của dân chủ, quyền cá nhân và phát triển kinh tế. Người kia mặc quần áo truyền thống của một <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">samurai</i> và bảo vệ cho chiến lược chính trị hiện thực của việc bành trướng quân sự nhằm hất cẳng Trung Quốc và nước Anh địch thủ, trở thành một thế lực đế quốc có sức ảnh hưởng lớn ở châu Á. Cuối cùng, vị chủ nhà đã kết luận rằng Nhật Bản phải cân bằng cả hai, phải nắm lấy tri thức phương Tây và phát triển kinh tế đồng thời mở rộng thế lực của Nhật Bản tại châu Á. Kết luận này đã khiến người đọc ý thức sâu sắc về mâu thuẫn không giải quyết được giữa hai tầm nhìn tương lai của Nhật Bản nổi lên trong giai đoạn xuất hiện những Con tàu đen của Thuyền trưởng Perry và cải cách Minh Trị này.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">1</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tìm kiếm chiến lược</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Ít có quốc gia nào trong lịch sử dằn vặt với sự ngờ vực chính chiến lược quốc gia của mình như Nhật Bản. Càng có ít đất nước kiên định với lợi ích quốc gia hoặc ý thức sâu sắc về các mối quan hệ quyền lực xung quanh họ như đất nước này. Đối với Nhật Bản, những yếu tố giúp định hướng chiến lược quốc gia về cơ bản vẫn y hệt như thời kỳ <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Lý luận của ba kẻ say về Chính phủ</i>: theo đuổi quyền tự trị và vị thế được tôn trọng trong hệ thống quốc tế dựa trên sự tính toán về sức mạnh địa chính trị của Trung Quốc (cùng với Triều Tiên như là một chất xúc tác khác) và sự chung sống với cấu trúc quyền lực quốc tế hiện hành.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">2</span> Mặc dù các yếu tố định hướng này đã không đổi trong suốt lịch sử Nhật Bản hiện đại, các công cụ được sử dụng lại đa dạng một cách đáng ngạc nhiên.<span id="more-212" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></span> Trên thực tế, Nhật Bản đã tự cách tân bản thân ở những giai đoạn khác nhau trong lịch sử để tối đa hóa nguồn lực sức mạnh quốc gia và quyền tự trị tương đối của mình phù hợp với bối cảnh hệ thống quốc tế trong từng giai đoạn. Có lúc, Nhật Bản đã đi theo con đường của quý ông Tây học; khi khác thì lại đi theo con đường của một quý ông truyền thống.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Vào cuối thế kỷ 19, các nhà lãnh đạo thời Minh Trị đưa ra chiến lược dựa trên khẩu hiệu bốn chữ <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">fukukoku kyohei</i> hay “phú quốc/cường binh”, vận dụng Tây học để xây dựng quốc gia cường thịnh và từ đó tạo ra một lực lượng hải quân và quân đội hiện đại. Kết quả thật đáng kinh ngạc, từ năm 1860 đến năm 1938, tỉ lệ GDP của Nhật Bản trong GDP thế giới tăng từ mức chỉ 2,6% lên 3,8%; trong khi Nhật Bản đã khẳng định bản thân mình là một đối thủ tranh giành sự thống trị một nửa thế giới.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">3</span> Việc đánh bại Trung Quốc năm 1895 và Nga năm 1905 đã truyền sức mạnh cho các nhà dân tộc chủ nghĩa trẻ và những người chống chủ nghĩa đế quốc trên toàn châu Á; và các nhà chiến lược Nhật Bản đã phôi thai nên một chủ nghĩa Liên Á mang tính lý tưởng chủ nghĩa dựa trên kinh nghiệm của chính Nhật Bản về<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">wakon/yosai</i><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">,</i> hay còn gọi là “tinh thần Nhật Bản và Tây học”. Chủ nghĩa lý tưởng Liên Á đó đã sớm nhường chỗ cho một trật tự đế quốc chủ nghĩa xấu xí hơn gấp nhiều lần mà cơ sở là hệ thống thứ bậc truyền thống của châu Á cùng một sự kết hợp đầy nguy hiểm giữa tâm lý mất an ninh chống lại phương Tây cộng với sự áp bức dựa trên sức mạnh ưu việt chống lại các quốc gia phương Đông. Nhật Bản cũng đã mắc sai lầm khi liên minh với Đức Quốc xã khi nhầm lẫn về các xu thế trong cấu trúc quyền lực thế giới. Kết quả là một thảm họa cho cả Nhật Bản lẫn châu Á.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Sau chiến tranh, Nhật Bản buộc phải thích nghi với cấu trúc quyền lực thế giới mới dưới sự ảnh hưởng của đế quốc Mỹ và sắp xếp lại các thể chế của mình để tối đa hóa sức mạnh và quyền tự trị của Nhật Bản trong bối cảnh mới. Dưới sự cai trị đầy khéo léo của Thủ tướng Yoshida Shigeru, Nhật Bản đã tiếp nhận các thể chế dân chủ và thiết lập quan hệ liên minh với Mỹ, đồng thời đảm bảo rằng Điều 9 Hiến pháp về chủ nghĩa hòa bình được thể chế hóa trong luật pháp và chính sách quốc gia nhằm không rơi vào cái bẫy chiến lược Chiến tranh lạnh của Mỹ. Nhật Bản chỉ xây dựng quốc phòng ở mức tối thiểu để duy trì cam kết quân sự với Mỹ đồng thời tập trung vào việc khôi phục kinh tế và theo đuổi mối quan hệ mới với châu Á – bao gồm cả Trung Quốc – dựa trên thương mại.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh, nhiều nhà chiến lược Nhật Bản bắt đầu tranh luận rằng mô hình mới về phát triển kinh tế của Nhật Bản đã vượt qua chủ nghĩa tư bản truyền thống và sẽ đưa Nhật Bản vào vị trí của một chủ thể có sức ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 21, tự do theo đuổi các chính sách đối ngoại “độc lập” và định hình một trật tự kinh tế châu Á mới mà không có các công cụ quân sự truyền thống, đồng thời liên minh với siêu cường độc nhất trên thế giới nhưng không phụ thuộc vào nó. Tuy nhiên, viễn cảnh này đã bị phá vỡ vào những năm 1990 khi Nhật Bản lặng im không hành động trong suốt Chiến tranh Vùng Vịnh, đánh mất mô hình kinh tế khả tín sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng, không thể tận dụng sự phục thuộc lẫn nhau về kinh tế nhằm định hình sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc về quân sự và chiến lược, và bị đe dọa bởi một Bắc Triều Tiên theo đuổi phát triển vũ khí hạt nhân. Sau gần một thập kỷ dao động và không chắc chắn, Nhật Bản bắt đầu lấy lại niềm tin với Thủ tướng Koizumi Junichiro (2001-2006) và thu hút sự chú ý của thế giới với một sự quyết đoán mới về an ninh quốc tế và nới lỏng những ràng buộc hậu chiến truyền thống liên quan đến Điều 9 Hiến pháp. Nhưng sau đó, chiến lược quốc gia của Nhật dường như lại tiếp tục trở nên thiếu rõ ràng khi người kế nhiệm Koizumi, Abe Shinzo, đã vướng phải những vấp váp chính trị vào năm 2007.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Việc tìm kiếm chiến lược của Nhật Bản đã làm phức tạp và phong phú thêm các thuyết về quan hệ quốc tế. Những người theo chủ nghĩa hiện thực cấu trúc truyền thống như Henry Kissinger và Herman Kahn đã lập luận rằng không thể tưởng tượng được Nhật Bản lại có thể phát triển sức mạnh kinh tế mà không thiết lập sức mạnh quân sự bao gồm cả vũ khí hạt nhân tương xứng.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">4</span> Những người theo chủ nghĩa kiến tạo như Peter Katzenstein đã phát triển những lý thuyết có thể khái quát hóa được xung quanh ví dụ về Nhật Bản bằng cách cho rằng văn hóa chính trị Nhật Bản thực sự đã thay đổi do chủ nghĩa hòa bình được củng cố thông qua các chuẩn tắc hậu chiến và các thể chế dựa trên Điều 9 Hiến pháp.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">5 </span>Các thuyết xét lại của ngành kinh tế chính trị quốc tế đã nở rộ trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 với ý tưởng rằng trên thực tế Nhật Bản đã xây dựng một mô hình mới về tăng trưởng kinh tế theo hướng pha trộn công nghệ và chủ nghĩa dân tộc cùng các mạng lưới sản xuất ở châu Á.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">6</span>Richard Samuels và Eric Heginbotham đã quay trở lại với các thuyết hiện thực về quan hệ quốc tế để cho rằng hành vi của Nhật Bản là theo chủ nghĩa hiện thực, nhưng dựa trên tư tưởng chủ nghĩa hiện thực “trọng thương” mới hơn là các khái niệm lấy sức mạnh quân sự làm trọng tâm truyền thống của thuyết tân hiện thực hay các biến thể khác gần đây của lý thuyết kinh tế.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">7</span> Tôi đã lập luận trong bài <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Japan’s Reluctant Realism</i> <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[Chủ nghĩa hiện thực miễn cưỡng của Nhật Bản]</i> năm 2001 rằng văn hóa chiến lược của Nhật Bản đang chuyển từ chủ nghĩa hòa bình truyền thống và bị động sang hành vi cân bằng quyền lực rõ ràng hơn nhằm ứng phó với sự gia tăng những đe dọa từ bên ngoài cũng như thất bại của các công cụ kinh tế truyền thống trong việc giúp nước này tăng cường an ninh.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">8</span> Trong nghiên cứu quan trọng về lịch sử và sự hồi sinh của tư tưởng chiến lược Nhật Bản, Kenneth Pyle đã đưa ra luận điểm rất thuyết phục vào năm 2007 rằng Nhật Bản luôn luôn theo chủ nghĩa hiện thực và đang ngược lại quá khứ theo nhiều khía cạnh bởi nó đang muốn đòi lại quyền lợi của mình ở châu Á.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">9</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Điều nổi lên từ các nghiên cứu khác nhau về tư tưởng chiến lược Nhật Bản là quá trình rõ ràng trong việc thử nghiệm và khám phá những công cụ cho phép Nhật Bản tối đa hóa quyền tự trị và quyền lực theo hai yếu tố định hướng được nêu trước đó: tính toán sức mạnh địa chính trị của Trung Quốc (và Triều Tiên) và sự chung sống với cấu trúc quyền lực quốc tế hiện hành. Nhưng các thể chế và chuẩn tắc của Nhật vẫn cứng nhắc và không linh hoạt, gây khó khăn cho việc tìm kiếm một chiến lược mới ngay cả khi các nhà lãnh đạo Nhật Bản nỗ lực một lần nữa để sắp xếp lại bộ công cụ của mình khi mà bối cảnh địa chính trị châu Á đang bước vào một giai đoạn bất ổn.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Phần còn lại của chương này sẽ nói rõ hơn về bộ công cụ đó, đánh giá những gì đã hoặc không có hiệu quả đối với Nhật Bản trong bối cảnh châu Á ngày nay và những yếu tố nào có khả năng là tiêu biểu nhất cho chiến lược của Nhật Bản trong những năm tiếp theo. Chương này được chia thành năm phần. Phần một bắt đầu với việc xem xét những công cụ được coi là hứa hẹn nhất cho tới cách đây một thập kỷ – mối quan hệ gần gũi với Trung Quốc và vai trò lãnh đạo về kinh tế trong việc mang lại một trật tự mới cho khu vực – và cách thất bại trong những lĩnh vực này đã thay đổi chiến lược của Nhật Bản và việc sử dụng những công cụ đó ngày nay như thế nào. Phần hai sẽ xem xét sự quay trở lại của Nhật Bản với trọng tâm chiến lược của nó ở châu Á: liên minh với Mỹ, các cơ hội và sự phức tạp mà liên minh này mang lại. Phần thứ ba khảo sát chiến lược cân bằng của Nhật Bản ở châu Á trong ba lĩnh vực. Phần thứ tư đánh giá chiến lược của Nhật Bản trong việc định hình sự hội nhập và xây dựng thể chế ở khu vực. Phần thứ năm xem xét lại những vấn đề lịch sử để lại, tại sao giới lãnh đạo Nhật Bản lại gặp khó khăn trong việc giải quyết chúng, và đâu là những lĩnh vực mà những vấn đề đó làm hoặc không làm phương hại ảnh hưởng của Nhật Bản. Cuối cùng, chương này sẽ kết thúc với việc xem xét lại những biến số có thể khiến Nhật Bản đi theo một hướng khác bằng một bộ công cụ hoàn toàn khác so với bộ công cụ đã được xem xét ở đây.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nhân tố Trung Quốc</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Khi Nhật Bản trỗi dậy từ đống tro tàn của Thế chiến thứ hai và chuẩn bị tái hòa nhập với cộng đồng quốc tế, giới tinh hoa theo xu hướng bảo thủ đã đưa ra những ý kiến khác nhau về việc một Nhật Bản dân chủ hóa hoàn toàn mới sẽ đóng một vai trò như thế nào. Một số quan chức cũ của Bộ Công thương, như Kishi Nobusuke, muốn liên minh chặt chẽ với Mỹ để chống lại chủ nghĩa cộng sản, thậm chí hợp tác [với Mỹ] sau chiến tranh Triều Tiên nhằm biến Nhật Bản trở thành một kho vũ khí ở châu Á. Trong khi đó, những người khác, như lãnh đạo Đảng Dân chủ Hatoyama Ichiro, lại muốn độc lập hơn với Mỹ thông qua việc ký một Hiệp ước Hòa bình với Nga (đến thời điểm hiện tại vẫn chưa ký) và sửa đổi lại Hiến pháp Nhật Bản. Nhưng các bên khác vẫn muốn tránh việc tăng cường quân đội vì lo sợ điều này sẽ đưa Nhật Bản đi theo lối mòn chiến tranh một lần nữa. Các phe phái khác nhau này đã được kéo vào cùng một liên minh cầm quyền bởi Yoshida Shigeru, người đã đưa ra một chiến lược đơn giản cho Nhật Bản vốn gom tất cả những chính trị gia theo xu hướng bảo thủ vào cùng một mái nhà và đảm bảo rằng liên minh đó sẽ thống trị nền chính trị Nhật Bản và gạt những người theo tư tưởng xã hội và cộng sản ra lề trong suốt nửa thế kỷ tới.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tuy nhiên, bên dưới mái nhà bảo thủ đó cũng có những ý kiến trái chiều về châu Á và đặc biệt là Trung Quốc. Yoshida đã đưa ra quan điểm chính xuyên suốt căn cứ trên một giả định sáng suốt rằng Trung Quốc cộng sản cuối cùng cũng dứt ra khỏi Liên Xô và xích lại gần Nhật Bản vì lý do thương mại. Trong khi những người bảo thủ “chống lại quan điểm chính thống này” tiếp tục ủng hộ Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan), những người thuộc phe Yoshida đã đảm bảo rằng Nhật Bản sẽ tránh vướng vào vấn đề an ninh của Đài Loan hoặc đối đầu với Bắc Kinh theo ủy quyền của Mỹ. Thủ tướng Sato Eisaku đã đồng ý trong một bản tuyên bố chung với Tổng thống Nixon rằng Nhật Bản có lợi ích trong việc đảm bảo ổn định eo biển Đài Loan vào năm 1969, nhưng ông làm vậy chỉ bởi muốn có được cam kết của Nixon trong việc trả lại chủ quyền Okinawa cho Nhật Bản. Không có bước tiếp theo nào trong quốc phòng hay chiến lược đối ngoại. Trên thực tế, trong cùng thời điểm, Nhật Bản đã âm thầm mở rộng quan hệ kinh tế với Trung Quốc thông qua quan hệ thương mại bán chính thức “L-T” (Liao Chengzhi và Tatsunosuke Takasaki), và sau chuyến thăm năm 1972 của Kissinger đến Trung Quốc, Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Kakuei đã ngay lập tức bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh (tròn bảy năm trước khi Washington thực hiện điều này). Năm 1978, Nhật Bản và Trung Quốc đã ký Hiệp ước Hữu nghị, cho phép Trung Quốc bắt đầu các khoản vay bằng đồng yên, vốn được Nhật Bản coi là viện trợ, còn Bắc Kinh lại coi đó là khoản đền bù chiến tranh của Nhật cho Trung Quốc (lên tới hơn 1 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm cao nhất đầu những năm 1990). Nhật Bản cũng đóng vai trò môi giới để giúp Trung Quốc và phương Tây hàn gắn lại với nhau sau sự kiện Thiên An Môn ngày 6/4/1989, phá vỡ chế độ trừng phạt của phương Tây đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh Houston năm 1990. Sự tiên đoán của Yoshida chính xác một cách kỳ lạ, và những trí thức Nhật Bản bắt đầu ủng hộ cho một mối quan hệ tay ba “cân bằng” hơn giữa Bắc Kinh, Washington và Tokyo.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tuy nhiên, giữa những năm 1990, mối quan hệ giữa Nhật Bản với Trung Quốc đột nhiên bắt đầu thay đổi. Yoshida đã đúng về mức độ phụ thuộc lẫn nhau của kinh tế Trung-Nhật, nhưng ông không lường trước được những khó khăn trong việc dùng sự phụ thuộc lẫn nhau này để định hình hành vi ứng xử của Trung Quốc. Bước ngoặt đã xảy ra vào ngày 15/5/1995, khi Trung Quốc thử nghiệm vũ khí hạt nhân tại cơ sở Lop Nor. Các nhà ngoại giao Nhật Bản đã cảnh báo rằng mối quan hệ kinh tế Trung – Nhật và việc cho vay bằng đồng yên sẽ bị ảnh hưởng bởi cuộc thử nghiệm này, và các đảng phái chính trị Nhật Bản dù theo xu hướng gì cũng đều chỉ trích Bắc Kinh. Nhưng các cuộc thử nghiệm vẫn được tiến hành. Tháng 3/1996, Trung Quốc đã bắn tên lửa xung quanh đảo Đài Loan. Tháng 4 năm đó, Nhật Bản và Mỹ đã tái khẳng định liên minh Mỹ-Nhật trong Tuyên bố an ninh chung giữa Thủ tướng Hashimoto Ryutaro và Tổng thống Bill Clinton, và Tokyo đã đồng ý sửa đổi đường lối quốc phòng để lên kế hoạch không chỉ cho những bất trắc trong Chiến tranh Lạnh xuất phát từ việc Liên Xô có thể tấn công trực diện vào Nhật Bản, mà còn cho “những tình huống xảy ra xung quanh Nhật Bản gây ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh nước này”. Trong suốt thập kỷ tiếp theo, sự cạnh tranh Trung-Nhật đã trở thành một đặc điểm không thể nhầm lẫn trong quan hệ quốc tế châu Á.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Những kinh nghiệm từ những năm 1990 đã cho công chúng và lãnh đạo Nhật Bản thấy các ý định của Trung Quốc không chắc chắn như thế nào và việc Nhật Bản thiếu trang bị ra sao trong việc định hình hành vi ứng xử của Trung Quốc: các công cụ kinh tế kém hiệu quả so với dự kiến và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc lên đến hai con số một lúc trong khi Nhật Bản rơi vào tình trạng giảm phát kéo dài và không thể vượt được mức tăng trưởng 2% mỗi năm ngay cả trong kịch bản tốt nhất. Các mối đe dọa ngoại giao và quân sự cụ thể cũng gia tăng trong thập kỷ tiếp theo. Sách trắng quốc phòng Nhật Bản tăng dần mức độ cảnh báo của mình về việc Trung Quốc tăng cường quân đội, với lưu ý trong năm 2007 rằng Trung Quốc đã nắm giữ một “con số đáng kể” các IRBM/MRBM (tên lửa đạn đạo tầm trung-xa/ tầm trung) có thể nhắm tới Nhật Bản, bao gồm DF-3 và DF-21, cùng với các chương trình phát triển tên lửa hành trình, tàu ngầm mới và một kho máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư đang gia tăng bao gồm J-10, Su-27 và Su-30.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">10</span> Một tàu ngầm Trung Quốc đã đi vòng quanh Nhật Bản vào năm 2004 và sau đó đã xâm nhập vào lãnh hải Nhật Bản năm 2005, và 3 tàu khu trục Trung Quốc đã chĩa nòng súng vào máy bay tuần tra P-3C của Nhật Bản vốn đang giám sát các hoạt động xung quanh đảo Điếu Ngư vào năm 2005.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">11</span> Trên mặt trận ngoại giao, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã vận động hành lang khắp châu Á và châu Phi vào năm 2005 nhằm chống lại những nỗ lực của Nhật Bản trong việc giành ghế tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dựa trên “đồng thuận” rằng Nhật Bản không chịu chuộc lại lỗi lầm của mình trong Thế chiến thứ hai.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Những thay đổi trong chính trị nội bộ của Nhật Bản đều vừa làm phức tạp thêm, vừa bị thúc đẩy bởi những diễn biến này. Mối quan hệ Trung-Nhật trong suốt Chiến tranh Lạnh được gìn giữ bởi các phe theo quan điểm chính thống của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) và đặc biệt là phe của Thủ tướng Tanaka, lãnh đạo Đảng từ năm 1972 đến năm 1993 và đã duy trì sự tập trung vào việc phát triển kinh tế Nhật Bản mà không bị chi phối bởi vấn đề ý thức hệ. Cấu trúc chính trị Nhật Bản phản ánh cấu trúc của Chiến tranh Lạnh, và với sự sụp đổ của Liên Xô, phe cánh tả của Nhật Bản đã nhanh chóng thoái trào, và phe của Tanaka vốn trước kia chiếm ưu thế giờ dần dần đánh mất vai trò vào tay các chính trị gia bảo thủ thế hệ trẻ ở cả Đảng Dân chủ Tự do và Đảng Dân chủ đối lập mới của Nhật Bản, những người ủng hộ các chính sách quyết đoán và không xin lỗi của Hatoyama và Kishi. Với thế hệ mới này, đối đầu với Trung Quốc đã trở thành một vấn đề không chỉ thuộc về an ninh quốc gia mà còn là bản sắc dân tộc.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc cũng đã đấu tranh với một Nhật Bản mà nó không lường trước được. Năm 1978, Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị được cho là đã khép lại mối quan hệ song phương dựa trên bản án của Tòa án tội phạm chiến tranh Tokyo. Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân đã tuyên bố trong chuyến thăm thất bại đến Tokyo vào tháng 10 năm 1998, rằng đây không phải là vấn đề chấp nhận lời xin lỗi của Nhật Bản, mà là Nhật Bản phải mãi mãi cảm thấy hối hận.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">12</span> Thực tế, sau Hiệp ước năm 1978, Bắc Kinh thấy rằng có thể vận động cánh tả và trung tả ở Nhật Bản chống lại những nỗ lực sửa đổi sách giáo khoa hoặc các chuyến thăm chính thức đến đền Yasukuni, nơi vinh danh những người đã chết trong chiến tranh của Nhật Bản (bao gồm 13 tội phạm chiến tranh loại A). Nhưng theo những gì Chủ tịch Giang Trạch Dân nhận thấy trong suốt chuyến thăm đến Tokyo năm 1998, quan điểm chính lưu đang dịch chuyển khỏi Trung Quốc, và Bắc Kinh càng gây áp lực kiềm chế với các vấn đề lịch sử nhạy cảm, công luận Nhật Bản lại càng ủng hộ một vị Thủ tướng kiên quyết, người có thể tiếp tục hành động bất chấp những áp lực từ Trung Quốc. Khả năng hai chính phủ và hai hệ thống chính trị có thể xử lý các vấn đề này đã ở mức tệ nhất trong năm 2005-2006. Thủ tướng Koizumi nhậm chức năm 2001 mà không hề có chương trình nghị sự nào chống đối Trung Quốc và đã tiến hành chuyến thăm đến cầu Lư Câu (Marco Polo) nơi cuộc chiến Trung-Nhật nổ ra năm 1937 để bày tỏ sự hối tiếc của mình. Nhưng ông cũng hứa với Hiệp hội các gia đình có người thân chết trong chiến tranh (Izzokai) trong một cuộc gặp đầy nước mắt rằng ông sẽ đến đền Yasukuni để bày tỏ sự tôn kính với những người thân của họ đã chết trong chiến tranh. Trung Quốc đã giận dữ và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cố gắng thuyết phục Koizumi đừng đi đến đó khi hai nước đang ở thời điểm cận kề Hội nghị thượng đỉnh Bangdung năm 2005.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">13</span>Nhưng Koizumi đã hứa chỉ thực hiện “điều nên làm” – có nghĩa là ông vẫn sẽ đến thăm đền Yasukuni. Hồ Cẩm Đào đã công khai tuyên bố sẽ không có Hội nghị thượng đỉnh song phương nào với Koizumi cho tới khi Thủ tướng Nhật Bản hứa sẽ không đến thăm ngôi đền. Đa số người dân Nhật Bản, kể cả những người từng không ủng hộ chuyến viếng thăm này, cũng đã ủng hộ Koizumi thực hiện điều đó.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">14</span> Khi các đám đông Trung Quốc tấn công chiếc xe của một quan chức cấp cao Nhật Bản sau khi Nhật thắng Trung Quốc năm 2005 tại trận đấu vòng loại World Cup ở châu Á, cảm nhận của công chúng Nhật Bản coi mình như là nạn nhân của Trung Quốc càng tăng lên.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Chuyến thăm cuối cùng của Koizumi đến đền Yasukuni với tư cách Thủ tướng diễn ra vào ngày 15/8/2007, ngày kỷ niệm sự đầu hàng của Nhật Bản và cũng là một ngày rất nhạy cảm đối với tất cả các kẻ thù cũng như nạn nhân chiến tranh của Nhật Bản. Tuy nhiên, trớ trêu thay, điều này đã mở ra cánh cửa cho người kế nhiệm, Abe Shinzo (người hiếu chiến hơn Koizumi về vấn đề Trung Quốc), đạt được một sự hâm nóng lại quan hệ với Trung Quốc bằng chuyến thăm Bắc Kinh ngày 9/10/2007, nơi ông được đón tiếp nồng nhiệt bởi dàn lãnh đạo Trung Quốc vốn quan ngại về việc suy giảm đột ngột mối quan hệ Trung-Nhật và nhận thấy ở Abe cơ hội cho một sự khởi đầu mới. Hồ Cẩm Đào khôn ngoan không công khai gây sức ép buộc Abe tránh xa Yasukuni, cũng như Abe đã khôn ngoan không hứa hẹn gì với các cử tri về việc này.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">15</span> Người kế nhiệm Abe, Fukuda Yasuo và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có những chuyến viếng thăm lẫn nhau vào đầu năm 2008. Điểu này đã giúp cải thiện tốt hơn bầu không khí giữa hai nước, nhưng không giải quyết được gốc rễ của sự căng thẳng về quân sự, tư tưởng và chiến lược.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thời kỳ “kinh tế ấm và chính trị lạnh” đã thách thức lý thuyết quan hệ quốc tế, nhưng lại đặc trưng cho trạng thái quan hệ Trung-Nhật trong thời gian tới. Mỉa mai nhất là sự khôi phục kinh tế Nhật Bản năm 2004-2006 sau nhiều năm chống đỡ với giảm phát đòi hỏi những cải cách của Koizumi và một nền kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc để thu hút hàng xuất khẩu Nhật Bản, vốn cuối cùng sẽ được xuất khẩu tiếp sang Mỹ sau khi được lắp ráp ở Trung Quốc. Thương mại Trung-Nhật đã vượt qua thương mại Nhật-Mỹ trong năm 2005, và theo thống kê của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, các nhà kinh doanh Nhật Bản tiếp tục xem Trung Quốc là mục tiêu chính cho đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">16</span> Nhưng dư luận Nhật Bản về Trung Quốc không được cải thiện sau khi trượt dốc từ thời kỳ mà quan điểm tích cực chiếm ưu thế trong suốt những năm hoàng kim 1980. (Hình 8.1).</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<em style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hình 8.1. Quan điểm của Nhật Bản về Trung Quốc</b></em></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
(Vui lòng download văn bản để xem hình)</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nguồn: “Khảo sát về quan hệ ngoại giao”, Văn phòng Nội các, Chính phủ Nhật Bản</i></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Những thách thức về ngoại giao, quân sự và tâm lý được đặt ra bởi sự trỗi dậy đột ngột và một tương lai không chắc chắn của Trung Quốc là điều Nhật Bản không thể tránh khỏi. Châu Á vẫn duy trì trật tự thứ bậc, và Nhật Bản và Trung Quốc chưa bao giờ hùng mạnh cùng lúc giống như bây giờ. Tham vọng của cả hai nước cũng mâu thuẫn nhau. Cả hai nước đều được thúc đẩy bởi ý thức sâu sắc về sự không hoàn thiện. Trung Quốc tìm kiếm sự toàn vẹn lãnh thổ và việc quay lại với vai trò trung tâm ở khu vực, nhưng nó cũng phải đối đầu với Nhật Bản đang tìm cách vượt qua thời kỳ hậu chiến và xây dựng lại niềm tự hào dân tộc đã đánh mất. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa Nhật Bản và Trung Quốc tạo ra sự ổn định trong mối quan hệ song phương giữa hai nước, nhưng không phải là sự chắc chắn hay có thể dự đoán được về hướng đi tương lai của họ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Bán đảo Triều Tiên</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Chỉ đứng sau Trung Quốc với tư cách là một biến số khu vực có ảnh hưởng nhiều nhất đến chiến lược ngoại giao Nhật Bản chính là bán đảo Triều Tiên. Vị tướng thời Minh Trị Yamagata Aritomo từng nổi tiếng khi gọi bán đảo Triều Tiên là “con dao găm chiến lược nhằm vào trái tim Nhật Bản”. Triều Tiên là con đường truyền thống mà qua đó mọi thứ bắt nguồn từ lục địa châu Á có thể đến với Nhật Bản, bao gồm cả đạo Phật, chữ Hán, các cuộc xâm lược của quân Mông, món mì soba và có lẽ cả sushi (mặc dù hiện nay vẫn đang gây tranh cãi). Chính mâu thuẫn giữa những người theo xu hướng hiện đại hóa ủng hộ Nhật Bản và những người theo xu hướng truyền thống ủng hộ Trung Quốc trong triều đình Triều Tiên đã khiến Nhật Bản rơi vào cuộc chiến với Trung Quốc giai đoạn 1894-1895, và chính việc bành trướng của Nga vào Mãn Châu và hướng tới Triều Tiên đã dẫn đến cuộc chiến tranh Nga-Nhật 1904-1905 khi Nhật Bản tìm kiếm “lợi thế tối đa” để bảo vệ lợi ích của mình ở bán đảo này. Sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên năm 1950 là sự kiện hậu chiến quan trọng hơn bất kỳ sự kiện nào khác trong việc khiến Nhật Bản theo đuổi quỹ đạo chính sách ngoại giao hiện tại, bao gồm việc hình thành liên minh Mỹ-Nhật lần đầu tiên vào năm 1951, bên cạnh việc giúp khôi phục lại nền kinh tế Nhật Bản. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản nhanh chóng cử phái viên đến Washington để duy trì sự ủng hộ của người Mỹ đối với sự hiện diện quân sự ở bán đảo Triều Tiên, đáng lưu ý nhất là sau khi Tổng thống đắc cử Jimmy Carter cam kết vào năm 1976 rằng ông rút hết quân đội Mỹ ra khỏi Hàn Quốc.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">17</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nhưng ngay cả khi Nhật Bản hành động để duy trì cam kết quốc phòng của Mỹ tại Hàn Quốc thì các chính phủ Nhật Bản liên tiếp cũng cố gắng thiết lập mối quan hệ của riêng họ với bán đảo này trên lĩnh vực ngoại giao lẫn thương mại. Quan hệ ngoại giao được thiết lập với Seoul năm 1965 đi kèm với một chương trình viện trợ đáng kể từ Nhật Bản. Bắc Triều Tiên tỏ ra khó khăn hơn, nhưng khi Nhật Bản thoát ra khỏi Chiến tranh Lạnh với một nền kinh tế mạnh và hi vọng rằng căng thẳng hai cực trong hệ thống quốc tế sẽ góp phần tìm ra giải pháp cho các vấn đề với Bình Nhưỡng, thì đã xuất hiện suy nghĩ lạc quan về việc bình thường hóa quan hệ song phương. Được thúc đẩy bởi khoản miễn giảm hàng năm ước tính khoảng 600 triệu đô la dành cho người Triều Tiên định cư ở Nhật (phần lớn khoản tiền này tìm đường vào tài khoản của các chính trị gia ở Tokyo) và bởi cơ hội thể hiện sáng kiến ngoại giao độc lập của Nhật Bản, lãnh đạo LDP đầy quyền lực Kanemaru Shin đã đến thăm lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Nhật Thành vào năm 1990 và rời cuộc họp với Kim Nhật Thành với cam kết đặt cược cuộc đời chính trị của mình vào mục tiêu bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương trong một buổi họp báo đầy nước mắt. Các cuộc đối thoại về bình thường hóa quan hệ Nhật-Triều (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) đã diễn ra ngắt quãng kể từ đó. Nhưng sự lạc quanh quanh chuyến thăm của Kanemaru cũng không kéo dài.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Bản chất thay đổi của mối đe dọa Bắc Triều Tiên với Nhật Bản trở nên rõ ràng hơn vào năm 1993 khi tài liệu dự báo tình báo quốc gia Mỹ (NIE) bị rò rỉ cho rằng Bình Nhưỡng có thể đã có bom [hạt nhân], và sau đó vào năm 1994 Bình Nhưỡng đã phóng tên lửa Nodong bay qua Nhật Bản (vào thời điểm đó người ta đã nghĩ rằng nó đã rơi xuống Biển Nhật Bản). Việc tái cơ cấu chính trị trong nước ở Nhật Bản cũng có tác động. Nhiều lãnh đạo kỳ cựu trong LDP, những người đã giúp duy trì quan hệ Trung-Nhật đồng thời cũng là những người, giống như Kanemaru, đã từng thúc đẩy quan hệ với Bắc Triều Tiên, đã được chống lưng bởi Đảng Xã hội Nhật Bản. Sự qua đời của họ, cùng với việc bắt giam Kanemaru vì cáo buộc tham nhũng, cũng như sự suy sụp của Đảng Xã hội, đã khiến cho chính sách Bắc Triều Tiên rơi vào tay một nhóm các chính trị gia trẻ hơn và thiên về chủ nghĩa dân tộc. Một trong những chính trị gia đó là Abe Shinzo, nổi lên với vai trò phó tướng của Koizumi và là người chủ trương theo đường lối cứng rắn hơn với Bắc Triều Tiên. Quan điểm cứng rắn của Abe nhận được sự ủng hộ của công chúng, những người đã phải chứng kiến Bắc Triều Tiên triển khai 200 tên lửa Nodong nhằm vào Nhật Bản, bán methamphetamine cho trẻ em Nhật, thử nghiệm tên lửa tầm xa Taepodong qua không phận Nhật Bản năm 1998, và sau đó là thử vũ khí hạt nhân vào tháng 10 năm 2006. Vấn đề nhạy cảm nhất là việc xác nhận hàng chục người Nhật bị bắt cóc bởi điệp viên Bắc Triều Tiên vào những năm 1970 và 1980 mặc dù chính phủ Nhật Bản đã phủ nhận là không có chứng cứ cho điều đó. Khi Thủ tướng Koizumi thành công trọng việc thuyết phục Triều Tiên phóng thích năm người bị bắt cóc sau chuyến thăm đầy kịch tính đến Bình Nhưỡng vào tháng 9 năm 2002, những câu chuyện được kể lại bởi những người Nhật trở về đã khiến người dân Nhật giận dữ hơn. Hiện nay, 74% người Nhật tỏ thái độ tiêu cực với Bắc Triều Tiên trong các cuộc thăm dò dư luận.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">18</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Quan điểm của Nhật Bản về Bắc Triều Tiên là một yếu tố định hướng quan trọng đối với chiến lược ngoại giao của Nhật Bản vào đầu thế kỷ 21, nhưng nhiều nhà lãnh đạo bảo thủ Nhật Bản lại xem mối đe dọa Bắc Triều Tiên như là một công cụ hữu ích để đưa người dân Nhật ra khỏi sự mãn nguyện về nền hòa bình và chuẩn bị cho một sự cạnh tranh dài hạn với Trung Quốc mà không cần phải có những lựa chọn khó khăn về các vấn đề như phòng vệ tên lửa hoặc hợp tác quân sự Mỹ-Nhật, vốn là những vấn đề dễ dẫn đến việc đối đầu công khai với Bắc Kinh.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Mối quan hệ Nhật Bản với Hàn Quốc đã thách thức sự tính toán chiến lược cẩn thận này. Mối quan hệ giữa hai đồng minh dân chủ của Mỹ bắt đầu cải thiện đáng kể sau khi Thủ tướng Nhật Bản Obuchi Keizo bày tỏ sự ăn năn và xin lỗi tới Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung ở Tokyo năm 1998 và ông Kim đã chấp nhận lời xin lỗi này (điều mà Chủ tịch nước Trung Quốc đã không sẵn sàng thực hiện vài tháng trước đó khiến Obuchi chỉ bày tỏ “sự ăn năn”). Nhóm giám sát và phối hợp ba bên (TCOG) giữa Mỹ-Nhật-Hàn được thành lập bởi đặc phái viên Mỹ về vấn đề Bắc Triều Tiên William Perry cũng đã thắt chặt mối quan hệ Nhật – Hàn về chính sách Bắc Triều Tiên vào năm 1999. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã có cuộc đàm phán về Hiệp định tự do thương mại (FTA) trong cùng thời kỳ đó.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trong bối cảnh Nhật Bản gia tăng nhận thức về sự cạnh tranh với Trung Quốc và mối đe dọa từ Bắc Triều Tiên, người ta mong chờ Tokyo sẽ tiếp tục tranh thủ Seoul và duy trì ảnh hưởng ở bán đảo. Tuy nhiên, mối quan hệ Nhật-Hàn lại bất ngờ bị xấu đi và Nhật Bản đã bị sụt giảm ảnh hưởng. Xu hướng đi xuống bắt đầu từ tháng 4 năm 2004, khi Quận Shimane thông qua một nghị quyết tuyên bố Takeshima (Tokdo trong tiếng Hàn) là lãnh thổ của Nhật Bản và Tổng thống Hàn Quốc Roh Moo Hyun phát động một chiến dịch chống Nhật Bản, khiến những người theo tư tưởng bảo thủ vốn thường ủng hộ Nhật Bản phải rơi vào thế chống đỡ. Thay vì tập trung vào những lợi ích lớn hơn ở Bán đảo Triều Tiên, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tiếp tục thúc đẩy sự công nhận của quốc tế đối với yêu sách của Nhật Bản về lãnh thổ đang tranh chấp – một hành động chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa. Chuyến thăm của Thủ tướng Koizumi đến đền Yasukuni đã khiến vấn đề trở nên phức tạp hơn, và sau đó những lời lẽ thiếu cân nhắc của Thủ tướng Abe vào tháng 3/2007 biện minh cho sự đối xử trong thời chiến của Nhật Bản với các nô lệ tình dục bị cưỡng bức hay còn gọi là “phụ nữ giải khuây” từ Triều Tiên đã mở ra một cuộc cạnh tranh giữa hai chính phủ để vận động hành lang quốc hội Mỹ thông qua hoặc bác bỏ dự luật lên án Nhật Bản. Việc Chính phủ Tổng thống Roh từ chối tiếp tục tham dự các cuộc họp của TCOG về vấn đề Bắc Triều Tiên và những nỗ lực nhằm coi Nhật Bản là một kẻ thù chung trong kế hoạch phòng thủ chung Mỹ-Hàn (cuối cùng không thành công) đáng lẽ ra đã gióng lên hồi chuông cảnh báo cho Tokyo, nhưng thay vào đó chính phủ Nhật Bản lại chờ đợi và hi vọng rằng các mối quan hệ sẽ được cải thiện sau nhiệm kỳ của Tổng thống Roh. Với việc thắng cử của Tổng thống bảo thủ và thân Nhật hơn là Lee Myung Bok vào tháng 12/2007, mối quan hệ đã có vẻ sẽ được cải thiện hơn.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Sự bất lực của Nhật Bản trong việc duy trì mối quan hệ tích cực với Hàn Quốc được thiết lập bởi ông Kim và ông Obuchi cho thấy rằng hành vi cân bằng quan hệ bên ngoài nhằm chống lại Trung Quốc chỉ thực hiện được tới như vậy. Trong trường hợp mối quan hệ với Hàn Quốc, kiểu chính trị liên quan đến vấn đề bản sắc của Nhật Bản và sự đấu tranh tư tưởng trong nước để kết thúc “chế độ hậu chiến” đã làm thất bại các tính toán quyền lực theo tư duy hiện thực. Điều này xảy ra bất chấp thực tế nhìn chung công chúng Nhật Bản đã có một cái nhìn tích cực hơn rất nhiều về người dân Hàn Quốc so với bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử hai nước.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">19</span> Tuy nhiên, kết quả chiến lược của việc Tokyo bận tâm nhiều hơn về bản sắc dân tộc và chính trị lãnh thổ so với chính trị thực dụng đã khiến vị trí chiến lược của Nhật trở nên suy yếu hơn ở Đông Bắc Á.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Liên minh Mỹ – Nhật trong chiến lược Châu Á</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Định hình hội nhập khu vực</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Điểm mạnh và điểm yếu của công cụ ngoại giao Nhật Bản</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Kết luận</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<strong style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: <a href="http://nghiencuuquocte.files.wordpress.com/2013/06/nghiencuuquocte-net-20-nhat-ban-trong-long-chau-a.pdf" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nhat Ban trong long Chau A.pdf</a></strong></div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-22568115764379879542013-08-06T09:21:00.000-07:002013-08-06T09:21:22.484-07:00Quan điểm của VN về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa<h2 class="entry-title" style="background-color: white; border: 0px; clear: both; font-family: 'Helvetica Neue', Arial, Helvetica, 'Nimbus Sans L', sans-serif; font-size: 21px; line-height: 1.3em; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/2013/06/10/vietnam-position-paracels-spratlys/" rel="bookmark" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: black; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none; vertical-align: baseline;">Quan điểm của VN về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa</a></h2>
<div>
<br /></div>
<div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nguyen, Hong Thao (2012). “Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claims”, <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Journal of East Asia and International Law</i>, 5(1), pp. 165-211. <b style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Biên dịch:</b> Nguyễn Thái Giang, Nguyễn Thị Lan Hương, Quách Thị Huyền | <b style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hiệu đính:</b>Việt Long</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Biển Đông từ lâu được coi là nguyên nhân chính gây căng thăng và bất ổn tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Làm rõ quan điểm của các bên yêu sách là một nhiệm vụ nghiên cứu nhằm tạo ra các biện pháp xây dựng lòng tin và tăng cường nỗ lực để kiểm soát những xung đột có thể xảy ra trong khu vực. Mục đích của bài viết này nhằm làm rõ quan điểm của Việt Nam về tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và các vùng biển tại Biển Đông. Quan điểm của Việt Nam sẽ được xem xét trên ba khía cạnh: (1) chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa; (2) các vùng biển bao quanh hai quần đảo này; và (3) giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.</i></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">1. Giới thiệu</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Hoàng Sa (tiếng Anh: Paracels, tiếng Trung: Tây Sa) và Trường Sa (tiếng Anh: Spratlys, tiếng Trung: Nam Sa) là hai quần đảo nằm ở trung tâm của Biển Đông (tên quốc tế: South China Sea, Việt Nam gọi là Biển Đông, Philippines gọi là Biển Tây). Tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa đã tồn tại hơn một trăm năm và đối với quần đảo Trường Sa đã tồn tại tám mươi năm. Ban đầu, tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa chỉ phát sinh giữa hai bên tranh chấp là Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng do sự thay đổi về địa chính trị sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự phát triển của khoa học công nghệ cả về lĩnh vực dân sự và quân sự, khủng hoảng dầu mỏ và trật tự pháp lý trên biển mới được xác lập bởi luật biển giữa những năm 1970 và 1980, tranh chấp chủ quyền đã mở rộng tới quần đảo Trường Sa và các vùng biển xung quanh hai quần đảo này.<span id="more-186" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></span> Cũng có một số các bên tranh chấp như Anh và Nhật Bản đã có yêu sách đối với một số đảo nhưng sau đó đã từ bỏ. Kể từ năm 1956, đặc biệt cuối những năm 1970 đã xuất hiện các bên tranh chấp mới như Philippines, Malaysia và Brunei. Sau hai cuộc hải chiến vào năm 1974 và 1988, Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một số đảo đá tại quần đảo Trường Sa. Sự kiện Vành Khăn năm 1995 giữa Trung Quốc và Philippines đã đưa ASEAN và Trung Quốc đến đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC), kết quả đầu tiên của tiến trình này là việc kí kết Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) năm 2002.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn1" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[1]</a> Ngay sau khí ký kết DOC, tình hình ở Biển Đông đã hạ nhiệt trong một vài năm. Tuy nhiên, từ 2009 sau khi Phái đoàn thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (PRC) tại Liên hợp quốc đệ trình bản đồ hình chữ U (đường đứt khúc 9 đoạn) lên Ủy ban Liên hợp quốc về Ranh giới thềm lục địa (CLCS), những tuyên bố về “lợi ích cốt lõi”<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn2" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[2]</a> của Trung Quốc và “lợi ích quốc gia”<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn3" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[3]</a> của Mỹ tại Biển Đông thì tình hình tại đây lại căng thẳng trở lại và làm dấy lên mối lo ngại sâu sắc đối với cộng động quốc tế. Lịch sử tranh chấp phức tạp và những nỗ lực bất thành trong việc tìm kiếm các giải pháp giải quyết tranh chấp có thể chấp nhận được đã khiến cho những tranh chấp ở Biển Đông trở thành một trong những tranh chấp phức tạp nhất trong bản đồ chính trị quốc tế.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn4" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[4]</a> Hiện tại, Việt Nam và Trung Quốc<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn5" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[5]</a> yêu sách toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi Brunei, Malaysia và Philippines yêu sách một phần hoặc hầu hết đối với quần đảo Trường Sa. Có rất nhiều bài viết làm rõ quan điểm của các bên và đề xuất các giải pháp cho tranh chấp.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn6" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[6]</a> Một vài lý do đã được đưa ra để giải thích cho sự phức tạp của tranh chấp Biển Đông: vị trí địa lý của Biển Đông; tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông; cuộc chạy đua đối với quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại khu vậy này; thiếu sự rõ ràng của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) về quy chế của đảo và đảo đá, và những tình cảm dân tộc. Để hiểu được tình hình này, nghiên cứu về quan điểm của các bên trong tranh chấp dưới ánh sáng của sự pháp triển của luật pháp và thực tiễn quốc tế là điều cần thiết. Bài viết này không cố gắng nghiên cứu toàn diện về quan điểm của tất cả các bên tranh chấp và các bên liên quan. Bài viết cũng không có tham vọng phân tích tất cả sự phát triển của luật pháp quốc tế có thể ảnh hưởng đến cuộc cạnh tranh về chủ quyền và các quyền tại Biển Đông. Việt Nam là một trong các bên tranh chấp bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi xung đột Biển Đông. Do đó, bài viết này chỉ nghiên cứu quan điểm của Việt Nam về tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông. Quan điểm của Việt Nam sẽ được xem xét trên ba khía cạnh: (1) chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa; (2) các vùng biển xung quanh các đảo này; và (3) giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">2. Quan điểm của Việt Nam về chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Quần đảo Hoàng Sa gồm khoảng 30 đảo nhỏ, đá và bãi nửa nổi nửa chìm, trong khoảng vĩ độ 16<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o </span>– 17<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o </span>Bắc và kinh độ 111<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o </span>– 113<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o</span> Đông trên một vùng biển rộng khoảng 16000 km<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">2</span>. Quần đảo Trường Sa nằm trong khoảng vĩ độ 12<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o </span>– 4<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o </span>Bắc và kinh độ 109<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o </span>– 118<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">o</span> Đông, bao gồm hàng trăm đảo, đá, bãi nửa nổi nửa chìm trải trên vùng biển rộng gấp 10 lần vùng biển của quần đảo Hoàng Sa, khoảng 160000 và 180000 km<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">2</span>. Hai quần đảo này còn có một số lượng lớn bãi ngầm và bãi san hô.Khoảng cách từ quần đảo Hoàng Sa đến điểm gần nhất của đất liền Việt Nam (cảng Đà Nẵng) là 170 hải lý và đảo Hải Nam Trung Quốc là 160 hải lý. Quần đảo Trường Sa cách Vịnh Cam Ranh (Việt Nam) 250 hải lý và cách Đảo Hải Nam Trung Quốc 520 hải lý.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn7" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[7]</a> Trong một thời gian dài, những chấm nhỏ li ti của hai quần đảo này chỉ được biết đến như những điểm cực kỳ nguy hiểm đối với các nhà hàng hải hay là nơi trú ẩn của ngư dân trong khu vực.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn8" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[8]</a> Đến đầu thế kỉ 17, các triều đại của Việt Nam (nhà Nguyễn và Tây Sơn) là những triều đại đầu tiên thực hiện chức năng nhà nước đối với những hòn đảo không có người sinh sống và xa xôi này. Làn sóng chiếm hữu thường xuyên những hòn đảo không có người sinh sống, nghèo tài nguyên và không có nước sạch này diễn ra lần đầu tiên vào giữa những năm 1920 và 1930 khi Pháp, đại diện cho Triều đình phong kiến Việt Nam trong mọi quan hệ đối ngoại từ năm 1884, phái những đội quân thường trú tới quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ khi Pháp và Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Giữa những năm 1950, sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa đã tiếp quản phía tây quần đảo Hoàng Sa trong khi Trung Quốc tiếp quản phía đông. Tại quần đảo Trường Sa, quân Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình (Itu Aba), một số đảo khác dưới sự kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa. Giai đoạn chiếm đóng thứ 3 diễn ra giữa những năm 1970 và 1980 khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát phía tây quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hòa vào năm 1974. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1976, miền Bắc và miền Nam Việt Nam hợp nhất thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Philippines tham gia vào tranh chấp Trường Sa từ những năm 1970 trong khi đó Malaysia lần đầu tiên kiểm soát một đảo thuộc quần đảo này vào năm 1983. Giai đoạn chiếm đóng thứ 4 được đánh dấu bởi sự có mặt lần đầu tiên của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa sau một cuộc va chạm ngắn với tàu vận tải của hải quân Việt Nam. Quan điểm của Việt Nam và các bên tranh chấp khác có thể tìm hiểu bằng cách phân chia lịch sử tranh chấp thành các giai đoạn thích hợp. Hành động của các bên qua đó có thể xem xét dưới ánh sáng của luật thời điểm.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">A. Trước thế kỉ 20</i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
….</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<em style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">B. T</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ừ</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> đ</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ầ</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">u th</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ế kỷ 20 cho đến khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ II </b></em><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
……</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">C. </i></b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II </i></b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Cộng hòa Trung Hoa chiếm phần phía đông của quần đảo Hoàng Sa và Itu Aba (đảo Ba Bình theo tiếng Việt), một đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng thời gian, Pháp và Chính quyền Bảo Đại tái chiếm phần phía tây của Hoàng Sa và một số đảo của Trường Sa. Phần phía đông của Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ năm 1956. Phần phía tây của Hoàng Sa bị Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm vào năm 1974. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm được quyền kiểm soát một số đảo tại Trường Sa lần đầu tiên vào năm 1988 thông qua việc sử dụng vũ lực. Kể từ đó, Trung Quốc đã mở rộng kiểm soát lên đến 9 đảo đá tại khu vực quần đảo Trường Sa. Philippines lần đầu tiên vào năm 1978 chính thức yêu sách chủ quyền với hầu như toàn bộ quần đảo Trường Sa (gọi tên là Nhóm đảo Kalayan – Nhóm đảo Tự do, KIG) theo cách của gọi của Philippines), trừ đảo Trường Sa. Malaysia yêu sách chủ quyền với phần phía nam của quần đảo Trường Sa thông qua việc phát hành các bản đồ vào năm 1979. Trong bối cảnh này, năm 1976, nước Việt Nam thống nhất tiếp tục duy trì quan điểm là danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, được củng cố một thời gian dài bởi các Vua và Chúa Nguyễn cũng như là các chính quyền Pháp thuộc và Sài Gòn, chưa bao giờ bị từ bỏ cả. Việt Nam Cộng hòa tiếp nhận danh nghĩa chủ quyền, quyền và các yêu sách từ Pháp đối với các đảo phù hợp với Hiệp định Geneve năm 1954 – Ba Hiệp định về Ngừng chiến với Việt Nam, Lào và Campuchia.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn1" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[1]</a> Là bên nắm giữ danh nghĩa chủ quyền hợp pháp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nam Việt Nam đã thực hiện tổ chức quản lý hành chính, khai thác kinh tế và bảo vệ hiệu quả hai quần đảo này.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Năm 1956, Bộ Kinh tế của Việt Nam Cộng hòa đã cấp phép khai thác phân chim trên đảo Quang Ảnh, Hữu Nhật và Phú Lâm cho Lê Văn Cang. Năm 1959, giấy phép cũng được cấp cho Công ty Phốt-phát Việt Nam đảm nhiệm việc khai thác phân chim cho đến tận năm 1963. Năm 1973, một nghiên cứu chung đã được triển khai bởi Công ty và đối tác Nhật Bản – Tập đoàn Marubeni. Về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa đã được chuyển từ tỉnh Thừa Thiên sang tỉnh Quảng Nam theo Nghị định số N 174-NV ngày 13 tháng 7 năm 1961. Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã tuần tra thường xuyên tại các vùng nước quanh khu vực các đảo.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Đối với Trường Sa, hải quân Việt Nam Cộng hòa đã đến Trường Sa và dựng bia thể hiện chủ quyền vào ngày 22 tháng 8 năm 1956. Với Nghị định 143/VN ngày 20 tháng 10 năm 1956, quần đảo Trường Sa đã được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy. Từ 11 đến 16/6/ 1961, các tàu hộ vệ Vân Đồn và Vạn Kiếp (HQ02 và HQ06) đã được điều đến tuần tra các đảo Song Tử Đông, Thị Tứ, Loại Ta và An Bang thuộc quần đảo Trường Sa. Các đơn vị hải quân đến đảo Trường Sa, An Bang, Loại Ta, Thị Tứ, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Nam Yết năm 1962, 1963 và 1964 nhằm mục đích dựng các cột chủ quyền đối với các đảo này. Ngày 6 tháng 9 năm 1973, với Nghị định N 420 – BNV/HCDP/26, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn2" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[2]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974 của Trung Quốc là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và không thể tạo ra một danh nghĩa pháp lý cho quần đảo này. Quan điểm này đã được khẳng định chắc chắn nhiều lần trong các Sách Trắng do Bộ Ngoại giao Việt Nam phát hành (cả Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam),<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn3" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[3]</a> các Tuyên bố của Chính phủ đối với các vùng biển của Việt Nam và về đường cơ sở vào các năm 1977 và 1982; Nghị quyết 1994 của Quốc hội phê chuẩn UNCLOS và các phát biểu chính thức của lãnh đạo Việt Nam. Ví dụ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tái khẳng định trước Quốc hội vào ngày 25/11/2011 rằng: “Chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Chúng ta đã kiểm soát hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ 17, khi chưa có một quốc gia nào yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo này”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn4" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[4]</a> Hiện nay, Việt Nam kiểm soát hơn 20 đảo, bãi cát, đá thuộc quần đảo Trường Sa.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc giữ quan điểm rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của mình và Việt Nam đã hơn một lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn5" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[5]</a>Yêu sách này dựa trên bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 liên quan đến chiều rộng của các vùng lãnh hải của Trung Quốc, Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phản kháng việc Chính phủ Mỹ ấn định khu vực chiến đấu của lực lượng vũ trang Mỹ năm 1965, và phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm vào năm 1956. Dựa vào các bằng chứng này, Trung Quốc tuyên bố rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn6" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[6]</a>Chúng tôi sẽ không xem xét phát biểu của ông Ung Văn Khiêm bởi vì không có bằng chứng trung lập. Ông Ung Văn Khiêm không có quyền hạn công nhận hay từ bỏ lãnh thổ. Bài phát biểu, nếu tồn tại, không diễn ra trong bối cảnh đàm phán về lãnh thổ. Hai tài liệu khác phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam bị chia cắt trong giai đoạn 1954 – 1975 cùng với mối quan hệ cực kỳ gắn bó giữa hai nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Trung Quốc “vừa là đồng chí vừa là anh em”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn7" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[7]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Ngày 4/9/1958, bị đe dọa bởi Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ trong khu vực eo biển Đài Loan, Trung Quốc thông báo tuyên bố mở rộng chiều rộng lãnh hải ra 12 hải lý. Tuyên bố này áp dụng cho cả Trung Quốc đại lục và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc bao gồm Tây Sa, Nam Sa.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn8" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[8]</a> Ngày 14/9/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”. Trong Sách Trắng năm 1979, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tuyên bố rằng cách hiểu của Trung Quốc về bức thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc, khi mà mục đích và hàm ý của công hàm chỉ nhằm công nhận chiều dài lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn9" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[9]</a> Liệu sự im lặng về tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa trong bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có được coi như là sự ngầm công nhận đối với chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo này? Liệu nó có ảnh hưởng pháp lý nào nhằm loại bỏ Việt Nam không còn quyền đòi hỏi chủ quyền trong tương lai? Câu trả lời là “không”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn10" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[10]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Một hành động đơn phương sẽ tạo ra hậu quả pháp lý bắt buộc cho quốc gia thực hiện nếu như hành động đơn phương này được thực hiện trong phạm vi giới hạn của thẩm quyền quốc gia, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế và không trái đối với các nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">jus cogens</i> (các nguyên tắc bắt buộc không được vi phạm) của luật quốc tế . Mục đích thật sự của quốc gia khi có tuyên bố đơn phương nên được diễn giải một cách cẩn trọng. Các hạn chế sự độc lập của các quốc gia do vậy không thể suy diễn.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn11" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[11]</a> Tòa Án Công lý Quốc tế (ICJ) trong vụ Thử vũ khí hạt nhân (Nuclear Tests Case) đã nhắc lại lập luận: “Một khi các quốc gia đã ra các tuyên bố hạn chế sự tự do hành động trong tương lai của họ thì một sự giải thích hạn chế là cần thiết”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn12" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[12]</a> Qua thực tiễn hoạt động của các quốc gia và các phán quyết của Tòa,<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn13" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[13]</a> Ủy ban Luật pháp Quốc tế (ILC) đã có hướng dẫn xác định các hành động đơn phương và hiệu lực pháp lý của chúng.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn14" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[14]</a> Theo như ILC, để xác định các ảnh hưởng pháp lý của các tuyên bố đơn phương, cần thiết phải xem xét nội dung, hoàn cảnh thực tế của các tuyên bố đơn phương được đưa ra và các phản ứng mà các tuyên bố này gây ra. Một tuyên bố đơn phương sẽ dẫn đến việc quốc gia tạo ra nó bắt buộc phải thực hiện cam kết này chỉ khi nó được tuyên bố trong các điều khoản cụ thể và rõ ràng. Trong trường hợp có nghi ngờ như là phạm vi trách nhiệm thực hiện từ các tuyên bố này, trách nhiệm thực hiện sẽ chỉ được diễn giải một cách hạn chế. Khi diễn giải nội dung của các dạng nghĩa vụ thực hiện như vậy, việc đầu tiên quan trọng nhất là xem xét nội dung văn bản của tuyên bố cùng với bối cảnh và hoàn cảnh tuyên bố này được đưa ra.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn15" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[15]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Khi áp dụng các hướng dẫn này, chúng ta có một số đánh giá về nội dung văn bản bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, và hoàn cảnh văn bản này được viết.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trước tiên, vào thời điểm đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không kiểm soát hai quần đảo Hoàng Sà và Trường Sa. Theo Hiệp định Geneve, Việt Nam bị tạm thời chia làm hai khu vực quản lý hành chính với ranh giới là vĩ tuyến 17 trong khi chờ đợi thống nhất thông qua tổng tuyển cử. Trung Quốc là một bên ký Hiệp định Geneve. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vỹ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Vào thời điểm này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có danh nghĩa pháp lý <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">de jure</i> về chủ quyền cũng như không thực hiện chủ quyền <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">de facto</i> trên thực tế trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nó không có quyền từ bỏ đối với lãnh thổ mà nó không sở hữu.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn16" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[16]</a> Thậm chí các chính quyền miền Nam Việt Nam, hai chính phủ đối lập, Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập năm 1969, chỉ có quyền quản lý đối với hai quần đảo nhưng không có quyền chuyển nhượng bất cứ phần lãnh thổ nào cho ngoại quốc. Năm 1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc sử dụng vũ lực tại Hoàng Sa khi đưa ra tuyên bố 3 điểm.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn17" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[17]</a></div>
<ul style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; list-style: square; margin: 0px 0px 24px 1.5em; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<li style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mọi dân tộc</li>
<li style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Giữa các nước láng giềng có nhiều vụ tranh chấp về vấn đề biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại. Các tranh chấp đó có khi rất phức tạp, đòi hỏi được xem xét kỹ càng; và</li>
<li style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Các nước liên quan phải cùng nhau xem xét vấn đề trên tinh thần bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt, và giải quyết vấn đề bằng thương lượng.</li>
</ul>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tuyên bố công nhận sự tồn tại của tranh chấp, nhắc lại rằng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mọi dân tộc và kêu gọi đàm phán. Ngày 14/2/1975, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã công bố sách trắng về các quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phù hợp với nguyên tắc tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết được quy định trong luật pháp quốc tế và Hiệp định Geneve, số phận các phần lãnh thổ của Việt Nam phải được định đoạt bởi người dân của đất nước thống nhất. Việt Nam được thống nhất vào năm 1976 và cơ quan đại diện cao nhất của người Việt Nam là Quốc hội đã được bầu vào năm 1976. Việt Nam thống nhất, gọi tên là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa lãnh thổ từ Cộng hòa miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử vào năm 1976. Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và 1992, Nghị quyết của Quốc hội năm 1994 và Luật về biên giới quốc gia năm 2003 đều tái khẳng định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thứ hai, Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và 1957 quy định rằng việc chuyển nhượng lãnh thổ phải được quyết định thông qua trưng cầu dân ý. Tuyên bố của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý để từ bỏ lãnh thổ. Trong trường hợp liên quan đến chủ quyên đối với các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks, và South Ledge (Malaysia/Singapore) liên quan đến lập luận của Singapore rằng Chính quyền Johor đã công nhận chủ quyền của Singapore đối với các đảo này,<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn18" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[18]</a> Tòa án đã có quan điểm không xem xét trả lời của Johor có tính hiến pháp với nghĩa tạo ra tác động pháp lý quyết định đối với Johor.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn19" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[19]</a> Lời văn trong thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có bất cứ tính hiến pháp nào đối với lãnh thổ của Nam Việt Nam. Do đó, bức thư này không có hiệu lực pháp lý quyết định đối với số phận của Hoàng Sa và Trường Sa.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thứ ba, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không bao giờ phủ nhận các yêu sách và các hoạt động khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Nam Việt Nam. Nếu như bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc, bước logic tiếp theo sẽ là tuyên bố phủ nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa. Điều này không bao giờ xảy ra, cả trong năm 1956 và năm 1974. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tiếp tục ủng hộ lập trường của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thứ tư, tên gọi của văn bản tiếng Trung Quốc năm 1958 là Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc. Bức thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng công nhận và đồng ý quyết định liên quan đến chiều rộng 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc. Bức thư này không chứa đựng bất cứ sự từ bỏ các đảo có lợi cho Trung Quốc. Việc chuyển chủ quyền lãnh thổ từ một quốc gia này cho một quốc gia khác thường được thực hiện thông qua hiệp ước. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, ngày 2/11/1957, Ủy ban Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư đến Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề xuất hai Đảng cầm quyền tôn trọng nguyên trạng <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">status quo</i> các vấn đề tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại, và giải quyết tất cả tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình vào thời điểm phù hợp. Bức thư tháng 11/1957 viết: “Vấn đề biên giới là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết thông qua các nguyên tắc thực định của luật pháp hay do quyết định của hai chính phủ”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn20" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[20]</a> Vào tháng 4/1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có phản ứng tích cực đối với thư của Đảng Lao Động Việt Nam. Vấn đề tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại được hiểu là chỉ liên quan đến vấn đề biên giới trên bộ; không đề cập đến trường hợp tranh chấp của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, hai nước đã đồng ý rằng các tranh chấp của hai nước sẽ được giải quyết trong một thời điểm thích hợp thông qua đàm phán. Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không nằm trong bối cảnh tranh chấp giữa Hà Nội và Bắc Kinh. ICJ đã phán quyết: “Không gì có thể ngăn cản các bên đạt thỏa thuận bằng con đường thông thường, đó là một thỏa thuận với điều kiện có đi có lại”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn21" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[21]</a> Một số tác giả đã so sánh bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với Tuyên bố Ihlen trong vụ án đảo Greenland.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn22" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[22]</a> Tuyên bố Ihlen được đưa ra trong bối cảnh tìm kiếm giải pháp cho Greenland và Spitzberg. Tuyên bố Ihlen không phải là “cho không” (“open-handed”). Tuyên bố này công nhận chủ quyền của Đan Mạch đối với Greenland để đổi lại việc Đan Mạch công nhận chủ quyền của Na-uy đối với Spitzberg. Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng đặc điểm có đi có lại. Do đó rất khó có thể xem xét Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thứ năm, trong cuộc chiến, Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào hỗ trợ vật chất từ Trung Quốc. Điều này đã đặt Hà Nội vào thế khó xử. Bức thư chỉ ủng hộ việc áp dụng nguyên tắc 12 hải lý cho chiều rộng lãnh hải. Đây là một hành động thể hiện thiện chí của Bắc Việt Nam ủng hộ Trung Quốc, đang phải đối mặt với nguy cơ bị Mỹ xâm lược khi nước này nỗ lực đưa tàu sân bay vào hoạt động tại eo biển Đài Loan. Việc bảo lưu tình trạng của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được thể hiện trong bức thư vì Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có quyền hạn đối với hai quần đảo này.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nhà nghiên cứu Monique Chemillier Gendreau đã nhận xét: “Đúng là công hàm của Phạm Văn Đồng chỉ hết sức hạn chế trong ghi nhận và tán thành quyết định về chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc. Thật không đúng để khẳng định rằng Việt Nam đã “thừa nhận yêu sách của Trung Quốc” đối với hai quần đảo”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn23" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[23]</a> Không bên nào, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay Việt Nam Cộng hòa công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Vậy liệu thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có tạo ra hiệu lực của nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">estopel</i>(nguyên tắc mặc nhiên thừa nhận)? “Anh không thể vừa có chiếc bánh lại vừa ăn hết nó” là nguyên tắc ngăn ngừa các quốc gia có hành động không nhất quán gây tổn hại đến các quốc gia khác.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn24" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[24]</a> Theo Ian Brownlie, đặc điểm cốt lõi của nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">estoppel</i> là nhân tố hành xử gây tổn hại nghiêm trọng cho bên khác, do họ dựa vào cách hành xử đó để thay đổi quan điểm của mình và phải chịu một số tổn hại.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn25" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[25]</a> Trong vụ tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc, tòa ICJ đã phán quyết: “Bên dựa vào nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">estoppel</i> phải chỉ ra, cùng với một số điều kiện khác, là mình đã có các hành động đặc biệt do dựa vào phát biểu của bên kia”.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn26" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[26]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đáp ứng đầy đủ các điều kiện, đặc biệt là điều kiện cần thiết “vì phát biểu này mà gây tổn hại cho bên khác” của nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">estoppel</i> gây ra cho Trung Quốc. Trước tiên, Trung Quốc không chứng minh được quan điểm của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị thay đổi và bị thiệt hại do dựa vào tuyên bố của Bắc Việt Nam. Thứ hai, Trung Quốc đã giữ im lặng đối với tuyên bố của Mỹ liên quan đến khu vực tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ tại Biển Đông vào năm 1965, bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Điều này liệu có cho thấy Trung Quốc thờ ơ trong việc bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa khi bị nước ngoài xâm lược? Thứ ba, nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">estoppel</i>chỉ được áp dụng cho các hành động của một bên về một vấn đề trong một giai đoạn liên tục trong lịch sử. Trong trường hợp này, nguyên tắc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">estoppel</i> được áp dụng như thế nào cho các tuyên bố của hai chính phủ khác nhau đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì không có thẩm quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kế tục của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng Hòa và có quyền lựa chọn quyền và nghĩa vụ của bên nào để kế tục. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa kế quyền và các hành động của Nam Việt Nam, vốn là bên duy nhất có quyền tài phán đối với Hoàng Sa và Trường Sa.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuquocte.net%20-%20130610%20-Vietnam%20Position_Paracels%20and%20Spratlys.docx#_ftn27" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[27]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">3. Lập trường của Việt Nam về các vùng biển quanh đảo </b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">A. </i></b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Lập trường của Việt Nam về các vùng biển theo UNCLOS </i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">B. Chế độ pháp lý của các đảo Hoàng Sa và Trường Sa</i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">4. Quan điểm của Việt Nam về giải quyết tranh chấp tại Biển Đông </b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">5. Kết luận </b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<strong style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: <a href="http://nghiencuuquocte.files.wordpress.com/2013/06/nghiencuquocte-net-130610-vietnam-position_paracels-and-spratlys.pdf" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Vietnam Position_Paracels and Spratlys</a></strong></div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-59225833354338925652013-08-06T09:19:00.000-07:002013-08-06T09:19:33.204-07:00Yếu tố địa lý của quyền lực Trung Quốc<h2 class="entry-title" style="background-color: white; border: 0px; clear: both; font-family: 'Helvetica Neue', Arial, Helvetica, 'Nimbus Sans L', sans-serif; font-size: 21px; line-height: 1.3em; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/2013/06/30/geography-chinese-power/" rel="bookmark" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #ff4b33; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none; vertical-align: baseline;">Yếu tố địa lý của quyền lực Trung Quốc</a></h2>
<div>
<br /></div>
<div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Robert D. Kaplan (2010). “The Geography of Chinese Power: How Far Can Beijing Reach on Land and at Sea”. <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Foreign Affairs</i>, Vol. 89, No. 3 (May/June), pp. 22-41.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Biên dịch:</b> Nguyễn Thị Nhung | <b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hiệu đính:</b> Lê Hồng Hiệp</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Năm 1904, nhà địa lý người Anh, Sir Halford Mackinder đã kết thúc bài viết nổi tiếng “The Geographical Pivot of History” [“Trục địa lý của lịch sử”] của mình bằng một liên hệ đáng ngại về trường hợp Trung Quốc. Sau khi giải thích tại sao lục địa Á-Âu chính là trục địa chiến lược của quyền lực thế giới, ông đã cho rằng Trung Quốc, một khi mở rộng sức mạnh của mình vượt ra ngoài biên giới, “có thể tạo thành mối hiểm họa da vàng cho tự do của thế giới, đơn giản vì Trung Quốc sẽ có thêm một vùng đại dương bổ sung cho nguồn tài nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế mà nước Nga không may mắn có được trong khu vực trụ cột này.”</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tạm gác lại giọng điệu phân biệt chủng tộc, vốn khá phổ biến trong thời kỳ đó, và cũng chưa xét đến sự hoảng loạn thường thấy mỗi khi đụng chạm đến sự trỗi dậy của một cường quốc ngoài phương Tây, Mackinder đã nêu ra một lập luận hợp lý: Trong khi nước Nga, một người khổng lồ khác trên lục địa Á-Âu, xét về cơ bản đã, và vẫn đang, là một cường quốc trên đất liền với một mặt giáp đại dương bị băng đá Bắc Cực rào chặn, thì Trung Quốc với đường bờ biển ôn đới 9,000 dặm, nhiều cảng biển tự nhiên thuận lợi, lại là một cường quốc lục địa lẫn hải dương. (Thực ra, trong tác phẩm của mình, Mackinder đã lo ngại Trung Quốc một ngày nào đó sẽ thôn tính cả nước Nga). Tầm với của Trung Quốc trải dài từ vùng Trung Á giàu khoáng sản và khí đốt đến những tuyến đường hàng hải trên Thái Bình Dương. Sau này, trong cuốn “</span><i style="background-color: transparent; border: 0px; color: #444444; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Democratic Ideals and Reality</i><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">” [Các lý tưởng và thực tế dân chủ], Mackinder đã dự đoán cùng với Mỹ và Vương quốc Anh, Trung Quốc cuối cùng sẽ dẫn dắt thế giới bằng việc “xây dựng một nền văn minh mới cho một phần tư nhân loại, không thực sự phương Đông, cũng không giống phương Tây.”<span id="more-241" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></span></span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Vị trí đắc địa của Trung Quốc là một lợi thế rõ ràng và hiển nhiên đến nỗi nó thường bị bỏ qua trong những thảo luận về sự bùng nổ kinh tế hay cách hành xử quyết liệt của quốc gia này. Nhưng yếu tố này thực sự rất quan trọng: nó đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ luôn án ngữ ở vị trí trục trung tâm địa chính trị ngay cả khi con đường tiến lên vị thế cường quốc toàn cầu của nước này không hoàn toàn suôn sẻ. (Chỉ số tăng trưởng GDP của Trung Quốc vẫn đều đặn ở mức hơn 10% mỗi năm trong suốt hơn 30 năm qua, nhưng mức tăng này chắc chắn khó có thể duy trì thêm trong 30 năm nữa.) Trung Quốc là sự pha trộn giữa tính hiện đại hết mực mang phong cách phương Tây với một “nền văn minh thủy lợi” (“hydraulic civilization” – một thuật ngữ do nhà sử học Karl Wittogel đề ra, dùng để mô tả những xã hội thực hiện việc quản lý tập trung nguồn nước tưới tiêu nông nghiệp)<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-24-Yeu%20to%20dia%20ly%20cua%20quyen%20luc%20TQ.docx#_ftn1" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[1]</a>, gợi cho ta nhớ đến phương Đông cổ xưa, thời chế độ cai trị nhờ có trong tay quyền lực tập trung có thể tuyển mộ hàng vạn dân phu xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Chính điều này đã tạo cho Trung Quốc khả năng tăng trưởng không ngừng nghỉ mà tất cả các nền dân chủ, với bản tính hay trì hoãn trong các quyết định, đều không thể làm được. Khi các nhà lãnh đạo mang danh nghĩa Cộng sản của Trung Quốc, những người kế tục di sản của 25 vương triều trong 4.000 năm lịch sử, tiếp thu công nghệ và thực tiễn phương Tây, họ đã đưa chúng vào một hệ thống văn hóa tinh vi và quy củ, vốn từng có nhiều kinh nghiệm độc đáo khác nhau, trong đó có việc thiết lập các mối quan hệ mẫu quốc-chư hầu với các quốc gia khác. Như lời của một quan chức Singapore từng nói với tôi hồi đầu năm: “Người Trung Quốc quyến rũ anh khi họ muốn, bóp nghẹt anh khi họ cần, và họ làm vậy một cách có hệ thống.”</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Động lực trong nước của Trung Quốc làm nảy sinh những tham vọng với thế giới bên ngoài. Các đế quốc hiếm khi xuất hiện theo dự tính chủ quan mà thường từng bước phát triển một cách tự nhiên. Khi một quốc gia lớn mạnh, họ sẽ nảy sinh những nhu cầu và, nghe có vẻ phi lý, là cả những nỗi sợ hãi mới, những thứ sẽ khiến họ buộc phải bành trướng dưới nhiều hình thức. Ví dụ như nước Mỹ, ngay cả khi chịu sự lãnh đạo của những vị tổng thống kém cỏi nhất như Rutherford Hayes, James Garfield, Chester Arthur, Benjamin Harrison, thì nền kinh tế nước này những năm cuối thế kỷ XIX vẫn âm thầm tăng trưởng đều đặn. Khi có quan hệ thương mại ngày càng gắn kết với thế giới bên ngoài, Mỹ dần phát triển những lợi ích kinh tế và chiến lược phức tạp ở những vùng đất xa xôi. Và không ít lần, những lợi ích tại các khu vực như Nam Mỹ hay Thái Bình Dương đã trở thành cái cớ để triển khai các hành động quân sự. Trong giai đoạn này, Mỹ cũng bắt đầu tập trung ra thế giới bên ngoài khi các vấn đề trong nước đã được củng cố; trận đánh lớn cuối cùng trong các cuộc Chiến tranh với người da đỏ thực tế đã diễn ra năm 1890.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc ngày nay cũng đang củng cố các đường biên giới trên đất liền và bắt đầu chuyển hướng ra bên ngoài. Những tham vọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc quyết liệt không kém của Mỹ hơn một thế kỷ trước, nhưng lại có mục tiêu hoàn toàn khác. Trung Quốc không mang trên vai sứ mệnh truyền bá giá trị nào khi đến với thế giới, không tìm cách phổ cập bất kỳ hệ tư tưởng hay chế độ chính quyền nào. Thúc đẩy giá trị đạo đức trong các vấn đề quốc tế là mục tiêu của người Mỹ, không phải của Trung Quốc. Bánh lái cho những hoạt động của Trung Quốc ở nước ngoài chính là nhu cầu quốc gia về năng lượng, quặng kim loại, và những khoảng sản chiến lược giúp đảm bảo mức sống đang ngày một cao của một số dân khổng lồ, chiếm khoảng một phần năm tổng dân số toàn cầu của nước này.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Để hoàn thành trọng trách này, Trung Quốc đã thiết lập các mối quan hệ có lợi với các láng giềng xung quanh cũng như những vùng đất xa xôi, giàu tài nguyên cần thiết để tiếp năng lượng cho sức phát triển trong nước. Do luôn đặt lợi ích quốc gia cốt lõi – ở đây là sự tồn tại của nền kinh tế – làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động ở nước ngoài, Trung Quốc có thể được coi là một cường quốc thực dụng cực đoan. Người Trung Quốc tìm mọi cách tăng cường hiện diện trên khắp các khu vực tại Châu Phi – những nơi được thiên nhiên ban tặng nguồn dầu mỏ và khoáng sản trù phú; luôn muốn đảm bảo quyền tiếp cận các bến cảng trên khắp Ấn Độ Dương và Biển Đông – những vùng biển kết nối thế giới Ả rập giàu khí đốt với bờ biển Trung Quốc. Không quá kén chọn, Bắc Kinh cũng chẳng quan tâm đến chế độ mình đang tham gia hợp tác thuộc loại nào. Điều nước này cần là tính ổn định, không phải đạo đức như tiêu chuẩn của phương Tây. Và trong các chế độ đó, có một số nước – như Iran, Myanmar và Sudan – đang bị cô lập và cai trị bởi chế độ chuyên chế. Điều này đã khiến Trung Quốc, trong cuộc săn lùng tài nguyên trên toàn thế giới, vấp phải xung đột với nước Mỹ vốn có xu hướng truyền bá giá trị, cũng như với những quốc gia có vùng ảnh hưởng bị Trung Quốc vô tình đụng chạm như Ấn Độ và Nga.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tất nhiên, Trung Quốc không phải là mối nguy hiểm cho sự sống còn của các quốc gia này. Khả năng bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn còn xa vời, và Trung Quốc chưa thể là mối đe dọa quân sự trực tiếp đối với Mỹ. Không kể đến những vấn đề như nợ, thương mại hay khí hậu ấm lên toàn cầu…, thách thức Trung Quốc đặt ra đối với Mỹ chủ yếu là về mặt địa lý. Vùng ảnh hưởng của Trung Quốc đang dần mở rộng ở lục địa Á – Âu và Châu Phi, dù không mang tính chất đế quốc thời thế kỷ XIX nhưng lại theo cách tinh vi hơn, phù hợp hơn với thời đại toàn cầu hóa. Đơn giản chỉ bằng cách bảo đảm nhu cầu kinh tế trong nước, Trung Quốc đang dần xoay chuyển cân bằng quyền lực trên Đông bán cầu, và điều này hẳn phải khiến Mỹ hết sức quan ngại. Sẵn có vị trí thuận lợi, Bắc Kinh đang mở rộng ảnh hưởng cả trên đất liền và trên biển, từ vùng Trung Á đến Biển Đông, từ vùng Viễn đông Nga xuống Ấn Độ Dương. Trung Quốc là một cường quốc lục địa đang vươn dậy, và, như câu nói nổi tiếng của Napoleon, các chính sách của các quốc gia như vậy bắt nguồn từ chính những đặc điểm địa lý của chúng.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hội chứng biên giới nhạy cảm</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực chính trong lãnh thổ Trung Quốc nơi cư dân bản địa luôn kháng cự sức ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Điều này khiến hai vùng đất này trở thành tài sản mang tính đế quốc của Bắc Kinh. Thêm vào đó, những căng thẳng sắc tộc tại những khu vực này đang làm phức tạp hóa quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước lân cận.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
“Tân Cương”, tên của tỉnh cực Tây của Trung Quốc, có nghĩa là “biên cương mới”, dùng để chỉ vùng Turkestan rộng lớn với diện tích gấp đôi bang Texas (Mỹ) và nằm cách xa khu lục địa trung tâm của Trung Quốc qua Sa mạc Gobi. Trung Quốc đã là một nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác từ hàng ngàn năm năm nay, nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX thì Tân Cương mới chính thức trở thành một phần của nhà nước đó. Kể từ đó, lịch sử của tỉnh này đã “luôn chìm trong bất ổn” như lời mô tả của nhà ngoại giao người Anh Sir Fitzroy Maclean, với những cuộc nổi loạn và nhiều giai đoạn tự trị độc lập ngắt quãng cho tới những năm 1940. Đến năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân của Mao Trạch Đông đã tiến vào Tân Cương, dùng vũ lực để sáp nhập tỉnh này với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng trong thời gian gần đây, điển hình vào năm 1990 và một lần nữa là vào năm 2009, tộc người Uighur (Duy Ngô Nhĩ), hậu duệ của người Turk từng thống trị Mông Cổ trong thế kỷ VII-VIII, đã nổi dậy chống lại chính quyền Bắc Kinh.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Dân tộc Uighur có khoảng tám triệu người, chưa bằng 1% dân số Trung Quốc, nhưng chiếm tới 45% số dân tỉnh Tân Cương. Người Hán với số lượng áp đảo trên cả nước sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng đất thấp tại khu vực trung tâm và vùng duyên hải ven Thái Bình Dương, trong khi những cao nguyên khô cằn hơn ở phía Tây và Tây Nam là nơi trú ngụ lâu đời của dân tộc thiểu số Uighur và Tây Tạng. Sự phân bố dân cư này vẫn luôn là nguồn gốc cho những căng thẳng, bởi trong mắt Bắc Kinh, chính quyền Trung Quốc hiện nay cần phải áp đặt quyền thống trị tuyệt đối lên các khu vực cao nguyên này. Để giữ được những khu vực này, và cả nguồn dầu mỏ, khí đốt, quặng đồng và sắt dưới lòng đất tại đây, trong nhiều thập kỷ Bắc Kinh đã đưa người Hán di cư từ khu trung tâm sang sống cùng người bản địa. Chính quyền cũng lôi kéo quyết liệt những nước cộng hòa độc lập của người Turk xung quanh trong khu vực Trung Á, một phần nhằm tách biệt người Uighur Tân Cương khỏi mọi nguồn hậu thuẫn khả dĩ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Bắc Kinh còn lôi kéo các chính phủ Trung Á với mục đích mở rộng vùng ảnh hưởng của mình; dù biên giới Trung Quốc đã ăn sâu vào trong lục địa Á-Âu, nhưng vẫn chưa đủ so với cơn khát tài nguyên thiên nhiên của nước này. Thế lực của Bắc Kinh tại Trung Á thể hiện ở hai đường ống dẫn lớn sắp hoàn thiện nối đến Tân Cương: một dùng để vận chuyển dầu mỏ từ Biển Caspi chạy dọc qua Kazakhstan, ống còn lại để chuyển khí đốt từ Turkmenistan bắc qua Uzbekistan và Kazakhstan. Cơn khát các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẵn sàng bất chấp những rủi ro lớn để bảo vệ chúng. Trung Quốc vẫn tiếp tục khai thác đồng ở Nam Kabul, nằm ngay bên trong Afghanistan đầy khói lửa, và đang để mắt tới những mỏ sắt, vàng, uranium và những loại đá quý khác (khu vực này sở hữu một vài khu mỏ cuối cùng chưa được khai thác của thế giới). Bắc Kinh cũng có ý định xây dựng tuyến đường bộ và ống dẫn năng lượng xuyên Afghanistan và Pakistan, từ đó kết nối vùng ảnh hưởng đang ngày càng mở rộng ở Trung Á với những cảng biển trên Ấn Độ Dương. Điều kiện địa lý chiến lược của Trung Quốc sẽ được củng cố nếu Mỹ ổn định được Afghanistan.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Giống như Tân Cương, Tây Tạng có vị trí hết sức quan trọng trong nhận thức lãnh thổ của Trung Quốc, khu vực này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Vùng cao nguyên Tây Tạng, với địa hình đồi núi, giàu quặng đồng và sắt, chiếm một diện tích lớn lãnh thổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến Bắc Kinh luôn sợ hãi viễn cảnh về một Tây Tạng tự trị, chưa nói đến độc lập, và cũng là lý do chính quyền vội vàng cho xây dựng đường sá và các tuyến đường sắt trên khắp khu vực. Nếu không sở hữu Tây Tạng, Trung Quốc sẽ chỉ còn là một quốc gia nhỏ bé với phần diện tích còn lại không đáng kể, còn Ấn Độ có thể bổ sung thêm một vùng phía bắc vào cơ sở quyền lực lục địa của mình.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Với hơn một tỷ dân, Ấn Độ như một hàng rào vững chắc, án ngữ một vùng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á. Điều này đã được chỉ rõ trong tấm bản đồ “Đại Trung Hoa” trong cuốn “<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">The Grand Chessboard”</i><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> [Bàn cờ lớn]</i><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> </i>của<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> </i>Zbigniew Brzezinski năm 1997. Ở một mức độ nào đó, yếu tố địa lý đã sắp đặt Trung Quốc và Ấn Độ trở thành kỳ phùng địch thủ: là láng giềng kề cận với dân số khổng lồ, cùng sở hữu nền văn hóa phong phú lâu đời, và đều có tranh chấp tuyên bố chủ quyền (điển hình như khu vực Arunachal Pradesh [Nam Tây Tạng] của Ấn Độ). Vấn đề Tây Tạng chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Ấn Độ đang cho phép chính quyền lưu vong của Đạt Lai Lạt Ma tị nạn từ năm 1957, và theo như Daniel Twining, ủy viên cấp cao của Quỹ Marshall Đức (German Marshall Fund), những căng thẳng biên giới Ấn-Trung gần đây có thể “liên quan đến những lo ngại của Bắc Kinh về vấn đề kế tục Đạt Lai Lạt Ma”. Vị Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo có khả năng đến từ vùng vành đai văn hóa Tây Tạng, khu vực trải dài từ miền Bắc Ấn Độ, Nepal đến Bhutan. Do đó ông có khả năng sẽ ủng hộ Ấn Độ và chống Trung Quốc (thân Ấn bài Trung) mạnh mẽ hơn. Trong tương lai, “cuộc chơi lớn” giữa Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không chỉ diễn ra những khu vực này mà còn ở Bangladesh và Sri Lanka. Vị trí địa lý của Tân Cương và Tây Tạng rơi vào trong đường biên giới hợp pháp của Trung Quốc, nhưng dựa trên mối quan hệ không mấy êm đẹp giữa chính quyền trung ương với người bản xứ ở hai tỉnh, có thể thấy Bắc Kinh chắc chắn sẽ không tránh khỏi thái độ chống đối khi mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài phạm vi các khu vực nơi có người Hán chiếm đa số.<a href="http://nghiencuuquocte.files.wordpress.com/2013/07/nghiencuuquocte-net-24-yeu-to-dia-ly-cua-quyen-luc-tq1.pdf" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><br /></a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Kiểm soát từng bước</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Ngay cả khi đã củng cố vùng biên cương, hình dáng của Trung Quốc vẫn mang nét chưa được hoàn thiện và dễ bị tổn thương, như thể ai đó đã cắt xén vài phần lãnh thổ của Đại Trung Hoa xưa kia. Đường biên giới phía bắc của Trung Quốc bao quanh Mông Cổ, một vùng đất đai khổng lồ như từng bị xé ra khỏi cái lưng của Trung Quốc. Mông Cổ là quốc gia có mật độ dân số thấp nhất thế giới và giờ đây đang bị nền văn minh đô thị của người láng giềng Trung Quốc đe dọa về mặt nhân khẩu. Từng một lần xâm chiếm thành công Ngoại Mông để dọn đường tiến vào vùng đất trù phú, Bắc Kinh hiện nay đã sẵn sàng chờ thời cơ để quay lại chinh phục Mông Cổ lần nữa, theo một cách khác, để thỏa cơn khát dầu mỏ, than đá, uranium và cả những đồng cỏ hoang vu và màu mỡ. Các công ty khai khoáng của Trung Quốc vẫn đang tìm kiếm cổ phần lớn trong những tài sản dưới lòng đất của Mông Cổ. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thiếu kiểm soát đã biến Trung Quốc thành thị trường tiêu thụ lớn hàng đầu thế giới của các mặt hàng như aluminum, đồng, chì, niken, kẽm và quặng sắt, với mức tiêu thụ tăng từ 10% lên đến 25% thị phần kim loại thế giới kể từ cuối những năm 1990. Với Tây Tạng, Ma Cao và Hong Kong đã nằm trong tay chính quyền trung ương, những giao dịch của nước này với Mông Cổ sẽ trở thành thước đo để đánh giá mức độ của tham vọng đế quốc mà Bắc Kinh đang nung nấu.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nằm ở phía bắc Mông Cổ và giáp ranh với ba tỉnh đông bắc Trung Quốc là khu vực Viễn Đông của Nga, vùng đất hoang vu, băng giá, có diện tích gấp đôi Châu Âu trong khi dân cư ngày một thưa thớt. Nước Nga mở rộng biên giới của mình đến khu vực này từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, giai đoạn Trung Quốc còn đang suy yếu. Nhưng giờ đây, Trung Quốc đã trở thành cường quốc, còn ở phía Nga, không đâu trên lãnh thổ quốc gia, quyền lực của chính quyền lại yếu như ở một phần ba lãnh thổ nằm ở phía đông này. Ở ngay bên kia biên giới của chưa đến 7 triệu người Nga vùng Viễn Đông (thậm chí đến năm 2015 có thể giảm xuống còn 4.5 triệu) là hơn 100 triệu dân của ba tỉnh tiếp giáp của Trung Quốc, nghĩa là mật độ dân số ở phía Trung Quốc cao gấp 62 lần so với phía Nga. Dòng di dân từ Trung Quốc vẫn đang đổ sang Nga, định cư đông đúc ở thành phố trung tâm Chita, phía Bắc Mông Cổ, và sống rải rác ở những nơi khác trong vùng. Tìm kiếm tài nguyên là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại Trung Quốc khắp mọi nơi, trong khi đó vùng Viễn Đông thưa thớt của Nga lại đang sở hữu những mỏ khí đốt, dầu mỏ, gỗ, kim cương và vàng. David Blair, phóng viên thường trú cho tờ <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Daily Telegraph</i> của London trong bài viết gần đây đã cho biết “Moscow đang hết sức cảnh giác với số lượng lớn những người di cư Trung Quốc đổ vào khu vực này, mang theo những công ty khai thác khoáng sản và gỗ”.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Cũng như với Mông Cổ, nỗi sợ của người Nga không phải là một ngày nào đó Trung Quốc sẽ đưa quân xâm lược hoặc chính thức thôn tính vùng Viễn Đông Nga, mà là quyền lực kiểm soát của Bắc Kinh về dân cư và doanh nghiệp đang từng bước lặng lẽ bao phủ khu vực này (trong lịch sử, Trung Quốc đã từng có thời gian ngắn nắm giữ quyền lực tại đây trong thời kỳ nhà Thanh). Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, do những tranh chấp biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc, hàng trăm ngàn binh lính đã được đưa đến vùng Siberi xa xôi này và đã có lúc cuộc đối đầu bị đẩy đến mức xung đột nóng. Đến cuối thập niên 1960, những căng thẳng này đã làm rạn vỡ quan hệ Xô-Trung. Yếu tố địa lý gần kề có thể gây chia rẽ Trung Quốc và Nga, bởi quan hệ đồng minh hiện nay giữa hai bên chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những tính toán sách lược. Điều này có thể có lợi cho Mỹ. Vào những năm 1970, chính quyền Nixon đã từng lợi dụng mối bất hòa giữa Bắc Kinh và Moscow để đặt quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Trong tương lai, khi Trung Quốc trở thành một cường quốc lớn hơn, sẽ không ngạc nhiên khi Mỹ bắt tay với Nga thành một khối đồng minh chiến lược nhằm tạo thế cân bằng với “Vương quốc trung tâm”.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Phương Nam hứa hẹn</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đang dần lan rộng xuống phía Đông Nam. Thực ra, do các quốc gia Đông Nam Á đều không mạnh nên đây là khu vực kháng cự yếu nhất trước sự trỗi dậy của một Đại Trung Hoa. Về địa lý, Trung Quốc gần như không gặp cản trở nào với Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanmar. Trung tâm ảnh hưởng tự nhiên của vùng Sông Mekong, nơi kết nối tất cả các nước Đông Dương bằng đường bộ và đường sông, là Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Quốc gia có diện tích lớn nhất trên vùng lục địa của Đông Nam Á là Myanmar. Nếu như Pakistan được ví là Balkans của Châu Á do luôn có nguy cơ bị chia cắt lãnh thổ, thì Myanmar lại giống như nước Bỉ thời đầu thế kỷ XX khi luôn đứng trước mối đe dọa xâm lược từ những nước láng giếng hùng mạnh hơn. Giống như Mông Cổ, miền Viễn Đông Nga và những vùng lãnh thổ giáp khu vực biên giới Trung Quốc, Myanmar cũng là một quốc gia yếu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Trung Quốc đang thèm khát. Trung Quốc và Ấn Độ đang cạnh tranh phát triển cảng nước sâu ở Sittwe, nằm trên bờ biển Ấn Độ Dương của Myanmar, với cùng một hy vọng trong tương lai sẽ có thể xây dựng đường ống dẫn ga nối vào từ các mỏ khai thác ngoài khơi vịnh Bengal.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Với cả khu vực nói chung, Bắc Kinh đang áp dụng chiến thuật “chia để trị” (divide-and-conquer) trong một số lĩnh vực. Trong quá khứ, Trung Quốc đã đàm phán riêng rẽ với từng thành viên trong ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) thay vì với tất cả các quốc gia theo tư cách một khối chung. Ngay cả hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại chính thức với ASEAN gần đây cũng cho thấy cách thức Trung Quốc sẽ tiếp tục áp dụng để phát triển những mối quan hệ có lợi với những người láng giềng phía nam. Quốc gia này sử dụng ASEAN như một thị trường tiêu thụ những mặt hàng giá trị cao sản xuất trong nước đồng thời mua lại từ đây những sản phẩm nông nghiệp giá rẻ. Điều này đã mang về cho Trung Quốc thặng dư thương mại, trong khi biến các nước ASEAN dần trở thành bãi phế thải cho những sản phẩm công nghiệp sản xuất bởi nhân công giá rẻ của Trung Quốc.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thực tế này đang diễn ra trong tình cảnh quốc gia hùng mạnh một thời Thái Lan, sau những rung chuyển do biến cố chính trị nội bộ gần đây, đang ngày càng mờ nhạt trong vai trò mỏ neo của khu vực và đối trọng cố hữu của Trung Quốc tại đây. Hoàng gia Thái, với vị vua già yếu, đã không đủ sức đóng vai lực lượng duy trì ổn định như trước kia, trong khi giới quân sự Thái Lan đang bị tư tưởng bè phái thống trị. (Trung Quốc đang đẩy mạnh hợp tác quân sự song phương với Thái Lan đồng thời xây dựng những mối quan hệ tương tự với các nước Đông Nam Á khác, trong khi Mỹ ngày càng lơ là các cuộc tập trận trong khu vực để dồn sức cho các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq.) Ở phía nam Thái Lan, cả Malaysia và Singapore đều chuẩn bị bước vào thời kỳ chuyển đổi dân chủ đầy thách thức khi những nhà lãnh đạo khai quốc công thần đầy quyền lực trước đây, Mahathir bin Mohamad và Lý Quang Diệu, rời khỏi sân khấu chính trị. Malaysia ngày càng dấn sâu vào cái bóng kinh tế của Trung Quốc, cùng lúc dân số gốc Hoa tại đây cảm thấy bị đe dọa bởi người Malay Hồi giáo chiếm đa số. Singapore dù dân số hầu hết là người gốc Hoa nhưng chính phủ cũng đang lo ngại bị biến thành một nước chư hầu của Trung Quốc. Do đó, từ nhiều năm nay, đảo quốc này đã không ngừng chăm chút cho mối quan hệ về huấn luyện quân sự với Đài Loan. Lý Quang Diệu còn từng công khai thúc giục Mỹ tiếp tục can dự vào khu vực cả về quân sự lẫn ngoại giao. Về phần mình, Indonesia cũng đang bị mắc kẹt trong tình thế giữa một bên vẫn cần sự hiện diện của hải quân Mỹ để cản chân Trung Quốc, nhưng mặt khác lại lo sợ sẽ khiến phần còn lại của thế giới Hồi giáo nổi giận khi nước này có biểu hiện là đồng minh của Mỹ. Trước tình cảnh quyền lực của Mỹ tại Đông Nam Á đã bước qua thời hoàng kim, còn Trung Quốc đang trỗi dậy ngày một mạnh mẽ, các thành viên trong khu vực đang cùng bắt tay hợp tác chặt chẽ hơn nhằm làm suy yếu chiến lược “chia để trị”. Điển hình như Indonesia, Malaysia và Singapore đã liên kết thành một nhóm chống cướp biển. Các quốc gia này càng tự lực cánh sinh bao nhiêu, mối đe dọa từ quyền lực nổi lên của Trung Quốc đối với họ sẽ càng ít bấy nhiêu.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Về lục quân</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Á, Mông Cổ, vùng Viễn Đông Nga và Đông Nam Á là những khu vực ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Nhưng những vùng biên giới chính trị ở đây lại không thể thay đổi. Trong khi đó, tình hình trên bán đảo Triều Tiên lại là một câu chuyện khác: về cơ bản, bản đồ Trung Quốc bị cắt cụt ngay tại khu vực này, và biên giới chính trị của bán đảo không quá khó để thay đổi.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Chế độ biệt lập của Bắc Triều Tiên vốn không ổn định từ trong gốc rễ, và sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực. Với địa thế vươn ra từ Mãn Châu, bán đảo Triều Tiên kiểm soát toàn bộ giao thông hàng hải ra vào đông bắc Trung Quốc. Tất nhiên không ai thực sự tin rằng Trung Quốc sẽ thôn tính bất cứ phần nào của bán đảo Triều Tiên, nhưng Bắc Kinh vẫn luôn cảm thấy bất tiện khi bị lãnh thổ của quốc gia khác nằm chắn lối ở đó, nhất là phía bắc. Và mặc dù ủng hộ chế độ Stalin của Kim Jong Il, Trung Quốc cũng lên sẵn những kế hoạch cho tương lai thời hậu cầm quyền của Kim. Bắc Kinh mong muốn cuối cùng có thể đưa hàng ngàn người đào ngũ đang cư ngụ tại Trung Quốc về lại Bắc Triều Tiên để xây dựng nền tảng chính trị thuận lợi cho công cuộc chiếm quyền kiểm soát kinh tế từng bước của Bắc Kinh đối với khu vực sông Tumen [Đồ Môn]. Đây là ngã ba tự nhiên giữa Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Nga, đồng thời cũng là nơi có các cảng biển tốt nối với Nhật Bản trên Thái Bình Dương.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Vì lẽ này, có lẽ Bắc Kinh sẽ muốn chứng kiến một Bắc Triều Tiên độc tài phát triển hiện đại hơn nữa, để từ đó tạo thành một vùng đệm an toàn ngăn cách Trung Quốc với nền dân chủ hưng thịnh và năng động của Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi bán đảo Triều Tiên tái thống nhất, Trung Quốc vẫn được lợi. Dù một Triều Tiên thống nhất sẽ trở nên dân tộc chủ nghĩa hơn và giữ thái độ thù địch đối với cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc, hai kẻ thù đã từng tìm cách xâm lược nước này trong quá khứ, nhưng thái độ thù địch của Triều Tiên với Nhật Bản nặng nề hơn rất nhiều so với phía Trung Quốc. (Nhật đã chiếm đóng bán đảo từ năm 1910 đến 1945, và đến nay Seoul và Tokyo vẫn còn tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Tokdo/Takeshima). Quan hệ kinh tế với Trung Quốc sẽ khăng khít hơn so với Nhật Bản bởi nếu thống nhất, Triều Tiên sẽ gần như chắc chắn nằm dưới quyền điều hành của Seoul, trong khi hiện nay Trung Quốc đã là đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc. Cuối cùng, khi đã xích lại gần hơn với Bắc Kinh và xa rời Nhật Bản, nước Triều Tiên thống nhất sẽ chẳng có lý do gì để tiếp tục giữ chân quân Mỹ trong lãnh thổ của mình. Hay nói cách khác, không khó để nhìn ra viễn cảnh một Triều Tiên trong vòng tay của Đại Trung Hoa và thời kỳ hiện diện của bộ binh Mỹ ở Đông Bắc Á sẽ dần đi đến hồi kết.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Ví dụ trên bán đảo Triều Tiên đã cho thấy biên giới đất liền của Trung Quốc mang lại nhiều cơ hội tiềm năng hơn là mối đe dọa. Như Mackinder đã kết luận, Trung Quốc có khả năng sẽ phát triển thành một cường quốc cả trên biển và đất liền, ít nhất sẽ đủ sức làm lu mờ Nga tại khu vực lục địa Á-Âu. Nhà khoa học chính trị John Mearsheimer từng viết trong cuốn “<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">The Tragedy of Great Power Politics”</i> [Bi kịch của chính trị cường quốc]: “Những quốc gia nguy hiểm nhất trong hệ thống quốc tế là những cường quốc lục địa có trong tay lực lượng quân đội khổng lồ.” Đây có thể là nguyên nhân chúng ta phải e ngại tầm ảnh hưởng của Trung Quốc, bởi quốc gia này đang ngày càng trở thành một cường quốc lục địa. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ khớp với mô tả của Mearsheimer một phần, vì dù quân đội quốc gia sở hữu đến 1.6 triệu binh lính, lực lượng này vẫn khó có thể phát triển được khả năng viễn chinh trong những năm tới. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) từng ứng phó với trận động đất Tứ Xuyên 2008, giải quyết vụ bạo động sắc tộc gần đây ở Tây Tạng và Tân Cương và cả thách thức an ninh từ Olympic Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên, theo Abraham Denmark, thuộc Trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới [Center for a New American Security], những thành quả trên chỉ cho thấy PLA đủ khả năng di chuyển lực lượng trong phạm vi đại lục Trung Quốc, chứ vẫn chưa thể vận chuyển quân nhu và các loại vũ khí thiết bị hạng nặng ở một mức độ cần thiết cho các cuộc triển khai quân sự [ở nước ngoài]. Nhưng đạt được khả năng này hay không có lẽ cũng không quan trọng, vì dù sao việc PLA vượt qua biên giới Trung Quốc cũng khó có thể xảy ra trừ trường hợp có tính toán sai lầm (nếu có thêm một cuộc chiến tranh khác với Ấn Độ) hoặc khi cần lấp chỗ trống (nếu chế độ Bắc Triều Tiên sụp đổ). Trung Quốc vẫn có thể lấp đầy các khoảng trống quyền lực ở những vùng biên giới tiếp giáp bằng những biện pháp dân số và đầu tư doanh nghiệp mà không cần dùng đến một lực lượng bộ binh viễn chinh theo sau bảo vệ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Sức mạnh chưa từng thấy trên đất liền của Trung Quốc phần nào nhờ công đóng góp của các nhà ngoại giao, những người những năm gần đây luôn phải làm việc không ngửng nghỉ để giải quyết hàng loạt tranh chấp biên giới với các nước cộng hòa Trung Á, Nga và những láng giềng khác (Ấn Độ là một ngoại lệ đáng chú ý). Tầm quan trọng của sự thay đổi này là rõ ràng. Đã không còn thời kỳ một quân đội hùng hậu luôn ngấp nghé Mãn Châu; trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, sự hiện diện đáng ngại này đã buộc Mao phải đổ dồn ngân sách quốc phòng của Trung Quốc cho lực lượng bộ binh và sao lãng hải quân. Vạn Lý Trường Thành là một bằng chứng cho lịch sử luôn phải vật lộn với những cuộc xâm lược trên đất liền dưới nhiều hình thức của Trung Quốc từ thời xa xưa. Nhưng giờ đây tất cả đã là quá khứ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Dần vững vàng trên biển</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nhờ tình hình thuận lợi trên đất liền, Trung Quốc giờ đây có thể tự do tập trung xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu. Nếu như với các quốc gia nhỏ ven biển và các đảo quốc theo đuổi phát triển sức mạnh trên biển là điều tất yếu thì làm như vậy lại là một điều xa xỉ đối với những cường quốc lục địa lâu năm như Trung Quốc. Riêng trường hợp Trung Quốc, xa xỉ phẩm này có thể không quá khó đạt được khi địa hình bờ biển cũng thuận lợi không kém so với đất liền. Phần lãnh thổ của nước này chiếm hầu hết đường bờ biển Đông Á trong cả vùng ôn đới và nhiệt đới của Thái Bình Dương và biên giới phía nam Trung Quốc cũng đủ gần với Ấn Độ Dương để có thể kết nối với nhau bằng những tuyến đường bộ và ống dẫn nhiên liệu trong tương lai. Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ mở rộng quyền lực cứng của mình ra thế giới bên ngoài chủ yếu bằng lực lượng hải quân.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tuy nhiên, quốc gia này phải đối diện với một môi trường trên biển chông gai hơn nhiều so với trên đất liền. Hải quân Trung Quốc gần như không nhìn thấy được nhiều triển vọng nào khác ngoài những khó khăn trong khu vực mà nước này gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”, gồm bán đảo Triều Tiên, đảo Kuril, Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ryukyu), Đài Loan, Philippines, Indonesia, và Australia. Ngoại trừ Australia, tất cả những địa điểm còn lại đều có nguy cơ trở thành ngòi nổ xung đột. Đến nay, Trung Quốc đã bị vướng vào nhiều tranh chấp về chủ quyền ở những vùng đáy đại dương giàu năng lượng ở biển Hoa Đông và Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải), cụ thể là với Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư/Senkaku, với Philippines và Việt Nam ở Trường Sa. Những tranh chấp này tuy có thể giúp Bắc Kinh kích động chủ nghĩa dân tộc trong nước, nhưng với các nhà chiến lược hải quân, viễn cảnh trên biển này lại không mấy sáng sủa. Như mô tả của James Holmes và Toshi Yoshihara từ Học viện Hải chiến Hoa Kỳ [US Naval War College], chuỗi đảo thứ nhất là một dạng “Vạn Lý Trường Thành ngược”, tức là giống như một vòng vây hiệu quả của các đồng minh Mỹ, với mỗi bên đóng vai trò như một tháp canh giám sát và thậm chí có thể ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận với Thái Bình Dương.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Phản ứng của Trung Quốc trước cảm giác bị giam hãm này đôi khi rất quyết liệt. Sức mạnh trên biển thường ôn hòa hơn so với trên bộ, bởi hải quân không thể một mình xâm chiếm những vùng rộng lớn và nhiệm vụ phải đảm nhận không đơn thuần là chiến đấu (ví dụ như bảo vệ hoạt động giao thương). Do đó, người ta hẳn đã trông chờ Trung Quốc sẽ ôn hòa như những quốc gia biển trước đó, điển hình là Venice, Anh, hay Mỹ, và cũng như các nước này, sẽ tự quan tâm hàng đầu tới việc bảo vệ sự ổn định của hệ thống hàng hải, bao gồm cả lưu thông thương mại tự do. Nhưng Trung Quốc lại không tự tin đến như vậy. Do vẫn chưa là một cường quốc biển vững vàng, quốc gia này nhìn nhận đại dương dưới góc nhìn lãnh thổ, ngay từ cách gọi “chuỗi đảo thứ nhất” và “chuỗi đảo thứ hai” (gồm các vùng lãnh thổ Guam và quần đảo Bắc Mariana của Mỹ) đã cho thấy người Trung Quốc coi đây là những không gian đảo mở rộng của lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn. Với cách tính toán theo kiểu “tổng tất cả bằng không” như vậy với những vùng biển gần kề, các nhà chỉ huy hải quân Trung Quốc đang cho thấy dấu hiệu đi theo học thuyết hiếu chiến của chiến lược gia hải quân Mỹ thời kỳ đầu thế kỷ XX Alfred Thayer Mahan về ủng hộ kiểm soát biển và các cuộc chiến mang tính quyết định. Tuy nhiên, họ vẫn chưa sở hữu lực lượng hải quân đủ mạnh để áp dụng học thuyết này, và hệ quả của sự chênh lệch giữa tham vọng và tiềm lực là một số sự cố vụng về trong vài năm gần đây. Vào tháng 10/2006, một tàu ngầm Trung Quốc bám theo tàu USS<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Kitty Hawk</i> và sau đó nổi lên trong tầm bắn ngư lôi của tàu Mỹ. Vào tháng 11/2007, tàu Trung Quốc đã từ chối cho đội tàu sân bay <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Kitty Hawk</i> tiến vào Cảng Victoria khi tàu này đang tìm nơi neo đậu tránh biển động và thời tiết xấu. (Dù vậy <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Kitty Hawk</i> có ghé thăm Hong Kong năm 2010). Đến tháng 3/2009, một nhóm nhỏ tàu hải quân của PLA đã đe dọa tàu thăm dò của Mỹ USNS <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Impeccable</i> khi tàu này đang hoạt động công khai bên ngoài ranh giới lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc ở Biển Đông, chặn đường tàu và làm động tác giả đâm tàu. Đây là những hành động không phải của một cường quốc chín chắn, mà mới chỉ của một cường quốc chưa trưởng thành.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Thái độ hung hăng trên biển của Trung Quốc cũng được thể hiện qua những hợp đồng mua vũ khí. Bắc Kinh đang phát triển khả năng bất đối xứng với mục tiêu ngăn chặn Hải quân Mỹ tiến vào Biển Hoa Đông và những vùng biển ven Trung Quốc. Trung Quốc đã hiện đại hóa hạm đội tàu khu trục của mình và có kế hoạch sở hữu một hoặc hai chiếc tàu sân bay nhưng sẽ chưa thể có được tất cả các loại tàu chiến. Thay vào đó, nước này đã tập trung vào xây dựng các chủng loại mới của tàu ngầm thông thường, tàu ngầm tấn công hạt nhân và thậm chí tàu ngầm tên lửa đạn đạo. Theo Seth Cropsey, nguyên trợ lý thứ trưởng Hải quân Mỹ, và Ronald O’Rourke thuộc Bộ phận nghiên cứu thuộc Quốc hội, trong vòng 15 năm tới, Trung Quốc có thể sở hữu một lực lượng tàu ngầm lớn hơn của Hải quân Hoa Kỳ, vốn hiện đang có 75 tàu ngầm đang được triển khai. Không những vậy, Cropsey cho rằng, hải quân Trung Quốc có kế hoạch sử dụng các loại radar tầm xa, vệ tinh, mạng lưới định vị sóng âm dưới đáy biển, và các hoạt động chiến tranh mạng nhằm phục vụ các tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM). Mục tiêu cuối cùng của những tiến bộ công nghệ này song song với sự phát triển nhanh chóng của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc là nhằm ngăn chặn khả năng tiếp cận dễ dàng của Hải quân Hoa Kỳ vào những khu vực quan trọng phía Tây Thái Bình Dương.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Để thúc đẩy nỗ lực kiểm soát các vùng nước tại Eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông, Trung Quốc cũng đang cải thiện khả năng tác chiến mìn của mình, mua sắm các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư của Nga, và triển khai khoảng 1.500 tên lửa đất đối không dọc bờ biển. Thêm vào đó, song song với việc đặt hệ thống cáp quang dưới lòng đất và dịch chuyển các lực lượng phòng thủ vào sâu trong lục địa phía Tây nhằm tránh tầm bắn tên lửa hải quân của những kẻ thù tiềm tàng, Trung Quốc còn đang phát triển một chiến lược tấn công nhằm tiêu diệt các tàu sân bay, biểu tượng sức mạnh của Mỹ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tất nhiên, Trung Quốc trong tương lai gần sẽ không tấn công tàu sân bay Mỹ, và nước này vẫn còn một con đường dài phía trước nếu muốn trực diện thách thức sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Nhưng mục tiêu của Trung Quốc là phát triển những năng lực này dọc đường bờ biển nhằm dập tắt ý định của Hải quân Hoa Kỳ tiếp cận theo ý muốn vào khu vực giữa chuỗi đảo thứ nhất và bờ biển Trung Quốc. Vì khả năng định hình hành vi của đối thủ là yêu cầu cốt lõi của quyền lực, đây sẽ là bằng chứng cho thấy một Đại Trung Hoa đang được hiện thực hóa trên biển giống như trên đất liền.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Yếu tố Đài Loan</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Sự bất an trên biển</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<strong style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: <a href="http://nghiencuuquocte.files.wordpress.com/2013/07/nghiencuuquocte-net-24-yeu-to-dia-ly-cua-quyen-luc-tq1.pdf" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Yeu to dia ly cua quyen luc TQ.pdf</a></strong></div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-65704971547663063402013-08-06T09:16:00.001-07:002013-08-06T09:16:56.171-07:00Biển Đông: Dầu mỏ, những yêu sách trên biển, và cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung<h2 class="entry-title" style="background-color: white; border: 0px; clear: both; font-family: 'Helvetica Neue', Arial, Helvetica, 'Nimbus Sans L', sans-serif; font-size: 21px; line-height: 1.3em; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/2013/06/27/bien-dong-buszynski/" rel="bookmark" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #ff4b33; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none; vertical-align: baseline;">Biển Đông: Dầu mỏ, những yêu sách trên biển, và cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung</a></h2>
<div>
<br /></div>
<div>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;">Dịch từ bản tiếng Anh của Leszek Buszynski (2012). “The South China Sea: Oil, Maritime Claims, and U.S.–China Strategic Rivalry”, </span><i style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">The Washington Quarterly</i><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;">, 35:2, 139-156. </span></div>
<div>
<b style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Biên dịch:</b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"> Nguyễn Thị Thanh Dung | </span><b style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hiệu đính:</b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"> Lê Hồng Hiệp</span></div>
<div>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"><br /></span></div>
<div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nguy cơ xung đột leo thang từ những sự kiện tương đối nhỏ đã tăng lên tại Biển Đông trong hơn hai năm qua với những cuộc tranh chấp bây giờ ít có cơ hội hơn để đàm phán hoặc giải quyết. Về nguồn gốc, những tranh chấp này nảy sinh từ sau Thế chiến thứ hai khi những quốc gia ven biển – Trung Quốc và 3 nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), gồm Indonesia, Malaysia và Philipines, cũng như Việt Nam sau này – tranh giành để chiếm giữ những hòn đảo ở đó [Chi tiết này không chính xác – NHĐ]. Nếu vấn đề này chỉ đơn thuần là về tranh chấp lãnh thổ, thì nó có thể đã được giải quyết thông qua những nỗ lực của Trung Quốc nhằm xích lại gần ASEAN và thắt chặt quan hệ với khu vực này.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Khoảng những năm 1990, việc tiếp cận các mỏ dầu và khí cũng như nguồn cá và tài nguyên biển đã bắt đầu làm phức tạp hóa các yêu sách. Vì nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng lên, các bên yêu sách đề ra những kế hoạch khai thác các mỏ hydrocarbon của Biển Đông, khiến cho tranh chấp tiếp bước một cách không có gì bất ngờ, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, những tranh chấp năng lượng này không nhất thiết phải dẫn đến xung đột, vì chúng đã và có thể tiếp tục sẽ được quản lý thông qua cơ chế phát triển chung hoặc đa phương, điều đã có nhiều tiền lệ khác nhau mặc dù không trường hợp nào phức tạp như Biển Đông.<span id="more-231" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tuy nhiên, hiện tại, vấn đề đã không còn chỉ là những yêu sách chủ quyền và việc tiếp cận nguồn tài nguyên năng lượng, vì Biển Đông đã trở thành trọng tâm của cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung tại Tây Thái Bình Dương. Kể từ năm 2010, Biển Đông đã bắt đầu trở nên liên quan tới những vấn đề chiến lược rộng lớn hơn liên quan đến chiến lược hải quân của Trung Quốc và sự hiện diện của Hoa Kỳ tại khu vực. Điều này làm cho cuộc tranh chấp trở nên nguy hiểm và là lý do gây quan ngại, đặc biệt khi Hoa Kỳ đã tái khẳng định lợi ích của mình tại Châu Á Thái Bình Dương và củng cố quan hệ an ninh với các bên yêu sách thuộc ASEAN trong cuộc tranh chấp.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nguồn gốc tranh chấp về lãnh thổ</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc và Việt Nam đòi hỏi chủ quyền toàn bộ khu vực Biển Đông và các đảo ở đó trong khi Malaysia, Philipines, Indonesia và Brunei tuyên bố yêu sách đối với các khu vực tiếp giáp. Có hai nguyên tắc chi phối các yêu sách, mà cả hai đều chống lại yêu sách đòi chủ quyền toàn bộ vùng biển của Trung Quốc. Nguyên tắc thứ nhất là “chiếm hữu thực sự”, một tiền lệ đã được thiết lập bởi Tòa Trọng tài Vĩnh viễn trong vụ đảo Palmas tháng 4 năm 1928.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">1</span>“Chiếm hữu thực sự” bao gồm khả năng và ý định sử dụng quyền tài phán liên tục và không bị gián đoạn, điều khác với xâm lược. Mặc dù Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, một quần đảo bao gồm khoảng 30 đảo/ đá cách đều bờ biển Trung Quốc và Việt Nam, nhưng nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” đã chống lại Trung Quốc trong trường hợp quần đảo Trường Sa, một quần đảo nằm ngoài khơi Philipines và Malaysia, nơi mà ngoại trừ 9 bãi đá đã bị Trung Quốc chiếm từ năm 1988 đến năm 1992, những đảo/đá còn lại đều do các nước ASEAN có yêu sách chiếm giữ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nguyên tắc thứ hai là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đặt ra những quy tắc xác định rằng các yêu sách đối với nguồn tài nguyên phải dựa trên cơ sở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (EEZ là một vùng biển trải dài tới 320 km tính từ đường bờ biển, là cơ sở cho những đòi hỏi của các quốc gia ven biển với nguồn tài nguyên ở đó). UNCLOS không ủng hộ những yêu sách vượt ra ngoài phạm vi EEZ hoặc các thềm lục địa đã được công bố. Tuy nhiên, yêu sách của Trung Quốc vượt ra xa khỏi phạm vi EEZ của họ và chồng lấn với những yêu sách hợp pháp của các nước ASEAN.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Những yêu sách của Trung Quốc dựa trên lịch sử, nhưng những yêu sách như vậy không có nhiều giá trị trong luật quốc tế, cái mà theo quan điểm của Trung Quốc đã hạ thấp (lý do) di sản tổ tiên để lại của họ và là nguồn gốc cho sự bất mãn của nước này. Quan điểm của Trung Quốc là yêu sách của nước này có trước UNCLOS (được thông qua vào năm 1982 và có hiệu lực vào năm 1994 sau khi quốc gia thứ 60 phê chuẩn), và rằng Công ước này cần được điều chỉnh để phù hợp với các quyền lịch sử. Để khẳng định những yêu sách mà trong tình huống này sự phức tạp của luật quốc tế có thể không ủng hộ họ, người Trung Quốc đã dùng đến áp lực ngoại giao thường trực để luật quốc tế phải được thay đổi hoặc để đạt được một ngoại lệ đặc biệt, theo đó những yêu sách từ các thế hệ trước của họ sẽ được tất cả các bên công nhận.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Dầu mỏ, năng lượng, và nghề cá</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nếu chỉ là một tranh chấp chủ quyền đơn thuần, Biển Đông có thể sẽ đã tiếp tục bế tắc như vậy mà không nhiết thiết phải giải quyết ngay. Tuy nhiên, sự tồn tại của nguồn dự trữ năng lượng trong khu vực đã ngăn chặn giải pháp này. Với nhu cầu năng lượng toàn cầu đang tăng lên, những nước tiêu thụ lớn như Trung Quốc đang tìm kiếm những nguồn năng lượng mới để thỏa mãn nền kinh tế đang mở rộng của họ. Năm 2009, Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, và sức tiêu thụ của họ có thể tăng gấp đôi vào năm 2030, biến nước này thành nước tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới. Năm 2010, Trung Quốc đã nhập khẩu 52% lượng dầu tiêu thụ của mình từ Trung Đông, và Saudi Arabia cùng Angola cộng lại chiến đến 66% lượng dầu nhập khẩu của nước này. Trung Quốc đã và đang đa dạng hóa nguồn cung năng lượng của mình để giảm phụ thuộc vào dầu nhập khẩu và đã tìm cách gia tăng sản lượng ngoài khơi xung quanh lưu vực sông Châu Giang và Biển Đông.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">2</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Các yêu sách năng lượng đối kháng</i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Việt Nam là quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn trong khu vực, với công ty dầu khí quốc doanh PetroVietnam năm 2010 sản xuất được 24,4 triệu tấn dầu từ ba mỏ ở Biển Đông, tương đương với 26% tổng GDP của Việt Nam.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">3</span> Với việc sản lượng ở các mỏ đã xây dựng đang suy giảm, PetroVietnam đã ký 60 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với các công ty nước ngoài khác nhau nhằm khai thác các mỏ mới. Tuy nhiên, các mỏ mới được cho là sẽ không đủ bù đắp cho số sản lượng sụt giảm của các mỏ cũ.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">4 </span>Khi Việt Nam cố gắng khai thác các mỏ mới, có khả năng sẽ xảy ra xung đột mới với Trung Quốc, nước đã kiên quyết phản đối nỗ lực của Việt Nam nhằm ký hợp đồng khai thác với các công ty dầu quốc tế trên Biển Đông.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc cáo buộc các nước ASEAN có yêu sách đã xâm phạm vào vùng biển của họ và cho rằng Trung Quốc có quyền thực thi các yêu sách chống lại các nước này. Chẳng hạn vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, hai tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò dầu khí của một tàu khảo sát đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách bờ biển phía nam Việt Nam khoảng 120 km. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố những đoạn video cho thấy một con tàu Trung Quốc quả thật đã cắt đứt cáp nối với tàu Việt Nam mang tên<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Bình Minh.</i><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">5</span> Jiang Yu, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng tàu Trung Quốc đang tham gia “các hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển hoàn toàn bình thường trong khu vực thuộc quyền tài phán của Trung Quốc”.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">6 </span>Vào ngày 9 tháng 6, một tàu cá Trung Quốc cũng đã đâm ngang cáp khảo sát của một con tàu khảo sát khác của Việt Nam.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Philipines cũng đã có nhiều vấn đề với Trung Quốc. Manila đã nổ lực để nâng cao khả năng tự cung tự cấp dầu của mình, và đặt mục tiêu (tự cung) 60% vào cuối năm 2011, điều mà họ có khả năng không đạt được. Nước này dự tính chào thầu 15 hợp đồng trong những năm tới cho việc thăm dò vùng biển ngoài khơi đảo Palawan, trong một khu vực bị yêu sách bởi Trung Quốc.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">7 </span> Năm 2011, Philipines đã báo cáo 7 sự cố liên quan đến sự quấy rối của Trung Quốc. Trong một trường hợp, vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã quấy rối một tàu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Philippines yêu sách nằm cách bờ biển Palawan 250 km về phía tây. Hai con tàu này chỉ rời khỏi khu vực sau khi lực lượng không quân Philipines được điều động. Ngày 5 tháng 4, Manila đã phản đối chính thức lên Liên Hợp Quốc và tìm kiếm sự ủng hộ từ ASEAN nhằm đạt được lập trường chung về vấn đề này.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">8</span>Người Trung Quốc đã phản ứng lại vài ngày sau đó, chính thức tố cáo Philipines “xâm lược” vùng biển của họ.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">9 </span>Sau khi Trung Quốc triển khai tàu tuần tra 3000 tấn Haixun-31 được trang bị một trực thăng đến khu vực này, thì vào tháng 6, Philipines đã phải một tàu hải quân loại cũ từ thời Thế chiến thứ hai, tàu <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Rajah Humabon</i>, đến vùng biển yêu sách của họ.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">10</span>Chiếc tàu này đã di dời hết các cột mốc được người Trung Quốc dựng lên trên các bãi đá khác nhau thuộc vùng biển yêu sách bởi Philipines.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">11 </span>Cũng trong tháng 6, văn phòng tổng thống Philipines cũng tuyên bố đổi tên “Biển Nam Trung Hoa” (Biển Đông) thành “Biển Tây Philipines”, và công bố một chương trình nâng cấp hải quân, điều sẽ giúp nâng cao sự hiện diện hải quân đang hạn chế của họ tại khu vực. <span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">12</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Bất chấp phản đối từ phía Trung Quốc, cả Việt Nam và Philipines đều có kế hoạch xúc tiến các dự án thăm dò khí đốt hợp tác với các công ty nước ngoài. PetroVietnam sẽ hợp tác cùng Talisman Energy và sẽ bắt đầu khoan tại một khu vực mà Trung Quốc năm 1992 đã giao cho công ty Crestone, một công ty hiện được điều hành bởi Harvest Natural Resources. ExxonMobil cũng lên kế hoạch khoan thăm dò ngoài khơi Việt Nam, trong khi Philipines dự định khoan tại khu vực nơi mà các tàu Trung Quốc đã quấy rối tàu khảo sát của họ hồi tháng 3 năm 2011.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">13 </span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trong lúc đó, Ấn Độ cũng đã trở nên liên quan với tư cách một tác nhân bên ngoài, càng làm tình hình phức tạp hơn. Trung Quốc có thể có ảnh hưởng với các bên yêu sách ASEAN nhờ quy mô và sự gần gũi về vị trí địa lý của họ với các nước ASEAN, nhưng Ấn Độ lại có một vị thế và sức mạnh đủ để đối kháng với Trung Quốc. Hơn nữa, Ấn Độ vẫn đang chất chứa sự khó chịu riêng với Trung Quốc vì sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho Pakistan và các yêu sách của Trung Quốc đối với biên giới chung của hai nước. Những điều này khiến Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi đối phó với Ấn Độ. Quan hệ của Ấn Độ với Việt Nam bắt đầu từ thời của Indira Gandhi, khi chính phủ Gandhi đã công nhận chính phủ do Việt Nam hậu thuẫn tại Campuchia vào năm 1984. Nhiều người Ấn Độ coi Việt Nam như một đồng minh chống lại Trung Quốc.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tàu hải quân Ấn Độ <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">INS Airavat</i> khi đang di chuyển đến Nha Trang thuộc miền Nam Việt Nam vào tháng 7 năm 2011 thì đã bị Trung Quốc cảnh báo bằng tín hiệu radio là hãy tránh xa “vùng biển Trung Quốc”. Bộ Ngoại giao Ấn Độ phản ứng lại rằng “Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải trên vùng biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông, và quyền qua lại phù hợp với những nguyên tắc đã được công nhận trong luật quốc tế”.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">14 </span>Trong khi đó, Trung Quốc đã phản đối những hoạt động thăm dò của Công ty Dầu và Khí tự nhiên Ấn Độ (ONGC) xung quanh quần đảo Hoàng Sa, khu vực mà người Trung Quốc đặc biệt nhạy cảm. Quan điểm của ONGC là các yêu sách của Việt Nam phù hợp với luật quốc tế, và họ sẽ tiếp tục các dự án thăm dò tại hai lô gần quần đảo Hoàng Sa.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">15</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Sau đó, khi Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang sang thăm New Delhi, ONGC và PetroVietnam đã ký một hợp đồng ba năm về hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí vào ngày 12 tháng 10 năm 2011, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">16 </span>Đáng chú ý hơn, hợp đồng này được ký trong khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang đi thăm Bắc Kinh và bày tỏ tình hữu nghị với Trung Quốc.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">17 </span>Việt Nam lại dùng đến phương sách truyền thống trong ứng xử với Trung Quốc – tức là nhấn mạnh những điểm chung và tình hữu nghị, vốn là công việc của tổng bí thư Đảng, trong khi vẫn tìm kiếm ở Ấn Độ một đối trọng hiệu quả [để cân bằng với Trung Quốc]. Quả thực, sự can dự của Ấn Độ đến khu vực và mối quan hệ ngày càng thân thiết của họ với Việt Nam sẽ làm cho tình hình Biển Đông thêm khó khăn. Có thể dự đoán là sẽ xảy ra nhiều sự cố hơn nữa, khi mà Trung Quốc vạch ra giới hạn cho cường quốc đối thủ cạnh tranh ở châu Á này.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Cuộc chiến giành cá</i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Như thể tranh chấp về năng lượng vẫn chưa đủ, sự cạnh tranh về cả nguồn cá và các tài nguyên biển từ Biển Đông cũng góp phần gia tăng căng thẳng. Trong quá khứ, các tàu cá thường xuyên ra vào các vùng chồng lấn, nhưng việc gia tăng mức độ thường xuyên của những vụ việc như vậy đã gây ra những quan ngại. Việt Nam tuyên bố rằng 63 tàu cá cùng 725 ngư dân đã bị phía Trung Quốc bắt giữ trên Biển Đông kể từ năm 2005.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">18</span> Sau đó tất cả họ đều bị yêu cầu nộp tiền phạt rất cao thì mới được phóng thích. Trong một vụ việc gây sự chú ý lớn của dư luận Việt Nam, một tàu tuần tra Trung Quốc đã bắt giữ tàu cá Việt Nam cùng 12 thủy thủ khi họ đang hoạt động quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa vào tháng 3 năm 2010. Đây không phải lần đầu tiên Trung Quốc làm điều này và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối dữ dội, và đây là một trường hợp cho thấy sự bất mãn của Việt Nam với hành xử của Trung Quốc.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc áp đặt một lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên Biển Đông, họ xem đó như là cách bảo tồn nguồn cá cho đội tàu của mình tại Biển Đông. Lần đầu tiên Bắc Kinh ban lệnh cấm là vào năm 1999, từ tháng 6 tới tháng 7 hàng năm, và tới năm 2009 thì họ kéo dài lệnh cấm thành từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8 hàng năm. Phạm vi cấm rất mơ hồ, mặc dù lệnh cấm bao trùm lên một khu vực bao quanh quần đảo Hoàng Sa nhưng lại không vươn xa xuống phía Nam tới quần đảo Trường Sa.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">20 </span>Việt Nam phản đối kịch liệt, vì lệnh cấm ảnh hưởng tới sinh kế của các ngư dân Việt. Để thực thi lệnh cấm và bảo vệ các tàu cá của mình, Trung Quốc phái đến khu vực các tàu mà họ gọi là “tàu kiểm ngư”, nhưng thực chất đó là những tàu hải quân được hoán chuyển. Trung Quốc cũng đã tuyên bố kế hoạch tăng cường sức mạnh của lực lượng hải giám, lên đến 16 máy bay và 350 tàu biển vào năm 2015, số máy bay và tàu này sẽ được sử dụng để giám sát hoạt động tàu bè trên biển, thực hiện các nhiệm vụ khảo sát, “bảo vệ an ninh hành hải” và kiểm tra các tàu nước ngoài hoạt động “trên vùng biển của Trung Quốc”.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">21</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Một vấn đề khác là tàu Việt Nam cũng đi vào vùng biển mà các nước ASEAN khác yêu sách. Hai tàu Việt Nam mang tên Indonesia đã bị tàu tuần tra Indonesia bắt hồi tháng 2 năm 2011 gần quần đảo Natuna.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">22 </span>Phía Indonesia nói rằng trong năm 2009, khoảng 180 tàu (không phải tất cả đều là của Việt Nam, ví dụ như có một số là của Malaysia) đã bị bắt giữ vì đánh cá bất hợp pháp trong vùng biển của họ.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">23 </span>Khi nhu cầu tăng lên mà nguồn cá bị cạn kiệt, việc tranh chấp đánh bắt cá chắc chắn sẽ gia tăng trên Biển Đông, đặc biệt là khi các bên có yêu sách đều nâng cấp hải quân và lực lượng tuần tra bờ biển.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Cạnh tranh giữa các cường quốc</b><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Năng lượng và nguồn cá không là những yếu tố duy nhất trong cuộc tranh chấp này. Biển Đông đang được đưa vào phạm vi cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ khi Trung Quốc tăng cường mở rộng chiến lược hải quân và triển khai các năng lực hải quân mới. ASEAN cho rằng những yêu sách bành trướng của Trung Quốc đến toàn bộ khu vực là có thể đàm phán được, rằng Trung Quốc sẽ chịu dàn xếp cho một hiệp định khu vực có các điều khoản thuận lợi, trong đó những tuyên bố chủ quyền sẽ được điều chỉnh, và nguồn lợi dầu khí cũng như ngư trường sẽ được chia sẻ. Dựa vào cơ sở này, ASEAN đã kéo Trung Quốc vào tham gia đối thoại thường xuyên với hy vọng thuyết phục các nhà cầm quyền Trung Quốc về giá trị của một cơ chế chuẩn tắc giúp điều chỉnh hành vi ở Biển Đông. ASEAN thường xuyên cẩn trọng trong việc tránh khiêu khích Trung Quốc và kỳ vọng Trung Quốc sẽ đáp lại kịp thời, và rằng phương cách ASEAN trong việc khuyến khích đồng thuận sẽ được Bắc Kinh chấp nhận một cách đúng lúc.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Nếu vấn đề chỉ liên quan đến những yêu sách cạnh tranh về năng lượng và ngư trường, thì một hiệp định chỉ rõ quy tắc tương tác và quản lý tranh chấp (gọi cách khác là một cơ chế hàng hải) rất có thể có khả năng trở thành hiện thực như các nhà hoạch định chính sách ASEAN đã lập luận. Tuy nhiên, cạnh tranh chiến lược với Hoa Kỳ đã định hình lại tranh chấp theo cách làm giảm vai trò của ASEAN và khả năng của họ trong việc đàm phán một giải pháp cho vấn đề với Trung Quốc. Điều đó làm Trung Quốc lãnh đạm với các ý tưởng của ASEAN và trở nên quan ngại hơn về các động thái bên ngoài khu vực của Hoa Kỳ cũng như các hoạt động hải quân của nước này. Điều này cũng dẫn đến việc Trung Quốc cư xử đặc biệt quyết liệt hơn bởi khả năng lớn hơn trong việc kiểm soát Biển Đông là một phần cần thiết cho sự triển khai và chiến lược tăng cường hải quân của nước này.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Chiến lược hải quân của Trung Quốc đã được định hình trong nhiều năm qua kể từ khi Tư lệnh Hải quân Liu Huaqing (1982-1988) lần đầu tiên kêu gọi hình thành một lực lượng hải quân viễn dương đủ sức bảo vệ quyền lợi hàng hải của Trung Quốc. Hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã đều đặn phát triển sức mạnh hải quân, được nước này coi là cần thiết cho vị thế siêu cường. Khi Trung Quốc tăng sức mạnh kinh tế, lợi ích hàng hải của họ cũng mở rộng tương ứng (cùng với sức mạnh hải quân), đưa họ vào cuộc xung đột với Hoa Kỳ – cường quốc hải quân thống trị tại Tây Thái Bình Dương.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Sự bành trướng của hải quân Trung Quốc</i></b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Chiến lược hải quân Trung Quốc đề ra ba nhiệm vụ nhằm định hướng cho sự phát triển năng lực hải quân của họ. Thứ nhất là ngăn chặn Đài Loan tuyên bố độc lập đồng thời cản trở Hoa Kỳ ủng hộ Đài Loan bằng việc triển khai hải quân khi có các sự kiện xung đột. Nhiệm vụ này đã trở thành một điểm nổi bật của chiến lược hải quân Trung Quốc sau khi Hoa Kỳ điều động hai tàu sân bay trong suốt giai đoạn khủng hoảng ở eo biển Đài Loan năm 1995 và 1996, đó là chiếc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nimitz</i> vào tháng 12 năm 1995 và chiếc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Independence</i> vào tháng 3 năm 1996, như một cách phô diễn sức mạnh hải quân mà người Trung Quốc chưa thể nào quên. Nhiệm vụ thứ hai là bảo vệ các tuyến giao thương mở rộng của Trung Quốc và các nguồn cung cấp năng lượng đang vận hành xuyên Ấn Độ Dương và eo biển Malacca, nơi ước tính chừng 80% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc được chuyên chở.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">24 </span>Nhiệm vụ này đã trở nên quan trọng sau khi Trung Quốc trở thành một nước nhập khẩu ròng về dầu mỏ vào năm 1993 và khi Bắc Kinh nhận ra nền kinh tế của họ phụ thuộc vào dầu nhập khẩu đến thế nào vào cuối thập niên 1990. Nhiệm vụ thứ ba là triển khai năng lực đánh trả hạt nhân lần thứ hai từ mặt biển tại khu vực Tây Thái Bình Dương, một hệ quả khác của cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1995 -1996. Bắc Kinh hiểu rằng năng lực này sẽ là một sự răn đe tối hậu chống lại Hoa Kỳ trong các cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan cũng như các cuộc khủng hoảng khác.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Để thực hiện các sứ mệnh này, Trung Quốc đã phát triển hoặc triển khai bốn lớp tàu ngầm và sáu lớp tàu khu trục mới trong vòng hơn hai thập kỷ qua. Trung Quốc đã đặt mục tiêu phát triển lực lượng hải quân viễn dương, và như Đô đốc tư lệnh Hải quân Wu Shengli đã tuyên bố vào tháng 5 năm 2009, Trung Quốc sẽ thiết lập một “hệ thống phòng thủ trên biển” để “bảo vệ an ninh hàng hải và sự phát triển kinh tế”.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">25 </span>Hải quân viễn dương cần có những tàu sân bay, và tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, chiếc <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Shi Lang</i>, được xây dựng lại từ chiếc tàu sân bay thời Xô Viết trọng tải 32.000 tấn <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Varyag</i>, đã được thử nghiệm trên biển từ ngày 10 đến ngày 14 tháng 8 năm 2011. Họ hy vọng nó sẽ đi vào hoạt động trong năm 2012 và sẽ mang theo 48 chiếc máy bay chiến đấu trên biển Su-33 và máy bay chiến đấu Trung Quốc Jian- 10 được điều chỉnh để phù hợp với hoạt động trên tàu sân bay. Trung Quốc được cho là sẽ xây dựng một chiếc tàu sân bay khác trọng tải 50.000 đến 60.000 tấn trước năm 2015 và một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân trước năm 2020.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">26 </span>Các tàu sân bay đều đòi hỏi đội tàu hộ tống để cung cấp năng lực phòng không và ngăn chặn các cuộc tấn công từ tàu ngầm. Điều này chỉ ra rằng họ đã có kế hoạch mở rộng năng lực hải quân quy mô lớn.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Xét về lực lượng hạt nhân trên biển, Trung Quốc có bốn tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, hay gọi là SSBN. Chiếc tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đầu tiên của Trung Quốc là tàu lớp <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hạ (Xia)</i> bây giờ đã lỗi thời, được hoàn thành vào năm 1981 và mang theo được 12 tên lửa đạn đạo JL – 1 (SLBM) có tầm bắn lên đến 2.700 km, không đủ để tấn công vào đất liền của Hoa Kỳ. Hai trong số những chiếc SSBN hiện đại và đáng tin cậy hơn thuộc lớp <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tấn (Jin)</i> đã được triển khai từ năm 2004, mỗi cái mang theo 12 tên lửa đạn đạo JL- 2 với tầm bắn lên đến 8.400 km, tạo cho chúng khả năng tấn công liên lục địa. Trung Quốc được cho là sẽ triển khai ít nhất 5 chiếc thuộc lớp <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tấn</i> trong những năm tới.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">27</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Trung Quốc cần nơi trú ẩn cho các nền tảng hải quân của họ để chống lại những cuộc tấn công từ trên không và trên biển.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">28 </span>Những chiếc tàu sân bay và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo cũng đòi hỏi tiếp cận những vùng biển mở để hoàn thành sứ mệnh của mình; nếu không chúng có thể bị giam hãm vào một khu vực giới hạn và trở thành gần như là vô ích. Chỉ một vài nơi dọc theo bờ biển của Trung Quốc là có thể cung cấp chỗ trú ẩn cho hải quân của họ, nơi có thể tổ chức phòng ngự, đồng thời có thể dễ dàng tiếp cận vùng biển mở. Một là ở Hoàng Hải, nơi có căn cứ tàu ngầm đặt tại Xiaopingdao gần Đại Liên. Một nơi hợp lý khác là khu vực Hải Nam và khu vực nửa đóng của phía bắc Biển Đông, nơi có lợi thế gần với eo biển Malacca và các tuyến đường biển nối sang Ấn Độ Dương. Bất cứ vị trí nào khác xa hơn về phía Bắc sẽ có thể dễ bị tấn công ngăn chặn từ phía biển vào bởi Hoa Kỳ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Vì lý do này, Trung Quốc đã và đang xây dựng căn cứ ngầm ở Tam Á trên đảo Hải Nam, nơi sẽ chứa không chỉ các tàu SSBN mà cả tàu sân bay cũng như đội tàu hộ tống khi chúng được triển khai.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">29 </span>Năm 2008, một chiếc tàu ngầm SSBN lớp <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tấn </i>đã được triển khai ở đó, và tới tháng 10 năm 2010, hai tàu ngầm hạt nhân lớp <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Thương (Shang)</i> đã vào bến ở Tam Á.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">30 </span>Tàu sân bay <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Shi Lang</i> cũng có thể sẽ được đóng ở đó. Khi Hải Nam phát triển trở thành căn cứ hải quân thì quần đảo Hoàng Sa ở phía nam đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp lá chắn bảo vệ đường không và đường biển cho Hải Nam. Điều đó giải thích vì sao Bắc Kinh rất nhạy cảm với các tàu khảo sát của Hoa Kỳ và tại sao 5 tàu hải quân Trung Quốc đã đụng độ với chiếc USNS <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Impeccable</i> của Hoa Kỳ khi nó đi vào trong vùng biển cách đảo Hải Nam 121 km vào ngày 9 tháng 3 năm 2009.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">31</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Bảo vệ Hải Nam là một chuyện, nhưng đảm bảo cho tàu sân bay và SSBN tiếp cận được vùng biển mở là một chuyện khác. Để làm được việc này, Trung Quốc cần phải kiểm soát được quần đảo Trường Sa, hoặc ít nhất họ cần có khả năng ngăn chặn các cường quốc bên ngoài can thiệp vào các hoạt động của hải quân Trung Quốc trong một khu vực mở rộng đến tận eo biển Malacca. Năm 2009, tướng Zhang Li, nguyên Phó tổng Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc (PLA) đã kêu gọi xây một sân bay và một cảng biển tại bãi đá Vành Khăn trong khu vực Philipines tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Trường Sa mà hiện giờ đang do Trung Quốc chiếm. Ý định của họ là nhằm tiến hành các cuộc tuần tra trên không tại khu vực, để yểm trợ các tàu cá Trung Quốc, và để thể hiện chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">32 </span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Chính Liu Huaqing là người đưa ra các khái niệm phòng thủ khu vực cho Trung Quốc, tạo ra không gian hàng hải phòng vệ cho việc phát triển hải quân. Liu đã học được khái niệm phòng thủ khu vực từ Sergei Gorshkov, chỉ huy hải quân Liên Xô, và là người hướng dẫn của ông tại Học viện Hải quân Liên Xô khi ông du học ở đó những năm 1950. Dưới trướng Liu, chiến lược hải quân của Trung Quốc chuyển từ phòng thủ ngoài khơi hay phòng thủ bờ biển sang “phòng thủ biển gần”, bao trùm một khu vực rộng kéo dài tới “chuỗi đảo đầu tiên”. Vùng biển này trải dài suốt từ Nhật Bản đến quần đảo Ryukyu, đến Philipines rồi đến Biển Đông; chuỗi đảo thứ hai nằm xa hơn ngoài khơi Thái Bình Dương, trải dài từ Nhật Bản và bao gồm cả đảo Guam.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">33 </span>Kể từ khi hình thành cách đây hai thập niên, khái niệm chuỗi đảo tiếp tục định hình tư duy hải quân Trung Quốc, đóng vai trò là một cách để xác định và phân ranh giới các khu vực lợi ích.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">34 </span>Khái niệm chuỗi đảo đầu tiên bao gồm Đài Loan như là điểm then chốt và cả không gian biển bao quanh nó, cho phép phong tỏa bằng tàu ngầm trong trường hợp Đài Loan tuyên bố độc lập khỏi đại lục. Nó cũng bao gồm những vùng biển đủ lớn cho các tàu ngầm SSBN thường xuyên tuần tra và triển khai các điểm phóng tên lửa ở giữa đại dương.<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">35</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Nếu là một khái niệm phòng thủ khu vực, nó bao gồm cả Hoàng Hải lẫn Biển Đông như là những vị trí trú ẩn an toàn để đặt các căn cứ hải quân cũng như đường ra biển khơi an toàn. Tuy nhiên, phòng thủ khu vực đòi hỏi phải giữ chân Hải quân Hoa Kỳ từ xa và ở một khoảng cách đủ lớn để nó không thể can thiệp vào việc triển khai của hải quân Trung Quốc trong khu vực. Để đạt mục tiêu này, Trung Quốc đã triển khai DF-21D, được mô tả là một loại tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM) có khả năng nhắm đến các tàu sân bay Hoa Kỳ và các tàu mặt nước lớn khác.</span><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">36 </span><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Đô đốc Robert F. Willard, tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, nói rằng khi kết hợp cùng tàu ngầm Trung Quốc, tên lửa này có thể gây ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hải quân Mỹ, và cuối cùng có thể sẽ “vô hiệu hóa” năng lực triển khai sức mạnh của Hoa Kỳ.</span><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">37 </span><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; line-height: 1.5; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng với khả năng định vị và truy đuổi mục tiêu hiệu quả, loại tên lửa này có thể đe dọa các tàu hải quân Mỹ trong tầm bắn từ 1.500 đến 2.100km.</span><span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; bottom: 1ex; font-size: 10px; height: 0px; line-height: 1; margin: 0px; padding: 0px; position: relative; vertical-align: baseline;">38</span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Phù hợp với các khái niệm phòng thủ khu vực này, Trung Quốc cũng kỳ vọng Hoa Kỳ công nhận các vùng ảnh hưởng riêng của mình ở Tây Thái Bình Dương, trong đó Đài Loan và Biển Đông phải chắc chắn nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong quan điểm của Trung Quốc, sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ ở vùng biển Tây Thái Bình Dương ngăn chặn việc Đài Loan thống nhất với đại lục và khuyến khích các nước ASEAN có yêu sách ở Biển Đông chống lại các yêu sách của Trung Quốc. Nếu có thể đạt tới một thỏa thuận nào đó theo cách này với một nước Mỹ đang suy yếu về kinh tế thì Trung Quốc quả thật sẽ trở thành siêu cường thống trị tại khu vực Tây Thái Bình Dương.</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-20184125565095111972013-08-06T09:13:00.002-07:002013-08-06T09:13:46.926-07:00Sự cáo chung của lịch sử?<h2 class="entry-title" style="background-color: white; border: 0px; clear: both; font-family: 'Helvetica Neue', Arial, Helvetica, 'Nimbus Sans L', sans-serif; font-size: 21px; line-height: 1.3em; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/2013/07/28/38-su-cao-chung-cua-lich-su/" rel="bookmark" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #ff4b33; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none; vertical-align: baseline;">Sự cáo chung của lịch sử?</a></h2>
<div>
<br /></div>
<div>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;">Francis Fukuyama (1989), </span><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;">“The End of History?”, </span><i style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">The National Interest,</i><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"> No. 16 (Summer), pp. 3-18. </span><b style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Biên dịch:</b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"> Nguyễn Phú Lợi | </span><b style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hiệu đính:</b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"> Lê Hồng Hiệp</span></div>
<div>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px;"><br /></span></div>
<div>
<blockquote style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; font-style: italic; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px 3em; quotes: none; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; font-style: normal; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"><strong style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Lời giới thiệu:</strong> Năm 1989, khi những cải cách ở Trung Quốc và Liên Xô đang diễn ra sâu rộng và cuộc Chiến tranh Lạnh chuẩn bị chính thức kết thúc, Francis Fukuyama đã xuất bản bài viết gây tiếng vang “Sự cáo chung của lịch sử?” trên tạp chí </span>The National Interest<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; font-style: normal; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">. Dựa trên các tư tưởng của Hegel, Fukuyama cho rằng vào thời điểm bấy giờ có thể coi lịch sử đã “cáo chung” theo nghĩa rằng “đó là điểm kết thúc trong cuộc tiến hóa tư tưởng của loài người và sự phổ quát hóa của dân chủ tự do phương Tây với tư cách là thể thức cuối cùng của sự cai trị con người” bởi các hệ tư tưởng cạnh tranh, điển hình là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị đánh bại. Dù nhiều luận điểm trong bài viết còn gây tranh cãi nhưng rõ ràng đây là một bài viết có nhiều ảnh hưởng, thể hiện qua việc đến nay đã được trích dẫn hơn 10.000 lần. </span>Nghiencuuquocte.net<span style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; font-style: normal; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bản dịch của bài viết này.</span></div>
</blockquote>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Khi xem xét dòng sự kiện trong khoảng một thập kỉ vừa qua, khó mà tránh khỏi cảm nhận là thứ gì đó rất căn bản đã xảy ra trong lịch sử thế giới. Năm vừa qua chứng kiến một loạt các bài viết tưởng niệm sự chấm dứt Chiến tranh Lạnh và thực tế là “hòa bình” đã nở rộ ở nhiều khu vực trên thế giới. Hầu hết những phân tích này thiếu một khuôn khổ khái niệm rộng lớn hơn để phân biệt giữa cái gì là bản chất với cái gì là ngẫu nhiên hay tình cờ trong lịch sử thế giới, và vì vậy không khó để thấy sự hời hợt của chúng. Nếu Gorbachev bị hất cẳng khỏi điện Kremlin hay một thủ lĩnh Hồi giáo (Ayatollah) mới tuyên bố một thời kỳ cách mạng hoàng kim cho một thủ đô hoang tàn của Trung Đông, thì cũng chính những nhà bình luận đó sẽ tranh nhau loan báo về sự tái sinh của một kỷ nguyên xung đột mới.<span id="more-358" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"></span></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Tuy nhiên, tất cả những người này đều mơ hồ nhận ra rằng có một tiến trình lớn hơn đang diễn ra, một tiến trình khiến các dòng tít chính của báo chí mỗi ngày luôn thể hiện sự gắn kết và có trật tự. Thế kỉ 20 chứng kiến thế giới phát triển bộc phát thành những xung đột về ý thức hệ, khiến chủ nghĩa tự do ban đầu phải cạnh tranh với những tàn tích của chủ nghĩa chuyên chế, sau đó là chủ nghĩa Bôn-sê-vích và chủ nghĩa phát xít, và cuối cùng là một thứ chủ nghĩa Mác được cập nhật những tư tưởng mới vốn đe dọa dẫn tới một ngày tận thế bởi chiến tranh hạt nhân. Nhưng một thế kỷ bắt đầu với sự tự tin tràn đầy về một chiến thắng cuối cùng của dân chủ tự do phương Tây dường như vào những năm cuối cùng lại quay lại chu kỳ mà nó bắt đầu: không phải là sự “kết thúc của ý thức hệ” hay sự hội tụ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội như một số người dự liệu trước đó, mà là một chiến thắng chắc chắn của chủ nghĩa tự do về kinh tế và chính trị.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Thắng lợi của phương Tây, hay mẫu mực lí tưởng phương Tây, được thể hiện rõ ràng trước hết ở sự thiếu vắng những hệ thống khả dĩ có thể thay thế cho chủ nghĩa tự do phương Tây. Trong thập kỉ vừa qua đã có những biến đổi không thể nhầm lẫn trong môi trường tư tưởng của hai quốc gia cộng sản lớn nhất thế giới và sự khởi đầu những trào lưu cải cách vĩ đại ở cả hai nơi này. Song hiện tượng này vượt ra ngoài khuôn khổ chính trị cấp cao và có thể nhìn thấy được qua sự lan tỏa không thể tránh khỏi của văn hóa tiêu dùng Tây phương trong những bối cảnh khác nhau, ví dụ như những thị trường nông phẩm và tivi màu giờ có mặt khắp nơi ở Trung Quốc, những nhà hàng hợp tác và cửa hiệu quần áo khai trương năm qua ở Matxcơva, nhạc Beethoven văng vẳng trong các trung tâm thương mại Nhật Bản, và nhạc rock được yêu thích ở khắp Praha, Rangoon hay Tehran.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Những gì chúng ta đang chứng kiến không chỉ là sự cáo chung của Chiến tranh Lạnh, hay sự trôi qua của một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, mà còn là sự cáo chung của lịch sử theo nghĩa rằng đó là điểm kết thúc trong cuộc tiến hóa tư tưởng của loài người và sự phổ quát hóa của dân chủ tự do phương Tây với tư cách là thể thức cuối cùng của sự cai trị con người. Điều này không có nghĩa là sẽ không còn sự kiện nào nữa để lấp đầy những trang viết tóm lược quan hệ quốc tế mỗi năm của tờ <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Foreign Affairs</i>, bởi vì sự thắng thế của chủ nghĩa tự do đã diễn ra chủ yếu trong địa hạt tư tưởng hay ý thức và vẫn còn chưa hoàn chỉnh trong thế giới vật chất thật. Song có những lí do mạnh mẽ để tin tưởng rằng đó chính là lý tưởng sẽ thống trị thế giới vật chất <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">trong dài hạn</i>. Để hiểu điều này, trước hết chúng ta cần xem xét một vài vấn đề lí luận tập trung vào bản chất tự nhiên của những biến đổi lịch sử.<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> </b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">I.</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Ý niệm về sự cáo chung của lịch sử không phải là một ý niệm mới mẻ. Người truyền bá nổi tiếng nhất là Các Mác, ông tin rằng chiều hướng phát triển lịch sử là một chiều hướng có mục đích được quyết định bởi những lực lượng vật chất tác động lẫn nhau và sẽ chỉ kết thúc khi đạt được xã hội cộng sản không tưởng vốn có thể giải quyết triệt để được mọi mâu thuẫn trước đó. Nhưng quan niệm về lịch sử như một quá trình biện chứng với một khởi đầu, điểm giữa và kết thúc đã được Mác mượn từ bậc tiền bối người Đức vĩ đại Georg Wilhelm Friedrich Hegel.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Dù muốn hay không, rất nhiều ý niệm lịch sử của Hegel đã trở thành một phần hành trang tri thức hiện đại của chúng ta. Quan niệm cho rằng loài người phát triển qua một chuỗi giai đoạn nhận thức ban sơ trên tiến trình tới hiện tại và những giai đoạn này tương ứng với những hình thái tổ chức xã hội – như bộ lạc, chiếm hữu nô lệ, chính trị thần quyền và cuối cùng là xã hội dân chủ quân bình – đã trở nên không thể tách rời khỏi những hiểu biết hiện đại về con người. Hegel là triết gia đầu tiên phát biểu ngôn ngữ của khoa học chính trị hiện đại đến chừng mực mà theo ông, con người là sản phẩm của môi trường lịch sử xã hội cụ thể chứ không phải là sự tập hợp những thuộc tính “tự nhiên” ít nhiều bất biến như những nhà lý luận về quyền tự nhiên trước đó đã phát biểu. Sự làm chủ và biến đổi môi trường tự nhiên của con người thông qua ứng dụng khoa học và công nghệ không phải là khái niệm nguyên bản của Mác mà là của Hegel. Tuy nhiên, không giống như những nhà lịch sử chủ nghĩa sau này, mà thứ chủ nghĩa tương đối về lịch sử <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(là tư tưởng cho rằng chân lý không bất biến mà thay đổi tùy vào cách nhìn nhận của từng giai đoạn lịch sử – NHĐ)</i> của họ thoái hóa thành thứ chủ nghĩa tương đối đơn thuần không rõ căn nguyên, Hegel lại tin rằng lịch sử sẽ thăng hoa ở một thời điểm tuyệt đối, thời điểm mà ở đó một hình thái xã hội và nhà nước phù hợp, tối hậu sẽ giành chiến thắng.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Điều không may cho Hegel là ông được biết đến ngày nay chủ yếu như là vị tiền bối của Mác, và cũng không may là rất ít người trong số chúng ta quen thuộc với những tác phẩm của Hegel thông qua nghiên cứu trực tiếp, mà chủ yếu biết đến chúng một cách không chính xác thông qua lăng kính của chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, ở Pháp đã có một nỗ lực nhằm cứu Hegel thoát ra khỏi những diễn giải của chủ nghĩa Mác và tái sinh ông với tư cách là một triết gia sáng suốt nhất khi nói về thời đại của chúng ta. Trong số những nhà nghiên cứu hiện đại về Hegel ở Pháp, người lỗi lạc nhất chắc chắn là Alexandre Kojève, một người Nga nhập cư xuất chúng giảng dạy một chuỗi chuyên đề gây nhiều ảnh hưởng tại trường <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Ecole Practique des Hautes Etudes<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn1" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title=""><b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1]</b></a> </i>ở Paris trong những năm 1930. Trong khi không được biết đến nhiều ở Mỹ thì Kojève lại có ảnh hưởng lớn trong đời sống học thuật ở Châu Âu. Trong số những học trò của ông có những danh nhân sau này như Jean-Paul Sartre thuộc cánh tả và Raymond Aron thuộc cánh hữu; thuyết hiện sinh sau chiến tranh vay mượn nhiều phạm trù cơ bản từ Hegel thông qua Kojève.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Kojève tìm cách tái hiện Hegel của cuốn <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hiện tượng học về tư duy (Phenomenology of Mind)</i>, một Hegel từng tuyên bố rằng lịch sử cáo chung vào năm 1806. Ngay từ khi ấy, Hegel đã nhìn thấy ở chiến thắng của Napoleon trước vương triều Phổ qua trận Jena một sự lên ngôi của lí tưởng cách mạng Pháp và sự phổ quát hóa sắp xảy đến của mô hình nhà nước thu nạp những nguyên tắc về tự do và bình đẳng. Bất chấp những sự kiện hỗn loạn trong vòng một thế kỉ rưỡi tiếp theo đó, Kojève không những không bác bỏ Hegel mà còn khẳng định rằng Hegel về căn bản đã đúng.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn2" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[2]</a> Trận Jena đánh dấu sự kết thúc của lịch sử bởi vì vào thời điểm đo <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">đội tiên phong</i> của nhân loại (một thuật ngữ khá quen thuộc với chủ nghĩa Mác) đã hiện thực hoá được những nguyên tắc của Cách mạng Pháp. Dù vẫn còn nhiều việc phải làm sau năm 1806 – như bãi bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ, mở rộng quyền bầu cử cho công nhân, phụ nữ, người da đen và các chủng tộc thiểu số khác, vv… – thì những <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">nguyên tắc</i> nền tảng của nhà nước dân chủ tự do đã đạt tới đỉnh cao của mình. Hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỉ này cùng những biến động và cách mạng đi kèm chỉ có tác động mở rộng không gian áp dụng của những nguyên tắc đó, nhằm đưa những khu vực khác nhau của nền văn minh nhân loại tiến đến mức ngang bằng với những tiền đồn tiến bộ nhất và buộc những xã hội Châu Âu và Bắc Mỹ trong vai trò đội tiên phong của văn minh nhân loại phải thi hành chủ nghĩa tự do của mình một cách đầy đủ hơn.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Mẫu hình nhà nước xuất hiện vào giai đoạn cuối của lịch sử mang tính chất tự do trong chừng mực nó công nhận và bảo vệ quyền tự do của con người thông qua hệ thống luật pháp, và mang tính chất dân chủ trong chừng mực mà theo đó nó hiện hữu chỉ khi có sự chấp thuận của người dân. Theo Kojève, cái gọi là “nhà nước đồng nhất phổ quát” hiện thân thực tế trong những quốc gia Tây Âu hậu chiến tranh – chính xác là những nhà nước cồng kềnh, giàu có, tự mãn, hướng nội, nhu nhược đó mà dự án vĩ đại nhất của họ không có gì hơn là sự thành lập đầy quả cảm của Thị trường Chung.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn3" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[3]</a> Nhưng điều đó chỉ là ước vọng. Bởi lịch sử nhân loại và những xung đột đặc trưng cho nó dựa trên sự tồn tại của những “mâu thuẫn”: việc tìm kiếm sự công nhận lẫn nhau của con người nguyên thủy, mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, sự cải tạo và làm chủ thiên nhiên, sự đấu tranh cho việc công nhận phổ quát các quyền, và sự đối nghịch giữa tư bản với vô sản. Song trong những nhà nước đồng nhất phổ quát, mọi mâu thuẫn trước đó đều được giải quyết và mọi nhu cầu của con người đều được thoả mãn. Không còn đấu tranh hay xung đột về những vấn đề lớn và hệ quả là không cần các tướng lĩnh hay chính khách; những gì còn lại chủ yếu chỉ là hoạt động kinh tế. Và quả thực, cuộc đời của Kojève cũng phù hợp với những gì ông dạy. Tin rằng không còn việc gì để làm cho các triết gia nữa bởi vì Hegel (được hiểu một cách đúng đắn) đã tìm ra được những kiến thức tuyệt đối, Kojève nghỉ dạy sau khi chiến tranh kết thúc và làm công chức trong Cộng đồng Kinh tế Châu Âu suốt quãng đời còn lại cho đến lúc qua đời năm 1968.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Đối với những người cùng thời vào giữa thế kỉ, sự khẳng định của Kojève về sự cáo chung của lịch sử có vẻ giống như một thứ thuyết duy ngã lập dị điển hình của một nhà trí thức Pháp, như đã từng xuất hiện ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và ở thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Lạnh. Để hiểu làm sao Kojève có thể táo bạo đến mức khẳng định rằng lịch sử đã kết thúc, trước hết chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa của chủ nghĩa duy tâm Hegel.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">II.</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Đối với Hegel, những mâu thuẫn điều khiển lịch sử xuất hiện trước tiên trong địa hạt ý thức con người, nghĩa là ở cấp độ về tư tưởng <a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn4" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[4]</a> – không phải những đề xuất tầm thường trong năm bầu cử của các chính trị gia Mỹ, mà là những tư tưởng theo nghĩa thế giới quan hợp nhất rộng lớn có thể được gọi tốt nhất là “ý thức hệ”. Ý thức hệ theo nghĩa này không giới hạn ở những học thuyết chính trị rõ ràng và thế tục mà chúng ta vẫn thường hay liên tưởng tới, mà có thể bao hàm tôn giáo, văn hoá cũng như phức hợp những giá trị luân lí làm nền tảng cho bất kì xã hội nào.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Quan điểm của Hegel về mối tương quan giữa tư tưởng và thế giới thực tại hay thế giới vật chất vô cùng phức tạp, bắt đầu với thực tế rằng đối với ông sự phân đôi giữa hai thế giới chỉ là biểu hiện bề ngoài.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn5" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[5]</a> Ông không tin là thế giới thực tuân theo hoặc có thể bị làm cho tuân theo những định kiến ý thức hệ của các giáo sư triết học một cách dễ dãi, hoặc là thế giới “vật chất” không thể can thiệp vào tư tưởng. Thực tế, Hegel trong vai trò giáo sư đã nhất thời bị mất việc bởi một sự kiện hết sức vật chất, đó là trận Jena. Tuy nhiên, trong khi việc viết lách và suy nghĩ của Hegel có thể bị chấm dứt bởi một viên đạn từ thế giới vật chất, thì bàn tay đặt trên cò súng tới lượt nó lại được thúc đẩy bởi những tư tưởng về tự do và bình đẳng đã điều khiển cuộc Cách mạng Pháp.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Theo Hegel, mọi hành vi của con người trong thế giới vật chất, và từ đó là lịch sử nhân loại, có nguồn gốc từ trạng thái ý thức có trước – tương tự như ý tưởng mới được phát biểu bởi John Maynard Keynes sau này khi ông nói rằng quan điểm của các chính khách thường bắt nguồn từ những nhà kinh tế quá cố và những học giả tồi của các thế hệ trước. Ý thức này có thể không rõ ràng và không tự nhận thức được như các học thuyết chính trị hiện đại, song lại có thể mang hình hài của các tôn giáo hoặc các tập quán văn hoá hay đạo lý đơn giản. Tuy nhiên, địa hạt ý thức này <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">về lâu dài</i> nhất định sẽ được hiển thị trong thế giới vật chất, và thực tế là sẽ sáng tạo nên thế giới vật chất theo hình dung của riêng nó. Ý thức là nguyên nhân, không phải là hệ quả, và nó có thể phát triển độc lập so với thế giới vật chất, vì thế ý nghĩa thực sự nằm dưới mớ bòng bong những sự kiện thời sự chính là lịch sử của tư tưởng.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Chủ nghĩa duy tâm Hegel chịu số phận hẩm hiu dưới tay những nhà tư tưởng sau ông. Mác đã đảo lộn hoàn toàn thứ tự ưu tiên của vật chất và tinh thần, đưa toàn bộ địa hạt của ý thức – như tôn giáo, nghệ thuật, văn hoá, và bản thân triết học – thành một “thượng tầng kiến trúc” được định đoạt hoàn toàn bởi phương thức sản xuất vật chất phổ biến nhất. Thế nhưng một di sản không may khác của chủ nghĩa Mác là xu hướng chúng ta sa vào các kiến giải duy vật hay vị lợi chủ nghĩa về các hiện tượng chính trị hoặc lịch sử, cũng như thái độ bất đắc dĩ của chúng ta khi tin tưởng vào sức mạnh độc lập của tư tưởng. Một ví dụ gần đây là tác phẩm hết sức thành công của Paul Kenedy <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc (The Rise and Fall of the Great Powers)</i>, vốn đã qui sự suy tàn của các cường quốc là do sự bành trướng kinh tế quá mức. Hiển nhiên điều này đúng trên một vài cấp độ: một đế chế có nền kinh tế vừa trên mức sinh tồn không thể cứ để ngân khố của mình phá sản một cách vô hạn định được. Song liệu một xã hội công nghiệp hiện đại có năng suất cao lựa chọn dành ra 3 hay 7% GNP cho quốc phòng hay tiêu dùng lại hoàn toàn là một vấn đề thuộc về ưu tiên chính trị của xã hội đó, và điều này đến lượt nó lại được định đoạt trong địa hạt ý thức.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Khuynh hướng thiên về chủ nghĩa duy vật trong tư tưởng hiện đại không chỉ là đặc trưng của những người cánh tả vốn có thể đồng cảm với chủ nghĩa Mác, mà còn của nhiều người chống chủ nghĩa Mác quyết liệt. Quả thực, bên cánh hữu có cái mà ta có thể gọi là trường phái Tạp chí Phố Wall về duy vật định mệnh (deterministic materialism), là trường phái tối giản tầm quan trọng của tư tưởng và văn hoá, đồng thời coi con người về căn bản như là một cá nhân duy lý, luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. Chính kiểu cá nhân này cùng với sự theo đuổi các mưu cầu vật chất của anh ta được ấn định trong các sách giáo khoa kinh tế học như là nền tảng của đời sống kinh tế. Một ví dụ nhỏ sẽ minh hoạ cho đặc điểm bất ổn của quan điểm duy vật chủ nghĩa kiểu này.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn6" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[6]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Max Weber bắt đầu quyển sách nổi tiếng của ông, <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism)</i>, bằng cách liệt ra những thành tích kinh tế khác biệt của các cộng đồng Tin Lành và Công giáo ở khắp Châu Âu và Châu Mỹ, tất cả được gói gọn lại bằng câu cách ngôn rằng người Tin Lành ăn ngon còn người Công giáo ngủ ngon. Weber lưu ý rằng theo như bất kì lí thuyết kinh tế nào coi con người là những kẻ duy lí luôn tối đa hoá lợi nhuận, thì tăng mức tiền công sẽ làm tăng năng suất lao động. Nhưng sự thật là trong nhiều cộng đồng nông dân truyền thống, tăng tiền công lại có tác dụng ngược lại, thể hiện ở việc làm giảm năng suất lao động: khi có mức tiền công cao hơn, một người nông dân quen với việc kiếm một mác rưỡi mỗi ngày sẽ cảm thấy có thể kiếm được lượng tiền tương đương bằng cách làm ít hơn, và anh ta sẽ làm như vậy bởi anh ta đề cao sự nghỉ ngơi hơn so với thu nhập. Lựa chọn nghỉ ngơi thay vì thu nhập, hay giữa cuộc sống quân nhân của các chiến binh thành Sparta với sự giàu có của những thương nhân thành Athen, hay thậm chí giữa cuộc sống kham khổ của các doanh nhân tư bản chủ nghĩa buổi sơ kỳ với cuộc sống thường nhàn rỗi của các nhà quý tộc, tất cả đều không thể nào giải thích được bằng tác động phi ý thức của các lực lượng vật chất, mà thay vào đó điều này chủ yếu xuất phát từ lĩnh vực ý thức, cái mà ở đây chúng ta gọi chung là tư tưởng. Và quả thực, một mệnh đề trung tâm trong tác phẩm của Weber là chứng minh rằng, trái ngược với Mác, phương thức sản xuất vật chất không phải là “nền tảng” (hạ tầng kiến trúc) mà chính là “thượng tầng kiến trúc” với cội rễ nằm trong tôn giáo và văn hoá, và rằng để hiểu được sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng như các động cơ lợi nhuận, chúng ta phải nghiên cứu khởi nguồn của chúng trong địa hạt tinh thần.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Nếu chúng ta nhìn ra khắp thế giới đương đại, sự nghèo nàn của các lý thuyết duy vật về phát triển kinh tế là điều quá rõ ràng. Trường phái <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Tạp chí Phố Wall</i> về duy vật định mệnh thường lấy sự thành công kinh tế rực rỡ của Châu Á trong mấy thập kỷ vừa qua làm minh chứng cho sự ưu việt của kinh tế thị trường tự do, với hàm ý rằng mọi xã hội sẽ chứng kiến sự phát triển tương tự nếu họ chỉ cần cho phép dân chúng theo đuổi mối tư lợi về vật chất một cách tự do. Tất nhiên thị trường tự do cũng như hệ thống chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết cần có cho tăng trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nhưng cũng rõ ràng không kém là di sản văn hoá của các xã hội Viễn Đông ấy, các quan niệm đạo đức của họ về công việc, sự cần kiệm và về gia đình, một di sản tôn giáo không gây nên các rào cản đối với một số hình thức của hành vi kinh tế như trong đạo Hồi, cùng với những phẩm chất tinh thần đã bám rễ rất sâu, tất cả đều là những nhân tố không kém phần quan trọng trong việc giải thích thành tựu kinh tế của họ.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn7" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[7]</a> Thế nhưng ảnh hưởng tri thức của chủ nghĩa duy vật lớn đến nỗi không có một lý thuyết phát triển kinh tế đương đại đáng kể nào xem xét một cách nghiêm túc vấn đề ý thức và văn hóa trong vai trò một ma trận mà ở đó hành vi kinh tế được định hình.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Nếu không hiểu được rằng cội rễ của hành vi kinh tế nằm trong địa hạt ý thức và văn hoá sẽ dẫn đến sai lầm chung là gán các nguyên nhân vật chất cho các hiện tượng mà về cơ bản là mang bản chất tinh thần. Ví dụ, ở phương Tây nhiều người lý giải các phong trào cải cách đầu tiên ở Trung Quốc và gần đây nhất là ở Liên Xô như là thắng lợi của vật chất đối với tinh thần, nghĩa là sự thừa nhận rằng các động lực tư tưởng không thể thay thế được cho các động lực vật chất trong việc kích thích một nền kinh tế hiện đại năng suất cao, và rằng nếu muốn giàu có thì người ta phải viện tới những thể thức hèn kém của tính tư lợi. Thế nhưng, nếu quan sát, những khiếm khuyết sâu sắc của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã hiển hiện từ 30 hay 40 năm nay rồi. Vậy vì sao các nước này lại từ bỏ chế độ kế hoạch hoá vào thập kỷ 1980? Câu trả lời nhất định phải được tìm thấy trong nhận thức của tầng lớp tinh hoa và giới lãnh đạo những nước ấy, những người đã quyết định chọn cuộc sống giàu có và mạo hiểm của người Tin lành thay vì lựa chọn con đường nghèo khổ nhưng yên ổn của người Công giáo.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn8" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[8]</a>Sự thay đổi đó không phải trở nên hiển nhiên bởi các điều kiện vật chất ở cả hai nước vào đêm trước của cải cách, mà trái lại, xuất phát từ sự chiến thắng một tư tưởng này đối với một tư tưởng khác.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn9" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[9]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Đối với Kojève, cũng như những người theo phái Hegel chân chính, thấu hiểu các quá trình nền tảng của lịch sử đòi hỏi phải hiểu rõ những phát triển trong địa hạt ý thức hay tư tưởng, bởi vì ý thức xét cho cùng sẽ tái tạo lại thế giới vật chất theo chính hình ảnh của nó. Nói lịch sử đã cáo chung vào năm 1806 có nghĩa rằng sự tiến hoá về tư tưởng của loài người đã chấm dứt bằng những lý tưởng của cuộc Cách mạng Pháp hay Mỹ: dù một số chế độ cụ thể nào đó trong thế giới thực có thể còn chưa thực thi những lý tưởng này một cách đầy đủ, thì chân lý lý thuyết của chúng vẫn là tuyệt đối và không thể cải tạo cho tốt hơn được nữa. Do đó, đối với Kojève, việc ý thức của thế hệ người dân Châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai chưa được phổ quát hoá ra khắp thế giới không quan trọng; nếu như sự phát triển của tư tưởng trên thực tế đã chấm dứt thì nhà nước đồng nhất rốt cục sẽ giành chiến thắng trên toàn bộ thế giới vật chất.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Tôi không có đủ chỗ cũng như nói thẳng ra là không đủ khả năng để bảo vệ cho sự uyên thâm trong quan điểm duy tâm cấp tiến của Hegel. Vấn đề không phải là liệu hệ thống của Hegel có đúng hay không, mà là liệu nhãn quan của ông có phơi bày được hết bản chất có vấn đề của rất nhiều kiến giải duy vật mà chúng ta vẫn thường coi như hiển nhiên. Điều này không có nghĩa là phủ nhận vai trò của các nhân tố vật chất theo đúng bản chất của chúng. Đối với một người duy tâm chân thành, xã hội loài người có thể được dựng nên từ bất cứ một tập hợp các nguyên tắc nào mà không cần tính tới mối quan hệ của chúng với thế giới vật chất. Và trên thực tế con người đã chứng minh là bản thân họ có thể vượt qua được những thống khổ về mặt vật chất nhân danh các tư tưởng vốn chỉ tồn tại trong địa hạt tinh thần, dù đó là phẩm chất thần thánh của những con bò hay trong bản chất của Chúa Ba Ngôi.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn10" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[10]</a></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Nhưng trong khi nhận thức của con người về thế giới vật chất được định hình bởi ý thức lịch sử của anh ta về nó, thì thế giới vật chất rõ ràng vẫn có thể tác động trở lại đến sự tồn tại của một trạng thái ý thức nào đó. Đặc biệt, sự sung túc đáng kinh ngạc của các nền kinh tế tự do tiên tiến và theo đó là nền văn hoá tiêu dùng hết sức đa dạng dường như vừa thúc đẩy vừa duy trì chủ nghĩa tự do trong lĩnh vực chính trị. Tôi muốn tránh cách nhìn định mệnh luận duy vật vốn cho rằng kinh tế tự do tất yếu sản sinh ra chính trị tự do, bởi tôi tin rằng cả kinh tế lẫn chính trị đều cần phải có một trạng thái ý thức độc lập trước đó giúp cho chúng xuất hiện. Nhưng trạng thái ý thức cho phép sự phát triển của chủ nghĩa tự do dường như ổn định theo cách mà chúng ta kỳ vọng vào lúc lịch sử cáo chung nếu nó được hậu thuẫn bởi sự sung túc của một nền kinh tế thị trường tự do hiện đại. Chúng ta có thể tóm tắt nội dung của nhà nước đồng nhất phổ quát như là một nền dân chủ trong lĩnh vực chính trị kết hợp với sự phồn vinh trong lĩnh vực kinh tế.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
<b style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">III.</b></div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Sự thật là chúng ta đã đạt tới giai đoạn cáo chung của lịch sử hay chưa? Hay nói cách khác, liệu còn có những “mâu thuẫn” cơ bản nào trong đời sống nhân loại vẫn không thể giải quyết được trong bối cảnh chủ nghĩa tự do hiện đại, mà có thể giải quyết được bằng một cấu trúc kinh tế – chính trị khác hay không? Nếu chấp nhận những tiên đề duy tâm ở trên, chúng ta phải tìm kiếm lời giải đáp cho câu hỏi này trong địa hạt ý thức và tư tưởng. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là trả lời tường tận những thách thức đối với chủ nghĩa tự do gây ra bởi những kẻ gàn dở lập dị trên khắp thế giới mà chỉ tập trung vào những gì tiêu biểu hiện thân trong các phong trào và lực lượng chính trị xã hội trọng yếu, những nhân tố góp phần định hình lịch sử thế giới. Với mục đích đó, những tư tưởng lạ lẫm xuất hiện ở Albania hay Burkina Faso không quan trọng, bởi vì chúng ta chỉ lưu tâm đến những gì mà người ta theo một nghĩa nào đó có thể gọi là di sản tư tưởng chung của nhân loại.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Trong thế kỉ vừa qua, có hai thách thức chính đối với chủ nghĩa tự do đến từ chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa phát xít<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn11" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[11]</a> coi sự yếu đuối về chính trị, chủ nghĩa vật chất, sự bất ổn và thiếu tinh thần cộng đồng của phương Tây như là những mâu thuẫn cơ bản trong các xã hội tự do mà chỉ có thể được giải quyết bởi một nhà nước mạnh rèn dũa nên một “dân tộc” mới dựa trên nền tảng thịnh vượng của quốc gia. Chủ nghĩa phát xít với tư cách là một hệ tư tưởng sống đã bị kết liễu bởi Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Dĩ nhiên đây là một sự thất bại chủ yếu trên cấp độ vật chất, song nó cũng tương đương với một sự thất bại về mặt tư tưởng. Thứ hủy diệt chủ nghĩa phát xít trong vai trò một tư tưởng không phải là sự chối bỏ phổ quát về mặt đạo đức chống lại nó, bởi vì nhiều người sẵn sàng tán đồng tư tưởng này chừng nào nó còn được xem là làn sóng tương lai, mà chính là vì sự thiếu thành công của nó. Sai chiến tranh, hầu hết mọi người dường như thấy chủ nghĩa phát xít Đức cũng như những biến thể của nó ở Châu Âu và Châu Á chắc chắc sẽ tự hủy diệt. Không có lí do vật chất nào cho thấy vì sao các phong trào phát xít có thể đã không tái nổi dậy sau chiến tranh ở những nơi khác, mà bởi thực tế là chủ nghĩa dân tộc cực đoan bành trướng, vốn hứa hẹn những xung đột bất tận dẫn đến thất bại quân sự thảm hại, đã đánh mất tính hấp dẫn của nó. Đống đổ nát của của đế chế Đức quốc xã cũng như những quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã giết chết ý thức hệ này trên cấp độ ý thức cũng như vật chất, và mọi làn sóng ủng hộ chủ nghĩa phát xít noi gương các ví dụ ở Đức và Nhật Bản điển hình như phong trào theo tư tưởng của Peron ở Achentina hoặc lực lượng Quân đội Quốc gia Ấn Độ của Subhas Chandra Bose đã bị tàn lụi sau chiến tranh.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Những thách thức về tư tưởng được đưa ra bởi những ý thức hệ cạnh tranh với chủ nghĩa tự do, như chủ nghĩa cộng sản chẳng hạn, là lớn hơn nhiều. Mác, phát biểu theo ngôn ngữ của Hegel, khẳng định xã hội tự do chứa đựng mâu thuẫn cơ bản giữa tư bản và người lao động không thể giải quyết được trong nội bộ, và chính mâu thuẫn này từ đó đã cấu thành nên cáo buộc chính chống lại chủ nghĩa tự do. Nhưng chắc chắn là, vấn đề giai cấp thực tế đã được giải quyết thành công ở phương Tây. Như Kojève (cùng với những người khác) đã chỉ ra, chủ nghĩa quân bình của nước Mỹ hiện đại đại diện cho sự đạt được về cơ bản một xã hội không giai cấp như Mác từng hình dung. Điều này không có nghĩa là không có người giàu và người nghèo ở Mỹ, hay là khoảng cách giữa họ không gia tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên nguyên nhân cội rễ của bất bình đẳng kinh tế không liên quan tới cấu trúc xã hội và luật pháp làm nền tảng của xã hội chúng ta, vốn về cơ bản là quân bình và mang tính chất phân phối phúc lợi tương đối bình đẳng, mà chủ yếu liên quan tới đặc tính xã hội của các nhóm dân cư cấu tạo nên xã hội đó, vốn là di sản lịch sử của các điều kiện tiền hiện đại. Do đó người da đen bần cùng ở Mỹ không phải là sản phẩm vốn có của chủ nghĩa tự do, mà là “di sản của chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc” vốn tồn tại kéo dài sau khi chế độ nô lệ bị bãi bỏ.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Do sự thoái lui của vấn đề giai cấp, có thể nói một cách tự tin rằng sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản ở thế giới phương Tây phát triển ngày nay thấp hơn so với bất cứ thời điểm nào khác kể từ khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Điều này có thể đo lường được qua nhiều cách: trong việc giảm thành viên và sức hút trong bầu cử của các đảng cộng sản lớn ở Châu Âu cũng như các chương trình mang tính xét lại công khai của họ; trong sự thành công tương ứng trong bầu cử của các đảng bảo thủ từ nước Anh và Đức cho đến nước Mỹ và Nhật vốn có xu hướng ủng hộ thị trường (tự do) và chống lại vai trò quá lớn của nhà nước một cách rõ ràng; và trong môi trường tri thức mà ở đó hầu hết thành viên “tiên tiến” không còn tin rằng xã hội tư sản là thứ mà rốt cuộc cần phải đánh đổ. Điều này không có nghĩa là quan điểm của giới trí thức tiến bộ ở các quốc gia phương Tây không cực đoan theo nhiều cách khác nhau. Song những ai vẫn tin tưởng tương lai chắc chắn phải là xã hội chủ nghĩa thường là những người đã rất lớn tuổi, hoặc rất ít can dự vào những tranh luận chính trị thực tế của xã hội họ đang sống.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Ai đó có thể tranh luận rằng lựa chọn thay thế mà chủ nghĩa xã hội mang lại chưa bao giờ được hưởng ứng nghiêm túc ở thế giới Bắc Đại Tây Dương (tức Bắc Mỹ và Châu Âu), và nó được duy trì trong nhiều thập niên qua chủ yếu bởi sự thành công bên ngoài khu vực của nó. Tuy nhiên chính ở phần thế giới ngoài Châu Âu này lại là nơi chứng kiến sự xuất hiện của những chuyển biến ý thức hệ lớn lao. Chắc chắn rằng sự thay đổi đáng kể nhất đã diễn ra ở Châu Á. Do sức mạnh và khả năng thích ứng của văn hóa bản địa, Châu Á đã trở thành chiến trường cho một lượng lớn những ý thức hệ phương Tây khác nhau du nhập vào từ đầu thế kỉ này. Chủ nghĩa tự do ở Châu Á rất yếu thế vào thời điểm sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất; ngày nay thật dễ quên rằng tương lai chính trị Châu Á trông mịt mờ đến dường nào vào khoảng cách đây mới mười hoặc mười lăm năm. Cũng thật dễ bỏ qua việc kết quả của cuộc đấu tranh ý thức hệ ở Châu Á tác đã động đến sự phát triển chính trị thế giới nói chung mạnh mẽ đến dường nào.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Lựa chọn thay thế đầu tiên đối với chủ nghĩa tự do mà đã bị đánh bại hoàn toàn ở Châu Á chính là chủ nghĩa phát xít đại diện bởi đế quốc Nhật. Chủ nghĩa phát xít Nhật (cũng giống như ở Đức) đã bị đánh bại bởi quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, và nước Mỹ chiến thắng đã buộc Nhật phải lựa chọn nền dân chủ tự do. Chủ nghĩa tự do chính trị và chủ nghĩa tư bản phương Tây khi cấy ghép vào Nhật Bản đã được thích ứng và chuyển đổi bởi người Nhật theo cách làm chúng khó còn có thể nhận ra.<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftn12" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[12]</a> Ngày nay nhiều người Mỹ đã nhận thấy rằng tổ chức công nghiệp của Nhật rất khác với những gì thịnh hành ở Mỹ hay Châu Âu, và khó có thể tin rằng những thủ đoạn bè phái diễn ra với Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền lại có chút gì đó dính dáng tới dân chủ. Tuy nhiên, chính thực tế rằng những nhân tố kinh tế và chính trị thiết yếu của chủ nghĩa tự do đã được chắt ghép thành công vào các thể chế và truyền thống Nhật Bản độc đáo đã đảm bảo sức sống trong dài hạn của nó. Quan trọng hơn là sự đóng góp ngược lại của Nhật Bản đối với lịch sử thế giới bằng cách theo chân Mỹ để tạo nên nền văn hóa tiêu dùng phổ quát thực sự, điều vốn đã trở thành biểu tượng lẫn nền móng cho nhà nước đồng nhất phổ quát. V.S. Naipaul khi đi tham quan Iran của Giáo chủ Khomeini không lâu sau khi cách mạng Iran nổ ra đã ghi nhận sự hiện diện khắp mọi nơi các biển quảng cáo các sản phẩm của Sony, Hitachi và JVC, những sản phẩm vẫn giữ nguyên được sức hấp dẫn không cưỡng lại được của mình và cho thấy bản chất giả tạo trong việc chế độ (Cộng hòa Hồi giáo Iran) vờ như đang phục hồi một nhà nước dựa trên sự thống trị của luật Hồi giáo Shariah. Khát khao tiếp cận văn hóa tiêu dùng được tạo nên trên phạm vi rộng lớn của Nhật đã đóng vai trò sống còn trong thúc đẩy sự lan tỏa của chủ nghĩa tự do kinh tế khắp Châu Á, và do đó cũng giúp thúc đẩy chủ nghĩa tự do về chính trị.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Thành tựu kinh tế của các nước công nghiệp mới (NICs) khác ở châu Á noi theo tấm gương của Nhật giờ đã trở thành câu chuyện quen thuộc. Từ lập trường của Hegel, điều quan trọng là tự do chính trị đã diễn ra theo sau tự do kinh tế, tuy chậm hơn nhiều người vẫn mong đợi nhưng là điều gần như chắc chắn. Ở đây một lần nữa ta thấy sự thắng thế của ý tưởng về nhà nước đồng nhất phổ quát. Hàn Quốc đã phát triển thành một xã hội đô thị hóa, hiện đại với tầng lớp trung lưu có học thức cao ngày càng tăng và không thể bị biệt lập với những trào lưu dân chủ rộng lớn bao quanh. Trong những điều kiện này, một điều dường như vượt quá sức chịu đựng đối với một bộ phận lớn dân cư nước này là việc bị thống trị bởi một chế độ quân sự lỗi thời trong khi Nhật Bản, vốn chỉ phát triển trước Hàn Quốc khoảng một thập kỉ về kinh tế, lại đã có các thể chế (dân chủ) nghị viện suốt hơn bốn mươi năm nay. Thậm chí các chế độ xã hội chủ nghĩa trước đây như ở Miến Điện, vốn từng bị cô lập khỏi những xu hướng lớn áp đảo ở Châu Á trong hàng thập kỷ, cũng đã bị chèn ép bởi các áp lực trong năm qua phải tự do hóa cả hệ thống kinh tế lẫn chính trị của nó. Người ta nói rằng sự bất mãn với lãnh đạo độc tài Ne Win đã bắt đầu khi một sĩ quan cấp cao của Miến Điện sang Singapore chữa bệnh và đã bật khóc khi chứng kiến Miến Điện xã hội chủ nghĩa đã bị các láng giềng ASEAN bỏ lại đằng sau xa đến dường nào.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Tuy nhiên tác động của tư tưởng tự do đã không gây ấn tượng mạnh đến vậy nếu nó không xâm nhập nền văn hóa lâu đời lớn nhất Châu Á, đó là Trung Quốc. Đơn giản là sự hiện diện của Trung Quốc cộng sản chủ nghĩa đã tạo nên một cực thay thế về hấp dẫn ý thức hệ, qua đó cấu thành nên một mối đe dọa đối với chủ nghĩa tự do. Tuy nhiên mười lăm năm qua đã chứng kiến một hệ thống kinh tế Mácxít – Lêninnít bị sụt giảm uy tín gần như hoàn toàn. Từ kì họp thứ ba nổi tiếng của Ban chấp hành Trung ương khóa 10 năm 1978, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu chuyển hướng nông nghiệp sang kinh tế thị trường cho 800 triệu dân Trung Quốc vẫn còn sống ở nông thôn. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp đã được giảm xuống chỉ còn việc thu thuế, trong khi nền sản xuất hàng hóa tiêu dùng ngày càng tăng mạnh để giúp nông dân được hưởng chút hương vị của nhà nước đồng nhất phổ quát và bằng cách đó khuyến khích sản xuất. Công cuộc cải cách đã làm nhân đôi sản lượng ngũ cốc của Trung Quốc chỉ trong vòng 5 năm, tạo cho Đặng Tiểu Bình một nền tảng chính trị vững chắc mà từ đó ông đã có thể mở rộng cải cách sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Các số liệu kinh tế vẫn chưa mô tả hết được động lực, sáng kiến và sự cởi mở rõ ràng ở Trung Quốc kể từ khi cải cách bắt đầu.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; text-align: justify; vertical-align: baseline;">
Ngày nay không thể nào mô tả Trung Quốc như một nền dân chủ tự do bằng bất cứ cách nào. Hiện tại, mới dưới 20 phần trăm nền kinh tế đã được thị trường hóa, và quan trọng hơn cả là nó vẫn tiếp tục được điều hành bởi một Đảng Cộng sản tự chỉ định không có dấu hiệu cho thấy mong muốn chia sẻ quyền lực. Đặng Tiểu Bình đã không thực hiện lời hứa nào của Gorbachev về dân chủ hóa hệ thống chính trị và Trung Quốc cũng không có phiên bản nào giống với chương trình <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">công khai hóa</i> (<i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">glasnost) </i>của Liên Xô. Thực tế giới lãnh đạo Trung Quốc thận trọng hơn trong việc phê phán Mao và chủ nghĩa Mao so với Gorbachev khi phê phán Brezhnev và Stalin, và chế độ vẫn tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin như là nền tảng ý thức hệ trên danh nghĩa. Tuy nhiên những ai quen với quan điểm và ứng xử của giới tinh hoa đang lãnh đạo Trung Quốc đều biết rằng chủ nghĩa Mác và nguyên tắc ý thức hệ đã trở nên không còn thích hợp để điều hướng chính sách, và rằng chủ nghĩa tiêu dùng tư sản lần đầu tiên có ý nghĩa thật sự ở quốc gia này kể từ sau cách mạng. Sự tiến triển chậm của cải cách, những cuộc vận động chống “tha hóa tinh thần” và những vụ đàn áp bất đồng chính kiến nên được coi là những điều chỉnh sách lược trong quá trình kiểm soát một sự quá độ chính trị vô cùng khó khăn. Bằng cách né tránh câu hỏi về cải cách chính trị trong khi chuyển nền kinh tế sang nền tảng mới, Đặng Tiểu Bình đã phòng ngừa sự sụp đổ quyền lực vốn đã đi kèm với công cuộc cải tổ <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(perestroika)</i> của Gorbachev. Tuy nhiên sự hấp dẫn của tư tưởng tự do vẫn rất mạnh mẽ khi quyền lực kinh tế được pha loãng và nền kinh tế trở nên cởi mở hơn với thế giới bên ngoài. Hiện tại có trên 20.000 sinh viên Trung Quốc đang học tập tại Mỹ và các quốc gia phương Tây khác, hầu hết trong số họ là con cháu của giới tinh hoa Trung Quốc. Thật khó tưởng tượng rằng khi những người này trở về quê hương để điều hành đất nước, họ sẽ hài lòng với việc Trung Quốc là quốc gia duy nhất ở Châu Á không bị ảnh hưởng bởi trào lưu dân chủ hóa rộng lớn trên thế giới. Các cuộc biểu tình của sinh viên ở Bắc Kinh nổ ra lần đầu tiên vào tháng 12/1986 và tái diễn gần đây khi Hồ Diệu Bang qua đời mới chỉ là sự khởi đầu của áp lực chắc chắn ngày càng gia tăng đòi hỏi thay đổi hệ thống chính trị.</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref1" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[1]</a> Tác phẩm nổi tiếng nhất của Kojeve là <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Introduction à la lecture de Hegel</i> (Paris: Editions Gallimard, 1947), là bản ghi chép các bài giảng ở trường Ecole Practique từ những năm 1930. Quyển sách này có phiên bản tiếng Anh mang tựa đề <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Introduction to the Reading of Hegel</i> do Raymond Queneau thu xếp xuất bản, Allan Bloom biên tập và Nichols biên dịch (New York: Basic Books, 1969).</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref2" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[2]</a> Về khía cạnh này Kojeve đứng trên quan điểm hoàn toàn đối lập với những nhà diễn dịch Hegel hiện đại người Đức như Herbet Marcuse vốn cùng quan điểm với Mác, coi Hegel như một triết gia chưa hoàn hảo và bị giới hạn bởi lịch sử.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref3" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[3]</a> Kojeve cũng nhận diện sự cáo chung của lịch sử giống với “kiểu sống Mĩ” sau chiến tranh mà ông cho rằng Liên Xô cũng đang hướng tới.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref4" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[4]</a> Quan niệm này được đưa ra trong câu cách ngôn nổi tiếng ở phần lời bạt quyển sách <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Triết học của lịch sử</i> <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(Philosophy of History)</i> với nghĩa nôm na rằng “thứ gì duy lý thì là thật, thứ gì thật là duy lý”.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref5" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[5]</a> Quả thật, đối với Hegel thì sự phân đôi giữa thế giới tư tưởng và thế giới vật chất bản thân nó là một sự phân đôi tạm thời mà cuối cùng sẽ bị vượt qua bởi chủ thể tự ý thúc; trong hệ thống của ông, thế giới vật chất bản thân nó chỉ là một khía cạnh của tư duy.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref6" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[6]</a> Thực tế, các nhà kinh tế hiện đại thừa nhận rằng con người không luôn luôn cư xử như một chủ thể tối đa hóa lợi ích, họ đề ra khái niệm “tiện ích”, tiện ích ở đây có thể là thu nhập hoặc một vài dạng hàng hóa khác có thể tối đa hóa được, ví dụ như sự nghỉ ngơi, thỏa mãn tính dục hay thú vui triết học. Việc lợi nhuận phải được thay thế bằng một giá trị như “tiện ích” chỉ ra được sức thuyết phục của quan điểm duy tâm.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref7" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[7]</a> Chỉ cần nhìn vào kết quả học tập gần đây của những người nhập cư gốc Việt trong hệ thống giáo dục Hoa Kỳ so với những bạn học gốc Tây Ban Nha hoặc da đen là có thể thấy được nền tảng văn hóa và nhận thức có vai trò quan trọng đến dường nào trong việc giải thích không chỉ hành vi kinh tế mà còn cả những khía cạnh khác của đời sống con người.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref8" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[8]</a> Tôi hiểu rằng một sự lí giải đầy đủ về nguồn gốc của những trào lưu cải cách ở Trung Quốc và Nga phức tạp hơn nhiều so với những gì một công thức duy nhất này có thể làm được. Lấy thí dụ, cuộc cải tổ của Liên Xô được thúc đẩy theo một phần lớn bởi cảm giác mất an ninh của Matxcơva trong lĩnh vực kĩ thuật – quân sự. Tuy nhiên, cả hai quốc gia trong đêm trước cải cách đều không vướng phải khủng hoảng vật chất tới mức có thể tiên liệu trước con đường cải cách đáng ngạc nhiên mà hai nước đã thực hiện.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref9" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[9]</a> Vẫn chưa rõ là liệu người dân Liên Xô có mang tính chất “người Tin Lành” như Gorbachev và sẽ đi theo con đường của ông hay không.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref10" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[10]</a> Chính trị nội bộ của đế quốc Byzantine vời thời kỳ Justinian tập trung vào mối xung đột giữa những người tin rằng sự hợp nhất của Chúa Ba Ngôi là tự nhiên và những người tin rằng sự hợp nhất đó thuộc về ý chí. Xung đột này ở một mức độ nào đó đã dẫn tới một cuộc xô xát giữa các cổ động viên của các đội đua khác nhau ở sân vận động Hippodrome ở Byzantium và dẫn tới một mức độ bạo lực chính trị đáng kể. Các nhà sử học hiện đại có khuynh hướng tìm kiếm gốc rễ của những xung đột đó trong sự đối lập giữa các giai cấp xã hội hay các phạm trù kinh tế hiện đại khác mà không tin là con người có thể tàn sát lẫn nhau chỉ vì tranh cãi về bản chất của Thánh Ba Ngôi.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref11" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[11]</a> Tôi không dùng thuật ngữ “chủ nghĩa phát xít” ở đây theo nghĩa chính xác nhất của nó, vì tôi hoàn toàn nhận thức được sự lạm dụng thường xuyên thuật ngữ này để phản bác bất kỳ ai theo chủ ý của người nói. “Chủ nghĩa phát xít” ở đây chỉ bất cứ phong trào dân tộc chủ nghĩa cực đoạn nào với những ý định phổ quát – dĩ nhiên không phải phổ quát liên quan đến chủ nghĩa dân tộc bởi vì chủ nghĩa dân tộc mang nghĩa giới hạn về bản chất, mà liên quan đến niềm tin của phong trào đó về quyền được thống trị các dân tộc khác. Do đó đế quốc Nhật Bản được coi là phát xít trong khi Parauguay của Stoessner hay Chile của Pinochet thì không. Hiển nhiên là tư tưởng phát xít không thể mang tính phổ quát như chủ nghĩa Mác-Lenin hay chủ nghĩa tự do, nhưng cấu trúc của học thuyết đó vẫn có thể được chuyển từ quốc này sang quốc gia khác.</div>
</div>
<div style="background-color: white; border: 0px; color: #333333; font-family: Georgia, 'Bitstream Charter', serif; font-size: 16px; line-height: 24px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<div style="background-color: transparent; border: 0px; margin-bottom: 24px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
<a href="http://nghiencuuquocte.net/Google%20Drive/Nghiencuuquocte/Bai%20dang%20hieu%20dinh/Nghiencuuquocte.net-38-Su%20cao%20chung%20cua%20lich%20su.docx#_ftnref12" style="background-color: transparent; background-position: initial initial; background-repeat: initial initial; border: 0px; color: #743399; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;" title="">[12]</a> Tôi thận trọng khi lấy ví dụ của Nhật Bản, bởi lẽ Kojève vào lúc cuối đời đã đúc kết rằng Nhật Bản với nền tảng văn hóa chủ yếu dựa trên nghệ thuật chính thống cho thấy nhà nước đồng nhất phổ quát chưa thể giành chiến thắng và lịch sử có lẽ chưa chấm dứt ở đó. Xem chú thích dài ở cuối ấn bản lần hai của <i style="background-color: transparent; border: 0px; margin: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Introduction à là Lecture de Hegel</i>, 462-3.</div>
</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-54765544001562897112013-08-06T09:05:00.003-07:002013-08-06T09:05:42.834-07:00Vị trí của Biển Đông trong chính trị khu vực<b><i><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Vị trí của Biển Đông trong chính trị khu vực</span></i></b><br />
<b><i><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;" /></i></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Biển Đông không chỉ phản ánh cách thức “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc mà nó còn bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng, cân bằng quyền lực của các cường quốc thế giới và khu vực như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Indonesia….</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Bài viết của ông Hemant Krishan Singh - Giám đốc chương trình nghi</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">ên cứu quan hệ Mỹ-Ấn tại Hội đồng nghiên cứu Quan hệ Kinh tế Quốc tế của Ấn Độ (Indian Council for Research on International Economic Relations).<br />Mặc dù gần đây sự chú ý của thế giới đều tập trung vào sự ồn ào xung quanh vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên và nỗ lực của Trung Quốc buộc Nhật Bản phải thừa nhận có tồn tại tranh chấp tại quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư), nhưng xét nhiều phương diện thì Biển Đông vẫn là tâm điểm địa chính trị khu vực tại Ấn Độ - Thái Bình Dương. Nó không chỉ phản ánh sự trỗi dậy của Trung Quốc mà còn phản ánh một cách thức hành xử mới của Trung Quốc ngày càng rõ nét kể từ năm 2009. Vấn đề Biển Đông bị ảnh hưởng bởi cân bằng quyền lực khu vực, nhưng đồng thời nó cũng thể hiện mong muốn về một cấu trúc dựa trên luật lệ có thể tạo ra một môi trường để duy trì sự cân bằng đó. Điều đó buộc Mỹ phải “tái cân bằng” ở châu Á để tập trung chú ý hơn đối với Đông Nam Á. Và vấn đề Biển Đông còn lôi kéo sự chú ý của một loạt các cường quốc khu vực khác đẩy mạnh việc xây dựng quan hệ đối tác an ninh, từ Nhật Bản đến Indonesia, Việt Nam và Ấn Độ.<br /><br />Không thể phủ nhận rằng Biển Đông là con đường biển hết sức quan trọng, nằm án ngữ ngay tại các nút thắt tại phía đông Ấn Độ Dương và quần đảo Indonesia. Hơn một nửa các tuyến đường biển của Trung Quốc (21/39) đi qua Biển Đông, tương đương khoảng 60% thương mại của nước này. Với cách tính tương tự như vậy, Biển Đông chiếm khoảng một phần ba thương mại của thế giới với phần lớn các nền kinh tế năng động nhất đang nổi lên, cũng như nguồn cung năng lượng và hàng hóa phụ thuộc vào con đường biển này. Tất cả điều này có lẽ không quan trọng bằng việc các hòn đảo nhỏ nằm rải rác ở Biển Đông đang là đối tượngtranh chấp lãnh thổ trên biển liên quan đến Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Bên cạnh đó, căng thẳng này còn bị ảnh hưởng bởi nhận thức về các nguồn tài nguyên phong phú tại Biển Đông, từ hydrocarbon cho đến thủy hải sản.<br /><br />Sự nổi lên của châu Á với vai trò là đầu tàu kinh tế thế giới điều hoàn toàn có thể nhưng không phải là không thể đảo ngược. Biển Đông đặt ra thách thức to lớn đối với châu Á: tạo ra những thể chế khu vực giải quyết tình trạng mất an ninh, giảm thiểu khả năng xung đột, khuyến khích hành động tập thể trong các vấn đề an ninh phi truyền thống và tạo nền tảng cho giải pháp hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế. Hiện không tồn tại một cấu trúc nào có tính tổng thể như vậy. Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) có tiềm năng nhưng vẫn còn yếu kém và vai trò tương lai của nó đối với an ninh khu vực vẫn chưa được quyết định. EAS không những bị giới hạn bởi việc thảo luận chỉ tập trung vào các vấn đề an ninh mềm mà nó còn thiếu các khuôn khổ được thể chế hóa để theo dõi các vấn đề. Do thành phần tham gia khá cân bằng và rộng khắp trong khu vực, Trung Quốc không thể phát huy sự chi phối của mình đối với EAS, một cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Chính vì vậy, Trung Quốc rất miễn cưỡng trong việc trao cho diễn đàn này một vai trò lớn hơn.<br /><br />***<br /><br />Như vậy, chính xác vì sao Biển Đông lại đóng vai trò quan trọng như vậy trong chính trị khu vực? Để có một kết luận hợp lý cần phải hiểu được câu thành ngữ của người Hán được Đặng Tiểu Bình phổ biến: “Thực sự cầu thị” (dựa vào thực tế để hiểu rõ căn nguyên và diễn biến của sự việc – ND). Có lẽ không một lý do nào thuyết phục hơn là sự suy giảm đáng kể vai trò của câu khẩu hiệu khác của Đặng: “Ẩn mình chờ thời”. Kể từ năm 2009, thế giới đã chứng kiến một khía cạnh mới của cái từng được gọi là “sự trỗi dậy hòa bình” hay “phát triển hoà bình” của Trung Quốc. Sự khẳng định ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc về “lợi ích cốt lõi” - những lợi ích hiện đang được tô đậm thêm bởi “giấc mơ Trung Hoa” dựa trên sức mạnh quân sự ngày càng tăng của một nhà nước độc tài - đang trở thành gốc rễ của sự bất ổn tại châu Á.<br /><br />Trở lại những ngày tháng “trỗi dậy hòa bình” năm 2002, Trung Quốc sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán với các nước ASEAN để ký kết “Tuyên bố Ứng xử giữa Các bên tại Biển Đông” (DOC), bao gồm cả việc tôn trọng tự do hàng hải phù hợp với các nguyên tắc luật quốc tế đã được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu, cam kết giải quyết bằng biện pháp hòa bình các tranh chấp lãnh thổ và tài phán, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. DOC mở ra hy vọng rằng nó sẽ dẫn đến việc thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông (COC) nhằm thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định khu vực. Tuy nhiên hy vọng này cho đến giờ vẫn chưa được thực hiện, trong khi tranh chấp lãnh thổ thì ngày một leo thang. Một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ đã tỏ ra không khoan nhượng và rất khó để đưa họ đến bàn đàm phán.<br /><br />Ông Obama lên nắm quyền tổng thống và cam kết rút quân Mỹ ra khỏi các vũng lầy quân sự ngoài nước không lâu sau khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra bắt nguồn từ Phố Wall năm 2008. Sáng kiến của ông Obama về việc hình thành một mối quan hệ “G-2” giữa Mỹ và Trung Quốc tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn nhưng đã bị Trung Quốc khai thác như một tín hiệu cho thấy sự đi xuống không thể tránh khỏi của Mỹ tại châu Á và loan báo về sự trỗi dậy của mình. Mỹ đã phản ứng trước sự thay đổi quyền lực này thống qua chiến lược “xoay trục” hay tái cân bằng đối với châu Á – Thái Bình Dương, khẳng định quyết tâm duy trì vị thế vượt trội của mình tại khu vực.<br /><br />Ngoài ra còn phải kể đến một cơ hội khác ở khu vực mà Trung Quốc đang chờ đợi để khai thác, đó là sự đi xuống của một Nhật Bản đang già đi và yếu kém về kinh tế. Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) lên nắm quyền vào năm 2009 phát đi tín hiệu về mong muốn xoay trục đến châu Á với Trung Quốc là trung tâm và thậm chí còn khẳng định rằng an ninh Nhật Bản có thể được thúc đẩy cân bằng bởi mối quan hệ đồng minh lâu năm với Mỹ và bởi anh hàng xóm Trung Quốc đang trỗi dậy. Và kết quả không chỉ là sự chấm dứt thực sự đối với đàm phán Trung – Nhật về việc chia sẻ nguồn tài nguyên khí đốt tại Biển Hoa Đông, mà còn sự sỉ nhục đối với Nhật Bản trong một bế tắc về quần đảo Senkaku năm 2010. Những biện pháp trừng phạt kinh tế mang tính chèn ép với Nhật Bản và những vụ việc quấy rối hoạt các động kinh tế của Nhật Bản tại Trung Quốc nổ ra ngay sau đó, và hiện các hành động này vẫn diễn ra dưới các hình thức khác nhau.<br /><br />Điều này đưa chúng ta trở lại với điểm lõi về mô thức hành xử mới của Trung Quốc: đó là sự quả quyết bằng ngoại giao và quân sự về “lợi ích cốt lõi” ngày càng mở rộng của Trung Quốc. Trước năm 2009, Trung Quốc chỉ tuyên bố Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương là lợi ích cốt lõi. Trong cùng năm đó, lợi ích cốt lõi đã được mở rộng bao gồm các mục tiêu khác ở trong nước, đặc biệt là việc duy trì quyền lực của một hệ thống do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo.<br /><br />Tuy nhiên kể từ đó, “lợi ích cốt lõi” ngày cảng trở nên bành trướng. Vào năm 2010, phạm vi (lợi ích cốt lõi) được mở rộng thành chủ quyền của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Năm 2012, quần đảo Senkaku mà Nhật Bản quản lý cũng được thêm vào danh sách lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Vấn đề sẽ không quá lớn nếu như những khẳng định trên của Trung Quốc chỉ giới hạn trong những lời nói hay tuyên bố mang tính ngoại giao. Tuy nhiên điều này đã sớm trở nên rõ ràng khi quân sự cũng dính líu vào vấn đề. Vào tháng 11 năm 2012, Chủ tịch sắp mãn nhiệm Hồ Cẩm Đào cam kết “kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích biển của Trung Quốc, xây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc biển”. Người kế nhiệm, ông Tập Cận Bình đã phát biểu về “giấc mơ một cường quốc và một quân đội hùng mạnh” vào năm 2049. Ông Tập cũng đưa ra tín hiệu về một chính sách dựa trên “lợi ích cốt lõi” nơi không thể có sự thỏa hiệp: “Chúng ta sẽ trung thành với con đường phát triển hòa bình nhưng sẽ hoàn toàn không từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của chúng ta, hoàn toàn không thể hy sinh các lợi ích quốc gia cốt lõi”.<br /><br />Không ngạc nhiên khi đánh giá gần đây nhất của Lầu Năm góc cho rằng Trung Quốc đang theo đuổi chương trình hiện đại hóa quân sự toàn diện nhằm “đánh và giành chiến thắng trong những cuộc xung đột quân sự khu vực cường độ cao, thời gian ngắn”.<br /><br />Các chuyên gia cho rằng Bắc Kinh luôn làm những gì mà họ nói sẽ làm, biết tận dụng các cơ hội, chẳng hạn như các dấu hiệu về sự yếu kém của các đối thủ tiềm tàng.<br /><br />Trong bối cảnh như vậy, giấc mộng của Trung Quốc và lợi ích cốt lõi mới của nước này là trở thành một cường quốc biển phù hợp với địa vị cường quốc của mình. Tại Biển Hoa Đông, Trung Quốc muốn mở rộng ảnh hưởng trên biển của mình ở cả chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ hai, nhưng lại bị phong tỏa bởi sự hiện diện mạnh mẽ của hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ biển của Nhật Bản (MSDF). Tuy nhiên trên Biển Đông, Trung Quốc lại có cơ hội tuyệt vời để tăng cường sự hiện diện của mình, tại khu vực này các quốc gia tương đối yếu kém, bị chia rẽ bởi các yêu sách cạnh tranh lẫn nhau. Bên ngoài các eo biển của quần đảo Indonesia, Biển Đông vừa là con đường biển chiến lược vừa là điểm yếu của Trung Quốc. Đây là khu vực mà sự khẳng định về sức mạnh trên biển của Trung Quốc sẽ tập trung trong những năm tới.<br /><br />Triển vọng an ninh khu vực châu Á đang ngày càng bị đe dọa kể từ khi Trung Quốc ban hành cái gọi là “Đường 9 đoạn” bao phủ đến 90% Biển Đông. Yêu sách này hoàn toàn dựa trên cách diễn giải về lịch sử của Trung Quốc và nó không hề phù hợp với bất kỳ quy định nào của UNCLOS về thềm lục địa hay các yêu sách quyền tài phán biển nào khác.<br /><br />Hình thức khẳng định “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở Biển Đông. Điều này cũng tương đồng đáng kể với những gì đang xảy ra tại Biển Hoa Đông. Vào tháng 4 năm 2013, Trung Quốc đã liên tiếp cử các hạm đội tàu tuần tra biển vào các vùng lãnh hải quần đảo Senkaku. Thuyền trưởng James Fanell, một quan chức hải quân Mỹ, gần đây đã kết luận rằng Hải giám Trung Quốc “là một tổ chức chuyên đi quấy phá chủ quyền lãnh thổ trên biển.” Trong khi đó, vào tháng 3 năm 2013, một lực lượng đặc nhiệm của hải quân Trung Quốc đã đổ bộ lên bãi ngầm James Shoal thuộc yêu sách của Malaysia, gần bờ biển Malaysia, phía cực nam Biển Đông. “Khách du lịch” Trung Quốc tổ chức du lịch đến quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam có yêu sách nhằm thể hiện “việc bảo vệ quyền chủ quyền.”<br /><br />Bằng việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mạnh bạo và các hành động chèn ép trong 4 năm qua, Trung Quốc đã gần như biến Biển Đông thành một mối quan ngại đa phương. Thứ nhất, Biển Đông là nơi quy tụ các yêu sách đối lập của nhiều quốc gia, điều đó hạn chế triển vọng cho các cuộc thảo luận song phương thuần túy. Thứ hai, sự bất đối xứng về sức mạnh khiến các quốc gia ASEAN phải theo đuổi cách tiếp cận đa phương, bao gồm cả COC. Thứ ba, Trung Quốc hầu như không làm gì để đảm bảo với cộng đồng quốc tế rằng mặc dù yêu sách quyền lịch sử của Trung Quốc vẫn là chủ đề cần đàm phán, yêu sách hoàn toàn khác với khái niệm vùng nước lịch sửhay nội thủy, và Trung Quốc sẽ không cản trở tự do hàng hải vì mục đích thương mại và hòa bình. Trung Quốc cũng không đưa ra được thêm bất cứ cam kết nào đối với việc khai thác tài nguyên thông qua các đề xuất tạm thời về khai thác chung như loại hình mà Nhật Bản và Trung Quốc đã nỗ lực bất thành tại Biển Hoa Đông năm 2008.<br /><br />ASEAN chịu tác dụng phụ nặng nề nhất trong nỗ lực lôi kéo Trung Quốc vào các khuôn khổ đa phương nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông. Tính liên kết của ASEAN bị sụp đổ dưới sức ép của Trung Quốc vào tháng 7 năm 2012, khi Trung Quốc chặn lối vào của Philippines đối với bãi cạn Hoàng Nham (Scarborough Shoal). Vào tháng 11 năm 2012, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN, Chủ tịch Campuchia đã đưa ra tuyên bố khẳng định đã có sự đồng thuận giữa các nhà lãnh đạo ASEAN là không “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, chỉ có Philippines công khai phủ nhận điều này. Vào tháng 4 năm 2013, các bộ trưởng ASEAN đã lập lại mong muốn của mình nhằm đưa Trung Quốc vào các cuộc đàm phán giải quyết căng thẳng trên biển, và nhằm đạt được một nguyên tắc chung tại các khu vực tranh chấp tại Biển Đông trước khi tiến hành các cuộc thảo luận đã lên kế hoạch về COC. Tuy nhiên, các viễn cảnh đó dường như xa vời. Trung Quốc khẳng định nước này sẽ chỉ tiến hành đàm phán COC khi “thời điểm đã chín muồi.”<br /><br />Nếu như sự gắn kết của ASEAN vẫn bị đe dọa, thì không thể tránh được việc các quốc gia đang phải gánh chịu sức ép của Trung Quốc như Việt Nam và Philippines sẽ tích cực tìm kiếm sự đảm bảo lớn hơn của Mỹ. Điều này cho thấy rằng chính cách tiếp cận của Trung Quốc đối với một ASEAN đang suy yếu cuối cùng sẽ dẫn đến sự hiện diện lớn hơn của “các cường quốc bên ngoài khu vực”, điều mà Trung Quốc kiên quyết phản đối. Lúc đó sẽ chẳng có ai để đổ lỗi ngoài bản thân Trung Quốc. Hiện tại, đã có những nỗ lực nhằm vực dậy sự đoàn kết của ASEAN.<br /><br />Lời phàn nàn của Trung Quốc rằng chính sách xoay trục của Mỹ chỉ làm gia tăng căng thẳng khu vực không phù hợp với những hệ quả “tự làm tự chịu” do hành vi bắt nạt của chính Trung Quốc gây ra. Vào tháng 4 năm 2013, Sách trắng quốc phòng của Trung Quốc đã lên án “sự gia tăng chủ nghĩa bá quyền, chính trị cường quyền và chủ nghĩa thực dân kiểu mới”, nhưng những ngôn từ này cũng có thể sử dụng để miêu tả cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Đông Nam Á trong 2 năm qua. Cách duy nhất để Trung Quốc loại bỏ vòng luẩn quẩn bất lợi này là tham gia một cách có thực chất với ASEAN về một COC được cả hai bên chấp nhận nhằm ràng buộc tất cả các bên bằng các quy tắc đã được thiết lập, trong khi chờ giải pháp giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ.<br /><br />Bế tắc giữa Trung Quốc và ASEAN trong tranh chấp Biển Đông dẫn đến thay đổi trong chính sách ngoại giao của Mỹ. Tuy vẫn duy trì quan điểm nhất quán từ năm 2010 về tự do hàng hải, thương mại không bị cản trở và tôn trọng luật pháp quốc tế, Mỹ giờ đây cũng nhấn mạnh đến vai trò “không thể thiếu” của ASEAN trong việc duy trì ổn định khu vực. Mỹ thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với đoàn kết ASEAN và những nỗ lực của khối này nhằm tạo ra một khuôn khổ dựa trên luật lệ đối với Biển Đông. Mỹ cũng đặt ưu tiên về các mối quan hệ kinh tế với ASEAN, thậm chí là thúc đẩy Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với một số quốc gia ASEAN.<br /><br />Sự chuyển hướng trong cách tiếp cận của Mỹ bác bỏ luận điệu chỉ trích rằng chính sách “xoay trục” của Mỹ đang làm gia tăng căng thẳng khu vực. Như Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã nêu ra trong bài phát biểu của mình tại CSIS vào tháng 4 năm 2013, “tái cân bằng của Mỹ đối với châu Á tập trung chủ yếu xuất phát từ nhận thức về kinh tế và chính trị chứ không phải về quân sự. “Nhận thức” đã được củng cố bởi “4 trụ cột của tái cân bằng”, bao gồm: quan hệ đối tác, sự hiện diện, triển khai sức mạnh và nguyên tắc tự do hàng hải. Tuy nhiên, với nền tảng sự hiện diện lâu dài tại châu Á – Thái Bình Dương, việc tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ sẽ được tiến hành dần dần. Hải quân Mỹ sẽ triển khai từ 52 tàu chiến hiện nay lên 62 tàu vào năm 2020.<br /><br />Tất nhiên, sự “xoay trục” của Mỹ đang phải đối mặt với tương lai chưa chắc chắn bởi những tín hiệu thiếu quyết tâm và mong muốn lôi kéo Trung Quốc đóng vai trò tích cực hơn, nhưng chỉ có thể diễn ra theo điều kiện của Trung Quốc. Với áp lực ngân sách và hội chứng rút lui đang phổ biến ở Washington, chính sách “xoay trục” có thể yếu dần hoặc thậm chí là biến mất. Lợi ích về sự ổn định của khu vực chỉ có thể được được thực hiện khi Mỹ kiên định với sự lựa chọn chiến lược có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay: duy trì những cam kết an ninh tại châu Á – Thái Bình Dương.<br /><br />***<br /><br />Ấn Độ có truyền thống thận trọng trong việc can dự vào địa chính trị khu vực, tuy nhiên sự cẩn trọng đó hiện đang dần biến mất. Vấn đề Biển Đông chính là tác nhân trực tiếp gây ra sự thay đổi này.<br /><br />Giao thương của Ấn Độ đã tăng lên tới 41% GDP (năm 2011). Năm 2012, gần 1/3 thương mại Ấn Độ với các nền kinh tế Đông Á và hơn một nửa thương mại Ấn Độ (55%) với châu Á – Thái Bình Dương được thực hiện thông qua Biển Đông. Năm 2011, Trung Quốc đã cảnh báo công ty dầu khí ONGC của Ấn Độ rằng hoạt động khai thác dầu khí của ONGC ở Việt Nam là bất hợp pháp và vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Đó cũng là thời điểm khi mà Ấn Độ và Việt Nam ký kết hợp đồng 3 năm đầu tư và hợp tác khai thác, sản xuất năng lượng và tinh chế lọc dầu. ONGC đã thực hiện công việc khai thác trong khu vực này trong 30 năm qua, và Ấn Độ đã giữ vững lập trường của mình.<br /><br />Khi đối đầu giữa Trung Quốc – Philippines đối với bãi cạn Hoàng Nham (Scarborough) nổ ra vào năm 2012, người phát ngôn Văn phòng Bộ Ngoại giao Ấn Độ đã có bước đi khá bất ngờ khi tuyên bố rằng “duy trì hòa bình và an ninh khu vực là lợi ích cốt yếu đối với cộng đồng quốc tế. Ấn Độ kêu gọi cả hai bên kiềm chế và giải quyết vấn đề thông qua ngoại giao theo các nguyên tắc của luật quốc tế.” Tại các Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN/EAS, Ấn Độ cũng yêu cầu tự do hàng hải và đi lại trên Biển Đông, phù hợp với luật quốc tế. Ấn Độ cũng cùng với các nước kêu gọi tôn trọng luật biển, UNCLOS. Trả lời câu hỏi về vấn đề Biển Đông, Tư lệnh hải quân, Đô đốc D.K. Joshi đã tuyên bố rõ vào ngày 3 tháng 12 năm 2012 rằng mối quan ngại hàng đầu của Ấn Độ là “tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế.” Tuy nhiên ông cũng nói thêm rằng: “không phải chúng tôi mong muốn được hiện diện tại các vùng biển này thường xuyên, nhưng yêu cầu khi có tình huống xảy ra mà lợi ích quốc gia bị ảnh hưởng, chẳng hạn như trường hợp của công ty dầu khí ONGC Videsh, thì chúng tôi buộc phải đến đó và chúng tôi đã được chuẩn bị cho tình huống như vậy.” Nhận xét thực tế của ông đã gây nên không ít sóng gió chính trị nhưng nó lại phản ánh thực tế của vấn đề.<br /><br />Từ năm 2006, chưa kể đến việc Đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ tuyên bố “toàn bộ bang Arunachal Pradesh (của Ấn Độ) là lãnh thổ của Trung Quốc”, thì Ấn Độ đã phải đối mặt với những khiêu khích leo thang của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết giữa hai quốc gia. Danh sách thì dài nhưng các hành vi vi phạm vẫn không hề giảm đi. Tấm bản đồ in trên hộ chiếu của Trung Quốc phát hành năm 2012 còn đưa các phần lãnh thổ của Ấn Độ và hầu hết Biển Đông thành phần lãnh thổ của Trung Quốc.<br /><br />Vụ xâm nhập sâu vào khu vực Depsang của Ladkh, vùng lãnh thổ Ấn Độ tới 19km của quân đội Trung Quốc vào tháng 4 năm 2013 đã lay chuyển sự yên tâm của Ấn Độ về ý định của Trung Quốc. Mặc dù vụ bế tắc trong vòng 20 ngày cuối cùng đã được giải quyết sau bằng việc Trung Quốc rút quân, nhưng các chuyên gia vẫn còn lúng túng về vấn đề này. Minxin Pei khi trích dẫn những hiểu biết sâu sắc của Henry Kissinger về Trung Quốc cho rằng hành vi có vẻ như phi lý này có thể là một phần của “chiến lược răn đe tấn công”. Mặc dù đã có nhiều thỏa thuận về duy trì hòa bình và ổn định dọc đường biên giới tranh chấp được ký vào năm 1993 và 1996, cũng như nghị định thư 2005 về xây dựng lòng tin giữa quân đội hai quốc gia (CBMs), nhưng hành vi của Trung Quốc vẫn không hề kiềm chế. Giờ rõ ràng cần phải có những hiệp định hiệu quả hơn về xây dựng lòng tin giữa quân đội hai nước, và hành động của Trung Quốc cũng gợi ý một cách gián tiếp rằng nước muốn đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp biên giới. Song Trung Quốc không thể làm điều đó bằng cách xâm phạm lén lút vào lãnh thổ của Ấn Độ.<br /><br />Ấn Độ xưa nay vẫn chưa có can dự sâu rộng với Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực để giải quyết vấn đề biên giới. Cách tiếp cận ôn hòa và tin tưởng vào Trung Quốc này sẽ không còn khả thi, nếu nhìn vào mức độ phản đối của công chúng và giới truyền thông Ấn Độ đối với hành vi xâm phạm của Trung Quốc. Trong chuyến thăm của Thủ tướng mới đương chức Lý Quốc Cường tới New Delhi vào ngày 20/5/2013, thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã tuyên bố rõ ràng rằng “Cơ sở cho sự phát triển và mở rộng mối quan hệ giữa hai nước là hòa bình và ổn định đường biên giới.” Trong tương lai, có lẽ Ấn Độ sẽ coi đây là “vấn đề cốt lõi” của mình. New Delhi sẽ không chấp nhận các hành động khiêu khích hay nỗ lực nhằm làm thay đổi hiện trạng của Trung Quốc mà không gây tác động gì đến mối quan hệ chung của hai bên. Ấn Độ cũng sẽ thay đổi cách tiếp cận đối với các cuộc đàm phán biên giới và tìm kiếm sự minh bạch nhiều hơn nữa về các kế hoạch của Trung Quốc trong việc xây dựng hàng loạt các đập nước trên sông Brahmaputra.<br /><br />Như vậy, không có gì ngạc nhiên khi Ấn Độ tăng cường các mối quan hệ đối tác chiến lược với ASEAN trong những tháng gần đây. Lần đầu tiên, Ấn Độ và ASEAN đã cam kết “hợp tác hơn nữa vì sự phát triển của một cấu trúc khu vực mở, cân bằng, toàn diện và minh bạch.” Ấn Độ cũng cam kết tăng cường can dự với ASEAN “vì an toàn và an ninh biển, tự do hàng hải và giải quyết hòa bình các tranh chấp biển phù hợp với luật pháp quốc tế.”<br /><br />Việc thắt chặt hơn nữa mối quan hệ an ninh biển giữa Ấn Độ và Nhật Bản có lẽ là do kết quả từ sự quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực. Và Ấn Độ cũng có thể tiếp tục tăng cường khuôn khổ hợp tác quốc phòng với Mỹ và tháo gỡ các rào cản hiện nay đối với các cuộc tập trận/hoạt động an ninh đa phương trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.<br /><br />Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã đưa ra cách tiếp cận của Ấn Độ đối với vấn đề an ninh biển tại châu Á – Thái Bình Dương và hợp tác giữa Ấn Độ và Nhật Bản vào ngày 24/5/2013 như sau:<br /><br />“Cả Ấn Độ và Nhật Bản đều là các quốc gia biển quan trọng. Vì vậy an ninh và an toàn đối với các tuyến đường giao thương biển, đặc biệt là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là điều thiết yếu đối với hai quốc gia. Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải và không cản trở thương mại hợp pháp tại các vùng biển quốc tế, cũng như quyền qua lại trên các vùng biển phù hợp với các nguyên tắc đã được quy định của luật quốc tế. Chúng tôi cho rằng, các khu vực tồn tại tranh chấp cần phải được giải quyết hòa bình bởi các bên liên quan thông qua đàm phán. Đây là điều thiết yếu đối với hòa bình và ổn định của khu vực.”<br /><br />“Ấn Độ có lợi ích rất quan trọng đối với an ninh, ổn định và thịnh vượng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Những giá trị chung, lợi ích chung và tiềm năng hợp tác kinh tế là trụ cột cho mối quan hệ đối tác toàn cầu và chiến lược của chúng ta. Quan hệ đối tác này là tối cần thiết cho việc thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu hơn nữa, cho hợp tác và tăng cường liên kết, an ninh hàng hải và sự nổi lên của một cấu trúc khu vực dựa trên luật lệ, mở và cân bằng.”<br /><br />Về phần mình, Nhật Bản đã hồi sinh nền ngoại giao “giá trị quan” của mình đối với ASEAN, quay trở lại cách tiếp cận của Thủ tướng Shinzo Abe trong nhiệm kỳ đầu của ông năm 2006 – 2007, đó là tạo ra “một vòng cung tự do và thịnh vượng”. Nhật Bản đang tăng cường hỗ trợ an ninh cho Philippines, Việt Nam và Indonesia, Nhật Bản cũng thâm nhập mạnh mẽ vào Myanmar. Hiện Nhật Bản đang mở rộng mối quan hệ an ninh và quốc phòng với Ấn Độ, đặc biệt là hợp tác an ninh biển và tập trận hải quân song phương. Quan điểm của ông Abe về một châu Á rộng lớn hơn, trong đó có sự hội nhập của Ấn Độ đang trở thành hiện thực.<br /><br />Indonesia, quốc gia lớn nhất và có ảnh hương nhất trong khối ASEAN đang ủng hộ mạnh mẽ “cân bằng động”, trong đó tất cả các quốc gia trong EAS đều có lợi ích như nhau trong việc xây dựng các chuẩn tắc ứng xử và lòng tin khu vực thông qua các thể chế liên kết, chẳng hạn như EAS, đối thoại ADMM+8 và Diễn đàn Biển ASEAN (AMF). Jakarta cũng đang tuyên truyền cho việc hình thành một bộ nguyên tắc pháp lý ràng buộc của EAS nhằm quản lý căng thẳng khu vực dựa trên Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và Nguyên tắc Bali được thông qua trong thời gian Indonesia làm Chủ tịch ASEAN năm 2011. Việc giữ chân Trung Quốc trong tiến trình của DOC năm 2002 bằng cách đạt được Bộ Quy tắc Ứng xử ràng buộc trên Biển Đông được Indonesia nhìn nhận là yếu tố trọng tâm trong chính sách của ASEAN.<br /><br />Vì mục đích của bài viết không phải đề cập đến tất cả các phản ứng của khu vực đối với hành vi quyết đoán của Trung Quốc, nhưng việc đề cập đến vai trò của Úc cũng cần phải tính đến. Micheal Green thuộc CSIS cho rằng Sách trắng quốc phòng 2013 của Úc được Trung Quốc rất hoan nghênh chào đón bởi tuy nó đặt trọng tâm vào việc ngăn chặn các quốc gia thù địch gây sức ép tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhưng đáng ngạc nhiên là nó lại thể hiện sự “từ bỏ nỗ lực duy trì cân bằng chiến lược thuận lợi khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên”. Micheal Green còn cho rằng “Nếu như không gian chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương là mục tiêu và quan trọng đối với chiến lược của Úc tới mức phải làm suy yếu chiến lược chèn ép của kẻ thù trong không gian đó, thì tại sao lại không giải thích việc Úc sẽ làm thế nào để hợp tác với các quốc gia biển có ý chí tương tự đối mặt với cùng một thách thức như vậy? Dường như đối với tôi thì các quốc gia như Nhật Bản và Ấn Độ sẽ có tầm nhìn tham vọng hơn về mức độ hợp tác chiến lược, nhưng có lẽ đây là trường hợp điển hình nơi kiểu cư xử khéo léo (tức là, không chọc giận Trung Quốc lo ngại) đã ngăn cản các cuộc thảo luận rõ ràng về những thành tố của một chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương hiệu quả.”<br /><br />Bài học có thể rút ra từ thái độ mập mờ của Úc là tầm quan trọng không chỉ của việc tìm hiểu đúng đắn những nguyên nhân đằng sau chính sách đối ngoại hung hăng và sự quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực, mà còn ở việc áp dụng các cách thức hợp lý để thúc đẩy một châu Á đa cực. Tiến trình này buộc tất các cường quốc đang nổi ở khu vực phải tham gia vào, và không chỉ riêng Mỹ và Trung Quốc quyết định cấu trúc khu vực, mà ở một số khía cạnh, Úc cũng có thể giữ vai trò này.<br /><br />Không một quốc gia đơn lẻ nào có thể định hình và duy trình cấu trúc an ninh tại châu Á. Trung Quốc nên hợp tác với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và ASEAN để tăng cường các nỗ lực nhằm thúc đẩy cấu trúc an ninh đa phương cân bằng và dựa trên luật lệ thông qua tiến trình của EAS.<br /><br />***<br /><br />Dù cho các động cơ bên trong khiến Trung Quốc thúc đẩy các “lợi ích cốt lõi” về lãnh thổ khắp châu Á là gì, thì chúng dường như đang được thiết kế để tạo nên các hiện trạng mới trên thực địa và phá vỡ nguyên trạng bằng cả phương thức ngấm ngầm và công khai. Câu hỏi đặt ra là chúng ta nên đánh giá như thế nào về Trung Quốc: bằng các hành động hay bằng giọng điệu “phát triển hòa bình” của quốc gia này? Thật khó mà tin rằng việc Trung Quốc đẩy mạnh chính sách cứng rắn trên nhiều lĩnh vực là các vụ việc riêng lẻ, không nằm trong chiến lược tổng hợp có sự ủng hộ từ lãnh đạo cấp cao. Khi nêu cao vấn đề lịch sử và “mặc cảm nạn nhân” của mình, cái mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cố tình quên đi đó là không chỉ Trung Quốc mới có quá khứ bị bóc lột và chịu tủi nhục. Nếu những ưu tiên trong nước vẫn tiếp tục thúc đẩy Trung Quốc phô trương sức mạnh chủ nghĩa dân tộc ra bên ngoài, thì chính Trung Quốc sẽ thấy mình ngày càng bị cô lập.<br /><br />Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể nêu một “vấn đề lịch sử” đối với Trung Quốc: liệu có phải Trung Quốc đang hướng tới việc phục hưng lại đế quốc bá quyền của mình tại Đông Á? Nếu đúng như vậy thì những thách thức mà chính Trung Quốc tạo ra sẽ ngày càng gia tăng, và những hy vọng về một thế kỷ châu Á với sự thịnh vượng cho khắp khu vực sẽ sớm lụi tàn.<br /><br />Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông tương tự như thái độ của nước này đối với quần đảo Senkaku và tranh chấp biên giới với Ấn Độ. Bên cạnh nhu cầu xây dựng COC trên Biển Đông nhằm ngăn chặn các xung đột bất ngờ, phi lý và tạo dựng các quy tắc dựa trên luật quốc tế, việc củng cố cân bằng sức mạnh khu vực cũng quan trọng không kém. Ngay cà khi COC được thỏa thuận giữa Trung Quốc và ASEAN, thì hiệu quả của nó còn phụ thuộc vào sự hiện diện của một “môi trường sống phù hợp”.<br /><br />Diễn giải lại công thức đưa ưa chuộng của Walter Russell Mead, tuy sẽ không có ai bao vây Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng không thể bá quyền thống trị châu Á. Trung Quốc phải chấp nhận một châu Á đa cực, đó là điều không thể tránh khỏi.<br /><br />Phần nhiều sẽ phụ thuộc vào quyết tâm của Mỹ trong việc thực hiện lời hứa “xoay trục”. Mỹ sẽ cần phải kiềm chế các tiếng nói ngày càng tăng ở Washington về việc quay lại một chính sách châu Á lấy Trung Quốc làm trọng tâm và phải nhận ra tầm quan trọng thực chất của các đối tác khu vực chủ chốt như Ấn Độ và Nhật Bản.<br /><br />Cuối cùng, chính sách “xoay trục” của Mỹ chỉ có thể được duy trì hiệu quả bằng tín hiệu về sức mạnh và quyết tâm của Mỹ , chứ không phải bằng sự yếu kém. Những người ủng hộ chính sách rút lui của Mỹ tại các khu vực trên thế giới nên hiểu rằng một chính sách “xoay trục” mạnh mẽ sẽ làm giảm được xu hướng chạy đua vũ trang ngày càng tăng và khả năng là hạt nhân hóa khu vực. Trên hết, nó sẽ đảm bảo được lợi ích kinh tế sâu rộng cho nước Mỹ bằng việc tiếp tục đầu tư vào an ninh châu Á – Thái Bình Dương. Logic nền tảng chính sách “xoay trục”, như các nhà lãnh đạo Mỹ đã liên tục chỉ ra, là sự thừa nhận rằng an ninh và thịnh vượng của Mỹ trong thế kỷ 21 phụ thuộc rất nhiều vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương.<br /><br />Đồng thời Trung Quốc cũng cần thiết phải xem xét lại các lựa chọn chiến lược của mình tại Biển Đông và tác động tiêu cực của những hành vi đe dọa dựa trên “lợi ích cốt lõi” trong tuyên bố yêu sách lãnh thổ, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và ổn định khu vực tại Ấn Độ - Thái Bình Dương. Vấn đề đặt ra là khi Trung Quốc quyết tâm trở thành cường quốc biển, nước này sẽ tiếp tục coi sự thống trị của mình trên Biển Đông là điều tối quan trọng. Cần phải có nỗ lực ngoại giao rất lớn để đảm bảo hình thành được COC giữa ASEAN và Trung Quốc. Những nỗ lực tái cân bằng của các quốc gia trong EAS theo hướng như vậy không chỉ là điều cần thiết, đó là vấn đề cấp bách của khu vực. </span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-87246400666631477292013-08-06T09:02:00.003-07:002013-08-06T09:02:44.761-07:00Quan hệ đối tác chiến lược Việt-Ấn: Không gian và khoảng cách <b><i><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Vietnam-India Strategic Partnership: Spaces and Gaps </span></i></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Shresht Jain</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Research Intern, CRP, IPCS </span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">E-mail: shreshtjain@gmail.com </span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;"><br /><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Except few stints, one of which being Vietnam supporting its ideological partner China during the Indo-China war of 1962, the India-Vietnam relationship has remained exceptionally cordial since its foundation was laid by Prime Minister Nehru and Ho Chi Minh more than five decades ago. The relationship has nurtured more since the inception of the Joint Commission Meeting at the Ministerial and Strategic level in 2007, which provided a larger framework for bilateral cooperation in areas such as trade, economics, security, and science and technology. What are the spaces of convergence between India and Vietnam; and the strategic gaps to achieve those spaces? What can be done to realise the potential?</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Indo-Pacific: A Shared Interest</span><br /><span style="font-size: x-small;">Strategically, India holds a geopolitical location that straddles the land and maritime space between the East and the West. The interaction between Asia-Pacific and South Asia in areas such as economic corporation and security initiatives can be clubbed together to form a broader view of Indo-Pacific, wherein India could play a larger role in maintaining peace and security.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">India along with the US is committed to reject the use of force and support freedom of navigation. With Hanoi under relentless pressure from Beijing over the South China Sea, the Vietnamese foreign minister might have pressed India to play a more proactive role in defusing tensions and to let Indian companies like ONGC Videsh Limited (OVL), the overseas arm of the country’s oil conglomerate, continue with the exploration of two oil blocks that have been allocated to it in the disputed water body. Moreover, a shared common interest with the ASEAN and the US will allow India to engage in conducting offshore exploration and create a balance vis-à-vis China.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Trade and Investments: Strengthening Partnership</span><br /><span style="font-size: x-small;">Currently, India-Vietnam bilateral trade is around USD4 billion and is expected to exceed USD5 billion by the end of the year. The two sides have decided to scale up trade to USD7 billion by 2015, a relatively modest target compared to the USD60 billion trade target set by China in relation to Vietnam. Clearly, there remains huge potential, both in terms of trade and investment, between the two countries.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Vietnam is greatly impressed by the IT sector in India. India has set up a USD2 million worth Vietnam-India Advanced Resource Centre in ICT (ARC-ICT) in Hanoi and is providing a PARAM Supercomputer. Investments by Indian companies totals approximately USD936 million in 86 projects in sectors such as oil and gas exploration, mineral exploration and processing, sugar manufacturing, agro-chemicals, IT, and agricultural processing.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Recently, Vietnam has chosen Tata Power as developer for a USD1.8 billion 2X660 MW Long Phu 2 Thermal Power Project in Soc Trang Province in southern Vietnam, despite strong competition from Korean and Russian companies. It will be the single largest Indian investment in Vietnam when it comes through and will give a strong boost to economic cooperation and the strategic partnership.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Road Blocks to Success</span><br /><span style="font-size: x-small;">In terms of trade, India still stands tenth as a trading partner to Vietnam. Fundamentally, Indian firms can only perform well on foreign soil if the regulatory climate in that country is conducive enough for it to sustain. India has some problems related to land acquisition in Vietnam, which is hampering the pace with which manufacturing industries can set up their bases in Vietnam.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">In terms of India’s energy security, Vietnam’s offshore deposit offers opportunities for exploration and eventual supply, but the fragility in the UNCLOS allows China to put pressure on Vietnam. Though India has shown stern determination to ensure freedom of navigation, cases like the Chinese warning to Indian Navy stating that ’you are entering Chinese Water’ when Indian Naval Vessel, INS Arihant while sailing at a distance of 45 nautical mile from the Vietnamese Coast drop a hint that the India-Vietnam relationship will be best served if International laws are universally adhered to.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">With respect to the strategic alliance, a major shortcoming has been the lack of infrastructure in Vietnam. ONGC did face a few problems in regard to the interpretation of the oil and gas reserves in its study area and so, relinquished a few of the blocks. Subsequently, there have been diplomatic rows between China and Vietnam on the issue of exploration of gas by PetroVietnam and British Petroleum (BP) on the planned USD2 billion gas field and pipeline project off Vung Tau in the southern coast, which is close to the Lan lay-Lan Do project where ONGC is a partner.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Realising the Potential</span><br /><span style="font-size: x-small;">As a traditional partner of India, Vietnam has been recognised as an important factor in India’s Look East Policy (LEP). The coincidence of India’s LEP and Vietnam’s policy of cementing its relationship with traditional friends and multi-lateralising and diversifying its international relations lead to the establishment of Vietnam-India Strategic Partnership. A coincidence like this is appropriate to sort differences at the bilateral level.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">An improved trade relation with Vietnam will have positive externalities. Given the leverage that India has on Information and Technology, Vietnam could well be the starting point in the region for such advancement and also to impress its neighbours further down the line. As for Vietnam, working in full capacity with India will fetch it economic and strategic benefit and also empower Vietnam to generate better sync with its ASEAN counterparts .</span><br /><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Dưới đây là bản dịch </span><br /><i><b>Quan hệ đối tác chiến lược Việt-Ấn: Không gian và khoảng cách </b></i><br /><span style="font-size: x-small;">Ngoài một số ít hạn chế, quan hệ giữa Ấn Độ và Việt Nam vẫn nồng ấm kể từ khi Thủ tướng Nehru và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng cách đây hơn 5 thập niên.</span><br /><span style="font-size: x-small;">Quan hệ song phương đã trở nên chín muồi hơn kể từ khi hai bên bắt đầu Hội nghị Ủy ban hỗn hợp cấp bộ trưởng và quan hệ song phương được nâng lên mức đối tác chiến lược năm 2007, tạo bộ khung lớn hơn cho hợp tác song phương trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế, an ninh, khoa học và công nghệ. Đâu là những không gian hội tụ giữa Ấn Độ và Việt Nam? Có thể làm gì để khai thác những tiềm năng này?</span><br /><span style="font-size: x-small;">Về mặt chiến lược, Ấn Độ có vị trí địa chính trị án ngữ trên đất liền và không gian biển giữa Đông và Tây. Ảnh hưởng của Thái Bình Dương và Nam Á trong các lĩnh vực như hợp tác kinh tế và đảm bảo an ninh có thể hợp lại để tạo nên cách nhìn rộng hơn về Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nơi Ấn Độ có thể đóng một vai trò lớn hơn trong duy trì hòa bình và an ninh. Cùng với Mỹ, Ấn Độ đã cam kết phản đối sử dụng vũ lực và ủng hộ tự do hàng hải. Với việc Hà Nội liên tục bị sức ép từ Bắc Kinh trên Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam có thể đã hối thúc Ấn Độ đóng vai trò tích cực hơn nhằm giảm căng thẳng và để các công ty Ấn Độ, như ONGC Videsh Limited (OVL) tiếp tục thăm dò hai lô dầu của Việt Nam trong khu vực mà Trung Quốc tranh chấp.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Về thương mại và đầu tư, kim ngạch thương mại hiện nay giữa Việt Nam và Ấn Độ đạt khoảng 4 tỷ USD và dự kiến sẽ vượt ngưỡng 5 tỷ USD vào cuối năm nay. Hai bên đã quyết định tăng kim ngạch thương mại lên 7 tỷ USD vào năm 2015, một mục tiêu khá khiêm tốn so với mục tiêu kim ngạch thương mại song phương 60 tỷ USD mà Trung Quốc đề ra trong quan hệ với Việt Nam. Rõ ràng, vẫn còn tiềm năng lớn trong thương mại và đầu tư giữa hai nước. Việt Nam quan tâm đến lĩnh vực công nghệ thông tin (IT) của Ấn Độ. Ấn Độ đã thành lập Trung tâm nguồn lực công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại (ARC-ICT) tại Hà Nội và cấp cho Việt Nam một siêu máy tính PARAM. Tổng đầu tư của các công ty Ấn Độ xấp xỉ 936 triệu USD trong 86 dự án thuộc các lĩnh vực thăm dò dầu khí, thăm dò và khai thác khoáng sản, sản xuất đường, hóa chất nông nghiệp, công nghệ thông tin và chế biến nông sản.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Mới đây, Việt Nam đã chọn Tata Power xây dựng nhà máy nhiệt điện Long Phú 2, với vốn đầu tư 1,8 tỷ USD tại tỉnh Sóc Trăng, bất chấp sự cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty Nga và Hàn Quốc. Đây là dự án đơn lẻ lớn nhất của Ấn Độ tại Việt Nam, sẽ tạo nên lực đẩy mạnh đối với hợp tác kinh tế và quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước. Ấn Độ đứng thứ 10 trong số các đối tác thương mại của Việt Nam. Về cơ bản, các công ty Ấn Độ chỉ có thể hoạt động tốt trên lãnh thổ nước ngoài nếu các quy chế tại nước đó đủ điều kiện cho họ tồn tại. Ấn Độ đang vướng một số vấn đề liên quan đến đất đai tại Việt Nam, cản trở các doanh nghiệp chế tạo thành lập các cơ sở tại Việt Nam.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Trong lĩnh vực an ninh năng lượng của Ấn Độ, các mỏ dầu ngoài khơi của Việt Nam tạo cơ hội cho các công ty Ấn Độ thăm dò và cuối cùng là cung ứng năng lượng, song tính mong manh của Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS) đã cho phép Trung Quốc gây sức ép đối với Việt Nam. Mặc dù Ấn Độ đã thể hiện quyết tâm bảo đảm tự do hàng hải, song những trường hợp như Trung Quốc khuyến cáo hải quân Ấn Độ rằng “bạn đang đi vào vùng biển Trung Quốc”, khi tàu hải quân INS Arihant của Ấn Độ cách bờ biển Việt Nam 45 hải lý, đã gợi lên một suy nghĩ rằng quan hệ Ấn Độ-Việt Nam sẽ được bảo vệ tốt nếu luật pháp quốc tế được tất cả các bên tôn trọng.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Là một đối tác truyền thống của Ấn Độ, Việt Nam đã được công nhận như một nhân tố quan trọng trong chính sách “hướng Đông” (LEP) của Ấn Độ. Sự trùng hợp của LEP của Ấn Độ và chính sách của Việt Nam tích cực kết nối quan hệ với những bạn bè truyền thống, đa phương hóa và đa dạng hóa trong các mối quan hệ quốc tế đã dẫn tới việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Ấn Độ. Đối với Việt Nam, khai thác hết tiềm năng hợp tác với Ấn Độ sẽ mang lại lợi ích kinh tế và chiến lược, đồng thời giúp Việt Nam “đồng bộ hóa” với các đối tác ASEAN.</span><br /><span style="font-size: x-small;">Theo “IPCS” (ngày 23/7)</span></span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-13775823618672763402013-08-06T09:01:00.004-07:002013-08-06T09:01:42.709-07:00Những nhân tố khiến Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn <b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Trade winds, China drive US, Vietnam in closer embrace </span></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">n diplomacy, </span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">there are no permanent enemies, but only friends to be made. In a new congruence of strategic and economic interests, the leaders of US and Vietnam met in Washington for landmark talks that seek to open a new chapter in relations between the former foes.<br />Truth and Reconciliation<br /><br />The reconciliation has been in the making for quite some time, but the US rebalancing towards Asia, a growing unease in Hanoi over China’s postures in South China Sea and the imperatives of trade are pushing the US and Vietnam in a closer embrace.<br /><br />Beijing must be watching carefully the hugs and bonhomie as US President Barack Obama welcomed Vietnamese President Vietnam’s President Truong Tan Sang in the White House, and spoke eloquently about the letter from legendary Vietnamese leader Ho Chi Minh to Harry S. Truman. “…we discussed the fact that Ho Chi Minh was actually inspired by the U.S. Declaration of Independence and Constitution, and the words of Thomas Jefferson,” said Obama.<br /><br />Mr Sang is only the second Vietnamese president to have visited the US since the two countries resumed diplomatic ties in 1995 and nearly four years after the two countries ended a brutal war that inflicted countless casualties on both sides. The memories of the Vietnam war still hover in the air, but pragmatism and new strategic calculations favour a deepening of rapprochement.<br /><br />Against this backdrop, the talks between the leaders of the US and Vietnam July 25 focused on the Trans-Pacific Partnership that seeks to provide a fresh impetus to bilateral trade and investment. Pushing for stronger US-Vietnam relations, Obama struck a note of reconciliation and realism. “We all recognise the extraordinarily complex history between the US and Vietnam. Step by step we have been able to establish a degree of mutual respect and trust,” said Mr Obama.<br /><br />The Vietnamese leader was also refreshingly pragmatic as he pushed for an upgrade in the Washington-Hanoi ties. “We touched upon the war legacy issues including human rights which we still have differences on,” said Mr Truong Tan San.<br /><br />Looking ahead, he stressed that these issues should not prevent closer links between the two countries as he invited Mr Obama to visit Vietnam.<br />China Factor<br /><br />Tobama-vietnam3he visit by the Vietnamese president to the US has been widely seen and interpreted as part of Hanoi’s strategy to seek counterbalance against perceived Chinese assertiveness in the South China Sea. China is Vietnam’s largest trading partner, but the relations have been strained recently by renewed assertion of claims on the disputed China Sea by both Hanoi and Beijing. In this context, the TPP could prove to be a useful avenue for Vietnam to diversify its trade relationship to lessen its dependence on Beijing.<br />American analysts have cited the China factor as a key propellant driving the US and Vietnam closer. “When Vietnam feels insecure, who is it going to feel insecure about? Laos? Cambodia? Thailand? The United States is too far away … so China,” University of Virginia political scientist Brantly Womack, a long-time watcher of US-China-Vietnam relations, told Voice of America.<br /><br />In a bid to protect its strategic autonomy, Vietnam is not just courting the US, but is also trying to persuade rising Asian powers like India to play a more proactive role in the East Asia theatre. The Vietnamese prime minister sprang a surprise last year when he exhorted India to play a more proactive role in defusing the South China Sea crisis.<br /><br />Against this backdrop, the Vietnamese leader said in Washington: “Amidst a changing regional and world landscape, the major powers, including the United States, have an important role and responsibility in dealing with hotspots in the region such as the East Sea – East China Sea and such global issues as energy security, food security, transnational crime, climate change, and so on. This has become ever more imperative.” “In that spirit, Vietnam welcomes the United States enhanced cooperation with the Asia Pacific for peace, stability, and development in the region,” he added.<br />No Permanent Enemies, Only Friends<br /><br />The US has smelt an opportunity in Vietnam’s China anxieties as well as in the ongoing economic resurgence of the Southeast Asian country. It’s not easy to let go of burdens of history, but Washington is ready to walk that extra mile to build a lasting reconciliation with Hanoi. This new spirit of pragmatism and flexibility could be sensed in US U.S. Secretary of State John Kerry’s welcome speech at a working lunch he hosted for the visiting Vietnamese president. “The Vietnamese have learned from their own history that we all have no permanent enemies, only friends yet to be made,” he said.<br />It’s Economics! Vietnam Success Story<br /><br />“Today, when Americans hear the word Vietnam, they are able to think of a country, not a war. And that is our shared accomplishment. In the past 18 years, the wisdom of normalization has been amply proven. Vietnam has emerged as one of Asia’s great success stories.”<br /><br />The Vietnamese leader welcomed the deepening of economic linkages and indicated his readiness to walk the extra mile to address human rights concerns through an honest dialogue.<br /><br />“I’m also happy to note that economic trade ties continue to stay at the heart of bilateral relations, serving both as the cornerstone of and an engine for the overall relationship.” The United States is now a leading economic trade partner and the largest export market of Vietnam,” he said.<br /><br />“Our two countries have continued to maintain dialogues on issues of mutual interest, including human rights. Through dialogues, we have achieved better mutual understanding, particularly about each other’s approach and distinct cultural and historical circumstances. Vietnam has been making sustained efforts to protect and promote human rights so that the people can benefit from the finest results of the reform process which is going on.”</span><br />
<span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;"><br /><b>Những nhân tố khiến Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn </b><span style="font-size: x-small;">Trong ngoại giao, không có kẻ thù vĩnh viễn mà chỉ có tình bạn sẽ được tạo nên. Trong sự tương đồng mới về các lợi ích chiến lược và kinh tế, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam đã gặp nhau tại Washington để tiến hành cuộc hội đàm mang tính bước ngoặt, nhằm tìm cách mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai cựu thù. </span><br /><span style="font-size: x-small;">in cậy và hòa giải: Tiến trình hòa giải giữa hai nước đã được triển khai. Chính sách tái cân bằng của Hoa Kỳ đối với châu Á, sự khó chịu ngày càng tăng của Việt Nam trước các hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông và yếu tố thương mại đang thúc đẩy Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Bắc Kinh đã theo dõi chặt chẽ những cử chỉ thân thiện của Tổng thống Barack Obama khi đón tiếp Chủ tịch Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng và phát biểu của ông Obama về bức thư mà nhà lãnh đạo huyền thoại của Việt Nam Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ, ông Harry S.Truman. Tổng thống Obama nói: “Chúng tôi đã thảo luận thực tế rằng Hồ Chí Minh thực sự có nguồn cảm hứng từ Tuyên ngôn độc lập và bản Hiến pháp của Hoa Kỳ…”.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Ông Trương Tấn Sang là Chủ tịch Việt Nam thứ hai tới thăm Hoa Kỳ kể từ khi hai nước nối lại quan hệ ngoại giao năm 1995 và gần 40 năm sau khi hai nước chấm dứt cuộc chiến tranh gây thương vong lớn cho cả hai phía. Những ký ức về cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn, song chủ nghĩa thực dụng và những toan tính chiến lược đã giúp hai nước đẩy mạnh quan hệ hợp tác. Trong bối cảnh này, cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam ngày 25/7 đã tập trung vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm tạo ra những động lực mới cho thương mại và đầu tư. Trong khi thúc đẩy mạnh mẽ hơn quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam, ông Obama đã lưu ý đến sự hòa giải và chủ nghĩa thực tế. Ông nói: “Chúng tôi đều công nhận lịch sử cực kỳ phức tạp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Từng bước, chúng ta có thể thiết lập một mức độ tôn trọng và tin cậy lẫn nhau”. Lãnh đạo Việt Nam cũng khá thực tế khi hối thúc nâng cấp quan hệ giữa Washington và Hà Nội.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Nhân tố Trung Quốc đối với quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam: Chuyến thăm của Chủ tịch Việt Nam tới Hoa Kỳ được dư luận hết sức chú ý theo dõi và được coi là một phần chiến lược của Hà Nội nhằm đối trọng với sự hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, song quan hệ hai bên trong thời gian gần đây trở nên căng thẳng do tuyên bố chủ quyền của cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội về khu vực tranh chấp trên Biển Đông. Trong bối cảnh này, TPP có thể chứng tỏ là một “đại lộ hữu ích” để Việt Nam đa dạng hóa quan hệ thương mại nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Các nhà phân tích Hoa Kỳ cho rằng Trung Quốc là tác nhân chủ chốt đẩy Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Nhằm bảo vệ quyền tự trị chiến lược của mình, Việt Nam không chỉ tranh thủ Hoa Kỳ mà còn cố gắng thuyết phục các nước đang nổi trong khu vực châu Á như Ấn Độ đóng vai trò tích cực hơn trên trường Đông Á. Năm ngoái, Thủ tướng Việt Nam đã khiến dư luận ngạc nhiên khi kêu gọi Ấn Độ đóng vai trò tích cực hơn nhằm tháo gỡ cuộc khủng hoảng ở Biển Đông.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Không có những kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có bạn bè: Hoa Kỳ đã phát hiện ra cơ hội từ những mối lo ngại của Việt Nam về Trung Quốc, cũng như sự trỗi dậy của nền kinh tế Đông Nam Á này. Không dễ loại bỏ những gánh nặng lịch sử, song Washington đã sẵn sàng đi xa thêm để xây dựng một mối quan hệ hòa giải bền vững với Hà Nội. Tinh thần mới này của chủ nghĩa thực dụng và chính sách linh hoạt của Hoa Kỳ có thể được nhận thấy trong bài diễn văn chào mừng của Ngoại trưởng John Kerry tại bữa ăn trưa làm việc mà ông dành cho Chủ tịch Việt Nam. Ông nói: “Người Việt Nam đã học được từ lịch sử của họ rằng chúng ta không có những kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có những mối quan hệ bạn bè chưa được thiết lập… Ngày nay, mỗi khi nghe từ 'Việt Nam', người ta có thể nghĩ đến một đất nước, chứ không nghĩ đến chiến tranh. Trong 18 năm qua, tính sáng suốt của quyết định bình thường hóa quan hệ đã được chứng minh đầy đủ. Việt Nam đã nổi lên như một trong những câu chuyện thành công lớn của châu Á”.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Chủ tịch Việt Nam hoan nghênh việc làm sâu sắc thêm các mối liên hệ kinh tế với Hoa Kỳ và khẳng định sẵn sàng đi xa hơn trong việc giải quyết những mối lo ngại về nhân quyền thông qua cuộc đối thoại chân thành nhất. Chủ tịch Trương Tấn Sang nói: “Tôi rất vui mừng lưu ý rằng quan hệ kinh tế thương mại tiếp tục là trung tâm của mối quan hệ toàn diện. Hoa Kỳ hiện là đối tác kinh tế-thương mại hàng đầu của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hai nước chúng ta tiếp tục duy trì các cuộc đối thoại về những vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề nhân quyền. Thông qua các cuộc đối thoại, chúng ta sẽ hiểu biết nhau hơn…”.</span><br /><br /><span style="font-size: x-small;">Theo India Writes</span></span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-86800195401934910232013-08-06T08:57:00.002-07:002013-08-06T08:57:19.344-07:00Mỹ và “Bài toán” Biển Đông<b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Mỹ và “Bài toán” Biển Đông</span></b><div>
<b><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;" /></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Mỹ phải đưa ra những sự lựa chọn khó khăn và thực hiện các nỗ lực cần thiết để có thể duy trì hòa bình tại Biển Đông trong năm 2013 và trong những năm kế tiếp.</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Những căng thẳng khuấy động Biển Đông năm 2012 vẫn tiếp tục tồn tại ở khu vực trong năm 2013.</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Cho dù đã có những dấu hiệu tích cực trên mặt trận ngoại giao, tuy nhiên tình trạng hiện tại đang hướng kh</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">u vực đến một cuộc đối đầu kéo dài, âm ỉ trong năm nay và trong những năm tiếp theo. Quá trình tìm kiếm các động lực mới cho sự ổn định chung cũng như các sáng kiến như Bộ quy tắc ứng xử có thể sẽ tiếp tục được tiến hành trong bối cảnh căng thẳng tồn tại lâu dài. Những trở ngại này bao gồm các yêu sách lãnh thổ chồng chéo, các thể chế khu vực yếu kém, sự thiếu tôn trọng luật biển quốc tế, làn sóng chủ nghĩa dân tộc đang gia tăng tại khu vực, quá trình hiện đại hóa quân sự đang diễn ra, và một Trung Quốc đang ngày càng trở nên quyết đoán và được dẫn dắt bởi giới lãnh đạo mới luôn đề cao sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc - coi đây là thông điệp chính của họ.<br />Không chỉ lảng tránh áp lực từ nhiều nước, Trung Quốc còn ngày càng mở rộng yêu sách của họ về các quyền trên biển, sử dụng các đội tàu hải quân, tàu bảo vệ bờ biển, tàu cá và thậm chí là cả tàu du lịch hiện diện trong các vùng nước có tranh chấp tại Biển Đông. Ngoài ra, nước này cũng đang củng cố nguyên tắc, chỉ có các quốc gia có tranh chấp mới có thể giải quyết tranh chấp.<br />Trong khi đó, những diễn biến này đã ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu chiến lược của Mỹ tại khu vực, trong đó có việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, duy trì quyền tự do trên biển (cho cả Lực lượng Hải quân của Mỹ, lực lượng đã gìn giữ hòa bình hàng hải tại Châu Á trong 70 năm qua), duy trì quyền tiếp cận tới các tuyến thông thương trên biển (SLOCs) và xây dựng một hệ thống mở, dựa trên luật pháp để quản lý các lợi ích quan trọng này của cộng đồng quốc tế.<br />Do ngoại giao không phải là một công cụ hữu hiệu để kiềm chế căng thẳng tại Biển Đông, Mỹ cần phải xem xét những phương thức khác mà nước này có thể làm để gìn giữ hòa bình và thúc đẩy hơn nữa sự thịnh vượng của khu vực. Mỹ cần phải tiến hành các bước đi cụ thể để tăng cường năng lực cho các đồng minh và các đối tác để những nước này tự bảo vệ mình trước sự đe dọa và hiếu chiến (từ Trung Quốc – ND), củng cố lòng tin của các nước trong khu vực đối với luật biển quốc tế, tăng cường sức mạnh của ASEAN để khối này có thể đưa ra được sự đồng thuận về các lợi ích chung, và tổ chức các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các đồng minh, các đối tác cũng như với Trung Quốc, để từ đó làm giảm thiểu nguy cơ xảy ra các sự cố và các tính toán sai lệch làm nảy sinh các xung đột không cần thiết.<br />Cách hành xử ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong việc khẳng định các yêu sách chủ quyền cho thấy nước này đang đẩy mạnh việc sử dụng chính sách đe dọa trong các khu vực lân cận của mình. Cách xử lý của Trung Quốc tại “mô hình Bãi cạn Scarborough”, khi mà các hành vi quấy rối trên biển nhận được sự hỗ trợ của các lực lượng hải quân cũng như cách xử lý của họ tại tranh chấp đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản cho thấy rằng chính sách bên miệng hố chiến tranh kiểu mới đó là răn đe nhưng không sử dụng vũ lực đã trở thành chính sách chiến lược của Bắc Kinh. Trong năm ngoái, Trung Quốc đã có những phát ngôn và các bước đi cụ thể để cho thấy quyết tâm không khoan nhượng của nước này trong cái mà họ gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” của hầu như toàn bộ khu vực Biển Đông. Ngoài ra, giới lãnh đạo mới dưới quyền của ông Tập Cận Bình đã đẩy mạnh các phát ngôn theo chủ nghĩa dân tộc trên diện rộng, luôn đề cao sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc - coi đây thông điệp chính của họ, và trực tiếp chỉ đạo Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cải thiện năng lực của đơn vị này. Không bất ngờ gì khi ngay tại tuần đầu tiên sau lễ nhậm chức Chủ tịch nước của ông Tập, Hải quân của PLA đã phô trương sức mạnh của mình tại Biển Đông bằng việc gửi đi hai tàu khu trục có tên lửa dẫn đường và một khu trục hạm có tên lửa dẫn đường tới vùng cực nam của yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, để thực hiện các cuộc tập trận mà theo nhiều nguồn tin là có các hoạt động đổ bộ và các hoạt động kết hợp khác với các vũ khí trên không được đặt trên đất liền. Sách trắng gần đây của Trung Quốc đã đưa ra lời kêu gọi rõ ràng nhất từ trước đến nay về việc nước này phải trở thành một cường quốc quân sự biển.<br />Các nước khác trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam và Philippines, đã không hài lòng và đưa ra lời cảnh báo về sự quyết đoán của Trung Quốc. Việc Trung Quốc chính thức xuất bản các tấm bản đồ của nước này đã khiêu khích nhiều cuộc biểu tình của dân chúng cũng như sự phản đối của chính phủ hai nước nói trên; hoa quả Trung Quốc đã bị bỏ lại trên các bến cảng của Việt Nam. Trong khi đó, cả hai nước đều đang phát triển các năng lực quốc phòng hiện đại hơn để có thể bảo vệ các lợi ích của họ trước một Trung Quốc đang trỗi dậy. Như là một phần trong kế hoạch hiện đại hóa hải quân của mình, vào năm 2013 Việt Nam sẽ nhận chiếc tàu đầu tiên trong số 6 tàu ngầm tấn công chạy bằng diesel lớp Kilo của Nga. Việt Nam cũng chú trọng hơn quan hệ với người bạn mới Ấn Độ trong việc hợp tác huấn luyện trong các hoạt động quân sự dưới đáy biển. Cho dù Philippines có hiệp ước an ninh với Mỹ - có tác dụng như một tấm lá chắn quan trọng thì nước này cũng đang gây nhiều chú ý trong khu vực với việc mua một số tàu ngầm trong những năm gần đây. Tất cả những sự kiện trên, sự gia tăng về số lượng cũng như độ tối tân của các khí tài hải quân – chưa đề cập đến sự gia tăng số lượng các tàu hải giám được trang bị vũ trang – cho thấy rằng Biển Đông trong tương lai sẽ là một khu vực rất chật chội. Cho dù các bên không tiến hành các hành động khiêu khích có chủ ý, thì vẫn rất khó để có thể kiểm soát căng thẳng trong trường hợp xảy ra các sự cố, các tính toán sai lệch, hoặc các hành động bị cho là mang tính khiêu khích, tuy nhiên lại xuất phát từ các báo cáo không chính xác của các thuyền trưởng.<br />Các cơ chế nhằm kiềm chế xung đột cũng đã tỏ ra không mấy hiệu quả tại các diễn đàn khu vực, nơi mà vấn đề Biển Đông luôn được xem là một vấn đề quan trọng trong chương trình nghị sự. Năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử, ASEAN đã không đưa ra được một thông cáo chung sau hội nghị thượng đỉnh hàng năm do Trung Quốc gây áp lực lên Campuchia, nước chủ tịch năm ngoái, để nước này không đề cập đến vấn đề Biển Đông trong bản thông cáo chung. Cho dù mười năm đã qua kể từ khi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được Trung Quốc và ASEAN ký vào năm 2002, ASEAN vẫn chưa thể đưa ra được một Bộ quy tắc ứng xử có ràng buộc, và viễn cảnh phía trước của văn bản này vẫn còn khá mờ mịt. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng Trung Quốc sẽ không tham gia vào một sáng kiến ngoại giao mới nào để thể hiện rằng nước này cũng có những đóng góp cho quá trình giải quyết xung đột.<br />Luật pháp quốc tế cũng khó có thể giải quyết vấn đề của khu vực, ít nhất là vào thời điểm hiện tại. Vào tháng 1 khi Philippines đệ trình tranh chấp chủ quyền của họ với Trung Quốc lên Liên Hợp Quốc để phân xử theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), điều ước quốc tế mà cả hai nước đều đã ký kết, Trung Quốc về cơ bản đã từ chối việc đứng ra kháng cáo và liên tục nhắc lại lời từ chối tham gia vào vụ kiện trên.<br />Vậy Mỹ nên làm gì khi phải đối mặt với tình hình ảm đạm trên? Làm thế nào để Mỹ có thể thực hiện vai trò lãnh đạo của mình với mục tiêu đưa quỹ đạo của khu vực theo hướng hòa bình dựa trên một hệ thống mở, dựa vào luật pháp tập trung vào những lợi ích chung? Bất kỳ chiến lược nào cũng phải bao gồm sự can dự toàn diện bao gồm tất cả các lĩnh vực như quân sự, chính trị/ngoại giao và kinh tế.<br />Về mặt quân sự, Mỹ cần tiến hành những bước đi sau đây:<br />- Tăng cường năng lực cho các đồng minh và đối tác để họ có khả năng phòng vệ tối thiểu chống lại hành động xâm chiếm. Mỹ công nhận quyền của Trung Quốc trong việc bảo vệ lãnh thổ, nhưng Trung Quốc cũng nên công nhận quyền của các nước láng giềng trong việc xây dựng cái mà nước này gọi là ‘lực lượng chống can thiệp’. Mỹ nên giúp nâng cao năng lực phòng vệ ở mức thấp của những nước này, bao gồm cả vấn đề an ninh trên biển hiện ở dưới cấp độ quân sự. Mỹ có thể đem lại lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực cảnh báo trên biển (MDA) hoặc thông tin tình báo, giám sát và trinh sát (ISR).<br />- Hải quân và Cảnh sát biển Mỹ cần đào tạo các đối tác quân sự và đơn vị trên biển nhằm giảm thiểu nguy cơ tai nạn hoặc tính toán sai lầm. Điều thực sự quan trọng cần nhấn mạnh là hoạt động an toàn của các tàu ngầm, đặc biệt khi xét đến việc thiếu kinh nghiệm của các quốc gia như Việt Nam trong hoạt động dưới mặt biển.<br />- Tổ chức và thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin giữa lực lượng quân đội của các bên liên quan. Kết hợp đào tạo, đặc biệt trong các hoạt động với cường độ thấp nhằm giải quyết những vấn đề về lợi ích chung như hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai (HA/ DR) và các hoạt động chống cướp biển.<br />- Thu hút Trung Quốc tham gia vào các nỗ lực quân sự của khu vực. Việc Trung Quốc chấp nhận đề nghị của Mỹ tham gia cuộc tập trận RIMPAC 2014 là một tín hiệu đáng khích lệ. Điều đó tạo đà thuận lợi cho việc hình thành các mối quan hệ riêng có thể giúp giảm thiểu sự nghi ngờ mang tính nguyên tắc giữa lực lượng quân đội và tạo ra một “van xả” quan trọng khi tình hình trở nên căng thẳng.<br />Ngoại giao quân sự phải được hỗ trợ bởi các cam kết ngoại giao nhằm thúc đẩy sự minh bạch và giải quyết xung đột dựa trên cơ sở luật pháp phù hợp với các giá trị Mỹ. Những ưu tiên về ngoại giao và chính trị bao gồm:<br />- Củng cố nỗ lực hướng tới phê chuẩn UNCLOS. Sự phản đối của những người bảo thủ trong việc Thượng viện phê chuẩn UNCLOS tập trung vào vấn đề cho phép (và tài trợ) một bộ máy quốc tế vô danh có thể làm ảnh hưởng chủ quyền của nước Mỹ. Trong khi những mối quan ngại đó có thể được đảm bảo, nước Mỹ không thể hành động một cách đáng tin cậy với vai trò người bảo vệ tự do lưu thông trên biển nếu không tham gia vào hệ thống quốc tế đang gìn giữ những nguyên tắc này như tất cả quốc gia khác trong khu vực đã làm. UNCLOS không thể giải quyết tranh chấp Biển Đông, nhưng đang thúc đẩy các luật lệ trên biển đã được thừa nhận trên bình diện quốc tếcó thể giúp ngăn chặn tranh chấp. Mặc dù Mỹ luôn tuân thủ các điều khoản của UNCLOS, hành động biểu trưng này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng.<br />- Tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Philippines trong việc đưa tranh chấp của nước này ra tòa trọng tài, một tiền lệ quan trọng của khu vực. Ngoại trưởng Kerry đã bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn của Mỹ đối với nỗ lực hướng tới một giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, Mỹ phải nhận thấy rằng sự hỗ trợ của nước này không phải là kiểm soát kết quả (xét cho cùng, Mỹ không phải là một bên yêu sách), mà là hỗ trợ một quá trình giúp ngăn chặn hành động ép buộc và xung đột. Mặc dù Việt Nam với kinh nghiệm trong việc đối phó Trung Quốc gợi ý về phương thức ngoại giao thầm lặng với Bắc Kinh nhưng Việt Nam và các nước ASEAN có lợi ích cơ bản trong việc ủng hộ hệ thống luật pháp quốc tế và sự đoàn kết của ASEAN.<br />- Tăng cường vai trò lãnh đạo trung tâm của ASEAN trong việc quyết định số phận Biển Đông, và thúc đẩy việc hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông. Một phần quan trọng trong chiến lược tái cân bằng Châu Á của Mỹ đó là tham gia vào Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và các diễn đàn khu vực khác do ASEAN chủ trì. Mỹ sẽ tiếp tục góp mặt ở những diễn đàn như vậy, đồng thời tăng cường can dự song phương với các quốc gia thành viên nhằm nâng cao sự gắn kết của ASEAN trong việc hợp tác hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử ràng buộc với Trung Quốc. Trong thời gian tới đây, Mỹ cần tiếp tục thắt chặt quan hệ với nước chủ tịch năm 2013 của ASEAN, Brunei Darussalam, đặc biệt là đánh giá về các đề nghị gần đây Bắc Kinh đưa ra cho vương quốc hồi giáo này. Sẽ là quá sức chịu đựng của ASEAN nếu cả khối lại phải chứng kiến sự cố đã từng xảy ra ở Phnom Penh, Bắc Kinh gây sức ép lên nước chủ tịch và gián tiếp phá hỏng những nỗ lực của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Một tín hiệu đáng khích lệ là Brunei đã tuyên bố rõ rằng mỗi thành viên ASEAN có quyền thảo luận về vấn đề an ninh biển tại những diễn đàn sắp tới.<br />- Tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện với Indonesia nói riêng và phát huy vai trò trung gian khu vực của nước này. Một nước Indonesia dân chủ có tiếng nói quan trọng trong ASEAN và khu vực nói chung, đã trở thành đối tác toàn diện của Mỹ từ năm 2008. Không phải là bên tranh chấp ở Biển Đông, Indonesia có thể đóng vai trò bên trung gian đáng tin cậy, như nước này từng làm sau thất bại ở Phnom Penh.<br />Cuối cùng, bất kỳ chiến lược khu vực nào cũng đi kèm những cam kết về kinh tế, phản ánh tầm quan trọng của tăng trưởng đối với các quốc gia Đông Á và thúc đẩy sự thịnh vượng. Các sáng kiến quan trọng về kinh tế cần thực hiện bao gồm:<br />- Hoàn tất quá trình đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trong năm nay. Với sự hỗ trợ của chính phủ Abe tại Nhật Bản, TPP có thể đạt được những tiến bộ thực sự trong năm tới hoặc khoảng như vậy. Kết thúc những đàm phán ban đầu về TPP sẽ chứng minh quyết tâm và cam kết của Mỹ trong việc thúc đẩy sự thịnh vượng khu vực thông qua hoạt động thương mại mở rộng, dựa trên cơ sở luật lệ, lợi ích chung quan trọng của khu vực. Sau đó, điều này cũng giúp hình thành mối liên kết nhiều hơn giữa Mỹ và đa số các bên yêu sách ở Biển Đông, xóa bỏ áp lực về vấn đề quân sự.<br />- Cân bằng sự chênh lệch phát triển trong nội bộ ASEAN. Mỹ nên sử dụng các sáng kiến về kinh tế như chương trình Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế Mỹ-ASEAN (E3) đưa ra mùa thu năm ngoái, cũng như Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong, để nâng cao năng lực kinh tế tại các nước như Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Đưa những nước này tới gần hơn tiêu chuẩn được thiết lập bởi các nền kinh tế phát triển trong ASEAN như Singapore và Indonesia sẽ giúp ASEAN đi đúng hướng trong việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đạt được mục tiêu đó sẽ cho phép ASEAN duy trì tiếng nói tương đối gắn kết về các vấn đề khu vực cũng như tránh được những rạn nứt.<br />Khi Châu Á đảm đương vai trò động lực tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu, cùng việc thế giới phải đối mặt với những xung đột bất ổn đang gia tăng, không nơi nào tiềm ẩn nguy cơ nhiều như Biển Đông trong 10 năm tới. Với vai trò cường quốc lãnh đạo ở Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ phải đưa ra những lựa chọn khó khăn, cần phải thúc đẩy các nỗ lực chung cần thiết để duy trì hòa bình ở Biển Đông trong năm 2013 và những năm tiếp theo, đồng thời thiết lập các thể chế bền vững nhằm giải quyết các tranh chấp trong tương lai.<br />Tiến sĩ Patrick M. Cronin là Cố vấn và Giám đốc Cấp cao của Chương trình An ninh Châu Á Thái Bình Dương, Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS). Alexander Sullivan là sinh viên thực tập của Joseph S. Nye, Jr. tại Chương trình An ninh Châu Á Thái Bình Dương, CNAS. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang “The Diplomat”.</span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-42161626160243766342013-08-06T08:56:00.003-07:002013-08-06T08:56:27.618-07:00Chiến lược cùng tồn tại của Trung Quốc và ảnh hưởng đối với trật tự thế giới<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;"><b>Chiến lược cùng tồn tại của Trung Quốc và ảnh hưởng đối với trật tự thế giới</b></span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Hiện nay Trung Quốc không còn thụ động mà trở thành một nhân tố quan trọng trong việc xác định các lựa chọn chính sách đối ngoại và quốc phòng của các quốc gia trên thế giới.</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trung Quốc đang nắm giữ vị thế của một cường quốc toàn cầu về ý nghĩa chính trị. Để đạt được vị thế đó, B</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">ắc Kinh đã sử dụng chiến lược cùng tồn tại và chiến lược đó đã được tái khẳng định gần đây trong Sách Trắng Quốc phòng 2013 của Trung Quốc. Chiến lược của Trung Quốc nhằm thay đổi hoạt động quốc tế của các nước khác mà không cần thúc đẩy một trật tự thế giới hoàn toàn mới. Ngược lại, kiểu trật tự thế giới của Trung Quốc được thiết lập trên cơ sở hệ thống hiện có của Liên hợp quốc, đặc biệt các nguyên tắc chủ quyền tuyệt đối và không can thiệp. Đây là một trật tự dựa trên cơ sở lợi ích nhằm bảo vệ Trung Quốc chống lại can thiệp nước ngoài và duy trì hòa bình và ổn định quốc tế mà không cần bất cứ nghĩa vụ hợp tác rộng rãi nào. Bắc Kinh tìm cách gây ảnh hưởng đến tình hình nhiều hơn trực tiếp hành động. Chiến lược cùng tồn tại của Bắc Kinh không đòi hỏi khả năng kinh tế và quân sự ở các cấp độ như Mỹ đã thực hiện nhằm gây ảnh hưởng tới nước khác, bởi vì kiểu trật tự thế giới của Trung Quốc được coi là có lợi cho các nước khác mà không cần thúc đẩy một mô hình phối hợp hành động, trong đó Trung Quốc giữ vai trò trung tâm. Cùng tồn tại nhấn mạnh các đặc điểm phát triển của Trung Quốc hiện đang bị các cuộc tranh luận quốc tế bỏ qua hoặc bác bỏ. Các cuộc tranh luận quốc tế chủ yếu chú trọng đến khả năng kinh tế và quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc và đến mức độ nào đó các khả năng sẽ thúc đẩy Trung Quốc nâng cao sức mạnh trong hệ thống quốc tế ở cấp độ của một cường quốc. Ngoài ra, các mối quan hệ Mỹ-Trung và các so sánh là đặc điểm phổ biến trong các cuộc tranh luận quốc tế. Nhưng 3 đặc điểm liên quan đến sự phát triển và vị thế tương đối của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế đang có xu hướng bị bỏ qua gồm:<br />Thứ nhất, phát triển kinh tế và quân sự của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc đang nằm trong nhóm cường quốc thứ hai, kể cả các quốc gia như Nga, Ấn Độ và Brazil. Thứ hai, Trung Quốc còn lâu mới trở thành cường quốc kinh tế và quân sự ngang hàng với Mỹ. GDP của Trung Quốc mới chỉ bằng một phần ba GDP của Mỹ. Ngân sách quốc phòng của Mỹ lớn gấp 6 lần ngân sách quốc phòng của Trung Quốc. Thứ ba, mặc dù ở vị thế tương đối không thuận lợi, nhưng sức mạnh chính trị của Trung Quốc lớn hơn nhiều sức mạnh chính trị của Mỹ. Vị thế như một cường quốc chính trị của Trung Quốc làm tăng không gian cho hành động của các cường quốc bậc hai và cường quốc nhỏ. Các cường quốc này có ảnh hưởng đặc biệt vì Trung Quốc thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược với họ nhằm bổ sung hoặc thay thế hệ thống liên minh của Mỹ. Khi Washington và Bắc Kinh tranh giành sự ủng hộ của các cường quốc bậc hai và các cường quốc nhỏ, các nước này có thể liên kết với cả hai mà không nhất thiết phải lựa chọn bên nào. Sự tồn tại của một trật tự thế giới kiểu Trung Quốc bên cạnh trật tự thế giới tự do của phương Tây đã tạo ra một hệ thống quốc tế có hai trật tự thế giới khác nhau cùng tồn tại trên các lĩnh vực khác nhau và trong các khu vực tương tự. Loại hệ thống quốc tế này thiếu một bộ nguyên tắc xác định các hành xử quốc tế đúng và sai. Do đó các mối đe dọa an ninh được giải quyết bằng các khung quản lý xung đột đặc biệt thông qua tư cách thành viên và các nguyên tắc được xác định trên cơ sở thử nghiệm và mắc lỗi.<br /><br />Theo Hiến pháp Trung Quốc, cùng tồn tại hòa bình bao gồm tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không xâm lược, không can thiệp công việc nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi cũng như chung sống hoà bình nhằm phát triển quan hệ ngoại giao, trao đổi kinh tế và văn hóa với các nước khác. Những nguyên tắc này phù hợp với các quy tắc của hệ thống Liên hợp quốc trong Chiến tranh Lạnh, nhưng Bắc Kinh nhận thấy các nguyên tắc đó có lợi cho các lợi ích và quan điểm của Trung Quốc về thế giới sau Chiến tranh Lạnh. Thực tế cùng tồn tại kiểu Trung Quốc gồm 5 thông lệ liên quan đến các mối quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Thông lệ đầu tiên, chỉ can dự với các quốc gia khác trên cơ sở đồng thuận của tất cả các chính phủ liên quan. Thông lệ này ngược lại việc phương Tây ủng hộ sự chấp thuận can thiệp của Liên hợp quốc mà không cần sự đồng thuận của các chế độ trong trường hợp vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, từ đó đe dọa làm chệch hướng nền hòa bình và ổn định quốc tế. Thông lệ thứ hai, không khuyến khích sử dụng vũ lực nhằm quản lý xung đột trong hệ thống quốc tế. Thông lệ này hoàn toàn khác các nỗ lực của phương Tây nhằm cho phép Liên hợp quốc thông qua các biện pháp cấm vận và thiết lập hòa bình liên quan đến sử dụng sức mạnh sau khi xác định được mối đe dọa đối với nền hòa bình và ổn định quốc tế. Thông lệ thứ ba, khuyến khích các nước theo đuổi mô hình phát triển quốc gia mà họ cảm thấy phù hợp nhất dựa trên vấn đề lịch sử và hệ thống chính trị. Ngược lại, phương Tây thúc đẩy một chương trình kinh tế và chính trị tự do như một mô hình cho các mối quan hệ nhà nước-xã hội ở các nước khác. Thông lệ thứ tư, phản đối chỉ trích các chế độ, khuyến khích hợp tác với tất cả các nước như một biện pháp tốt nhất để thúc đẩy thịnh vượng cho tất cả. Ngược lại, phương Tây đòi hỏi các nước theo đuổi các tiêu chuẩn dân chủ và nhân quyền cơ bản nếu một quốc gia muốn hưởng lợi từ các cơ chế tự do kinh tế thương mại và viện trợ. Thông lệ thứ năm, khuyến khích đa dạng hóa quốc tế bằng cách chấp nhận các quốc gia hành động trên cơ sở nhận thức khác nhau về hành vi đúng và sai. Điều này trái ngược với niềm tin của phương Tây về tính phổ biến của các giá trị kinh tế và chính trị tự do toàn cầu.<br /><br />Một số ví dụ về thông lệ cùng tồn tại của Trung Quốc được thể hiện qua chính sách của Bắc Kinh trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trung Quốc bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu Nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, hoạt động theo quy định gìn giữ hòa bình của Chương VII, chấp thuận một vùng cấm bay ở Libya và cho phép áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ dân thường Libya. Việc bỏ phiếu trắng của Trung Quốc xuất phát từ mong muốn có một giải pháp hòa bình để quản lý xung đột và lo sợ không ngăn chặn được các biện pháp đã được chấp thuận bởi Liên minh châu Phi (AU), Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và Liên đoàn Arập (AL). Nhân dịp này, Trung Quốc khẳng định cam kết không sử dụng vũ lực và đồng thuận của chế độ. Ngoài ra, Bắc Kinh thể hiện mối quan ngại vì cho phép áp đặt các biện pháp đó tại Libya sẽ quyết định những gì phải làm chứ không phải hành động dựa trên quan điểm hành động đúng sai. Nhưng Bắc Kinh chỉ trích nhiều hơn khi hành động can thiệp phát triển thành nỗ lực lật đổ Chính phủ Libya. Đối với trường hợp Iran, Trung Quốc công nhận kết luận của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) rằng Iran đã làm giàu urani và tiến hành các hoạt động liên quan và có thể sử dụng plutoni mà không khai báo. Nhưng theo Bắc Kinh, Iran không có khả năng chế tạo các loại vũ khí hạt nhân và chương trình hạt nhân của Têhêran vẫn trong phạm vi của các cam kết thực hiện Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân của Iran. Trung Quốc cho rằng các nước khác công nhận Iran có quyền sử năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Bắc Kinh cũng tiếp tục hợp tác với Iran về năng lượng mặc dù chương trình hạt nhân của Iran nằm trong chương trình nghị sự của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hơn nữa, cách tiếp cận của Trung Quốc cho thấy việc Bắc Kinh ủng hộ các cuộc thảo luận đa phương để tháo gỡ các căng thẳng đã biến điều này thành kiểu chiến lược cùng tồn tại trong hành động.<br /><br />Đối với Syria, Bắc Kinh có ý định tách riêng các vấn đề của chế độ khỏi nhu cầu thiết lập nền hòa bình và an ninh. Trung Quốc phủ quyết nghị quyết của Hội đồng Bảo an đề nghị ủng hộ kế hoạch hòa bình của AL. Trung Quốc công nhận kế hoạch này như một biện pháp hữu ích sắp tới, nhưng đề nghị Tổng thống Bashar al-Assad bàn giao quyền lực cho Phó Tổng thống đã tạo tiền lệ không thể chấp nhận là bỏ qua sự đồng thuận của các nhà chức trách chính trị về việc làm sao để thiết lập nền hòa bình và an ninh trong nước. Trung Quốc ủng hộ các tuyên bố không bắt buộc của chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đối với Syria kêu gọi chấm dứt bạo lực để khôi phục các quyền dân sự và chính trị. Bằng cách ủng hộ những lời chỉ trích hành vi của Chính quyền Assad chống lại dân thường, Trung Quốc tìm cách chứng minh rằng họ không chấp nhận những vi phạm nhân quyền đang diễn ra ở Syria. Nhưng những hành động tàn bạo như vậy sẽ tồi tệ hơn trong thời gian dài nếu Hội đồng Bảo an không chấp nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ liên quan đến sự thay đổi chế độ. Thay vào đó, tính công bằng liên quan đến các chế độ cần tiếp tục xác định các giới hạn của việc can thiệp và các tuyên bố của Trung Quốc xung quanh việc phủ quyết của họ đối với cách tiếp cận này.<br /><br />Mô hình cùng tồn tại của Trung Quốc là một phiên bản dựa của trật tự thế giới dựa trên cơ sở lợi ích mà không có mô hình trong nước cho các mối quan hệ nhà nước-xã hội có thể so sánh được với cách mà trật tự quốc tế tự do do Mỹ lãnh đạo khuyến khích nền dân chủ đại diện. Khái niệm Nho giáo của “xã hội hài hòa” vẫn là một công cụ khoa trương mà không có khả năng áp dụng thực tế. Ý tưởng này không biến thành các cơ cấu chính trị cần thiết, chẳng hạn các cơ chế phản hồi từ xã hội đến chính phủ, hoặc thành các quá trình, như việc sử dụng rộng rãi các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu để tạo điều kiện cho thừa kế chính trị. Sự thiếu vắng một mô hình chính trị để bổ sung cho quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường của Trung Quốc có nghĩa là Chính phủ Trung Quốc dựa vào tăng trưởng kinh tế và cải thiện tiêu chuẩn sống để hợp pháp hóa chế độ. Thiếu hiểu biết mới về việc làm thế nào để hình thành các mối quan hệ nhà nước-xã hội cũng cho thấy Bắc Kinh dựa trên cơ chế phản hồi tùy tiện của việc phản đối và khiếu nại và trên cơ sở cưỡng chế để giải quyết sự bất mãn xã hội. Những thực tiễn như vậy sẽ làm tổn hại hình ảnh của Trung Quốc như là một cường quốc hòa bình. Tác động khác của mô hình đa nguyên trong trật tự thế giới của Trung Quốc là không ai biết tiêu chuẩn giá trị nào để đánh giá việc thực hiện của Trung Quốc. Do đó, mục tiêu trở thành một cường quốc triển vọng của Bắc Kinh vẫn chưa được biết ngoài những vấn đề như duy trì đoàn kết dân tộc và khôi phục đất nước Trung Hoa.<br /><br />Chủ đề dân tộc này gây nghi ngờ về cam kết trung thực của Bắc Kinh đối với chiến lược cùng tồn tại, bởi vì nó dẫn đến vi phạm các quyền tuyên bố chủ quyền và tự do đi lại của các quốc gia khác ở các khu vực như Biển Đông và biển Hoa Đông. Những vấn đề như vậy đã cản trở các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tập hợp một nhóm các đối tác trung thành có thể đe dọa hệ thống liên minh của Washington. Do Trung Quốc tỏ ra không phải một cường quốc hấp dẫn, hầu hết các quốc gia tiếp tục dựa vào đảm bảo an ninh của Mỹ và có thể sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai gần. Bất chấp những thành công hạn chế của chiến lược cùng tồn tại của Trung Quốc, chủ đề nổi bật là Trung Quốc có thể thúc đẩy cùng tồn tại như một cơ sở cho trật tự thế giới trên phạm vi toàn cầu và ở tất cả các khu vực trên thế giới. Cùng tồn tại đã phát triển thành một học thuyết chiến lược ổn định hiệu quả hơn để ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên chính trị quốc tế như một thay thế cho hội nhập tự do mà Mỹ đang theo đuổi. Cùng tồn tại cho phép nhiều chế độ phối hợp lợi ích quốc gia mà không đe dọa nền hòa bình và ổn định quốc tế. Điều này tỏ ra rất hiệu quả trong việc cho phép Trung Quốc tiếp tục tập trung phát triển xã hội, kinh tế và quân sự trong nước để đảm bảo phát triển lên vị thế cường quốc toàn diện. Sách Trắng Quốc phòng 2013 của Trung Quốc coi vấn đề cùng tồn tại hòa bình như một công cụ trung tâm trong việc theo đuổi các lợi ích an ninh chủ yếu của Trung Quốc. Trung Quốc liên tục khẳng định mạnh mẽ rằng sẽ tiếp tục dựa vào cùng tồn tại như một chiến lược chủ yếu để thúc đẩy lợi ích của nước này trong tương lai.<br /><br />Theo một quan điểm của phương Tây, kiểu trật tự thế giới của Bắc Kinh sẽ tạo nên một số thách thức cho hoạt động của nhà nước. Mạng lưới các mối quan hệ kinh tế và chính trị chiến lược trên tất cả các khu vực quốc tế của Trung Quốc khẳng định sự nổi lên của chiến lược cùng tồn tại của nước này nhằm thay thế hệ thống liên minh của Mỹ ở tất cả các khu vực. Các cường quốc hạng hai và các cường quốc nhỏ thường hoan nghênh sự đổi mới này nhằm thay thế ảnh hưởng của phương Tây. Điều đó cho phép các nước này ủng hộ một cường quốc trên một số lĩnh vực, khuyến khích sự phát triển liên tục của cả hai trật tự không có đường phân chia địa lý rõ ràng hoặc phạm vi ảnh hưởng khu vực. Phát triển này thách thức các nỗ lực của phương Tây trong việc yêu cầu cải cách chính trị theo hướng tự do để đổi lấy hợp tác chiến lược kinh tế và chính trị. Thách thức này khuyến khích Washington và các nước đồng minh tập trung khôi phục các khả năng và quan hệ đối tác kinh tế và tài chính của họ để phù hợp với thực tế khi ảnh hưởng của Trung Quốc được dựa trên cơ sở kết hợp thành công mô hình cải cách kinh tế thị trường trong nước với một hệ thống chính trị độc tài. Hơn nữa, việc Trung Quốc sẵn sàng can dự với các nước đang phát triển bị Mỹ và phương Tây bỏ rơi lâu nay đã khích lệ Mỹ và các nước đồng minh xem xét lại phương pháp và khả năng can dự ở nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị đầy tham vọng, chẳng hạn như xây dựng quốc gia.<br /><br />Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG / JAMESTOWN FOUNDATION</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-601667284965001592013-08-06T08:54:00.003-07:002013-08-06T08:54:34.285-07:004 phương án lựa chọn của ASEAN trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc<b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">4 phương án lựa chọn của ASEAN trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc</span></b><div>
<b><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;" /></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái cân bằng chiến lược của Mỹ đang tạo ra những thách thức đối với ASEAN, và tổ chức này có thể phản ứng theo 4 cách.</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Bài viết của Heng Sari</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">th, Viện Nghiên cứu Hợp tác và Hoà bình, Campuchia.<br />Sau năm Chủ tịch ASEAN 2012 đầy khó khăn của Campuchia, khi lần đầu tiên trong 45 năm qua, ASEAN không thể ra một tuyên bố chung, thì Brunei, Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2013, lại dễ dàng ra được một tuyên bố chung tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 46 (AMM-46).<br /><br />Bất chấp thực tế rằng ASEAN vẫn đang phải đối mặt với những thách thứa nghiêm trọng như tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, xung đột về tỉnh Sabah (Malaysia), bạo lực sắc tộc và tôn giáo tại Myanmar, ô nhiễm khói bụi ảnh hưởng đến Singapore, Malaysia và Inđônêxia.<br /><br />Dường như ASEAN đang có một tiêu chuẩn kép giữa các thành viên. Lý do khiến ASEAN lựa chọn im ắng kể từ đầu năm 2013 đến nay là họ đã rút ra được một bài học từ việc không ra được tuyên bố chung tại AMM-45. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái cân bằng chiến lược của Mỹ đang tạo ra những thách thức đối với ASEAN, và tổ chức này có thể phản ứng theo 4 cách sau đây.<br /><br />Thứ nhất, ASEAN có thể sử dụng cán cân quyền lực và trở thành một đối tượng của cạnh tranh quyền lực. Năm 2011, Mỹ tuyên bố việc chuyển hướng ưu tiên sang châu Á và bắt đầu tái triển khai phần lớn lực lượng hải quân của họ tại Thái Bình Dương. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng với Trung Quốc. Một số quốc gia ASEAN, nhất là Myanmar và Việt Nam, đang tích cực can dự vào việc cân bằng chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Các nước này đang tìm cách thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế và chiến lược với Mỹ như một phương án phòng thủ để chống lại nguy cơ từ Trung Quốc. Nhưng việc xích gần Mỹ đang bị xem là có hại cho sự thống nhất và trung lập của ASEAN. Ván bài cân bằng quyền lực sẽ có những hậu quả tiêu cực, như sự rạn nứt trong đoàn kết của ASEAN. Lâu nay, ASEAN vẫn được coi là trung lập và không bị chi phối bởi một cường quốc lớn. Sự trung lập được coi là một thành công chiến lược của ASEAN kể từ khi thành lập.<br /><br />Thứ hai, những người hoài nghi chủ nghĩa khu vực Đông Á sợ rằng cuối cùng Trung Quốc sẽ chi phối Đông Á thông qua "cộng đồng Đông Á" do Trung Quốc đứng đầu, mặc dù ban đầu Nhật Bản đề xuất sáng kiến này. ASEAN đang công nhận rằng ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) là cơ cấu chính để xây dựng một cộng đồng Đông Á. Trong bối cảnh này, các nước ASEAN có thể xích gần Trung Quốc hơn bằng sự hợp nhất kinh tế khu vực và các dự án cơ sở hạ tầng khu vực lớn như tuyến đường sắt Singapore-Côn Minh, các gói cựu trợ song phương, các cấu trúc khung Hiệp định tự do thương mại (FTA) và hiệp định Quan hệ đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP). Một FTA ASEAN-Trung Quốc có thể mang lại những mối lợi kinh tế lớn cho ASEAN nhờ sự tăng trưởng kinh tế mạnh và thị trường tiêu dùng trung lưu lớn. Do Mỹ sẽ không tham gia vào các thể chế này, nên hầu hết các nhà phân tích đều tin rằng ASEAN có thể nằm dưới sự bá chủ của Trung Quốc tại Đông Á.<br /><br />Thứ ba, Mỹ sẽ mở rộng chiếc ô an ninh và lãnh đạo kinh tế khu vực về kinh tế thông qua các diễn đàn đa phương. Theo kịch bản này, các nước ASEAN sẽ tham gia các diễn đàn đa phương do Mỹ lãnh đạo như các sáng kiến Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Can dự kinh tế mở rộng (E3) để đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu và tăng cường luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Mỹ vào khu vực. Do Mỹ cần sự cân bằng chiến lược với Trung Quốc, ASEAN có thể được lợi hơn từ các sáng kiến này. Các nước ASEAN cũng cần các quan hệ chiến lược gần gũi hơn với Mỹ để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc, nhất là trong tranh chấp tại Biển Đông. ASEAN có thể sử dụng một liên minh quân sự với Mỹ như một lá chắn kinh tế và quân sự chống lại các nguy cơ từ Trung Quốc. Trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang tại Biển Đông, Mỹ được hy vọng sẽ giúp các nước ASEAN, bất kể trong hoàn cảnh nào.<br /><br />Thứ tư, ASEAN có thể bảo vệ sự trung lập của mình để tự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. ASEAN biết rằng việc quá thân thiết với Mỹ hay Trung Quốc đều có hại cho sự thống nhất của họ. ASEAN có thể duy trì sự trung lập bằng việc sự dụng phương thức tư vấn và đồng thuận để lắng nghe ý kiến và nhu cầu của các thành viên. Nỗi sợ bị các cường quốc chi phối có thể khiến ASEAN tự củng cố, duy trì sự thống nhất, bảo vệ nguyên tắc đồng thuận và can dự cẩn thận hơn với các cường quốc khu vực. Với tài sản vô giá là sự trung lập, ASEAN có thể tính tới những lợi ích và ưu tiên của tất cả các bên.</span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-71450532813800681252013-08-06T08:53:00.000-07:002013-08-06T08:53:03.995-07:00Bản sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam<b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Bản sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam</span></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, n</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">ó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).<br />Thực đúng như vậy, nghiên cứu quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc ta, có thể có đầy đủ cơ sở để đi tới một nhận định có tính khái quát: Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam được bộc lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ ở lĩnh vực nào. Yêu nước đã trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam, là đạo lý của dân tộc Việt Nam, một truyền thông sâu bền, cao đẹp, không còn dừng lại ở trình độ một nhận thức, một tình cảm, mà đã trở thành một chủ nghĩa, một lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ mọi người dân sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc khi có nguy cơ xâm lược từ ngoài tới, hay kiên trì góp hết tinh thần và sức lực vào sự nghiệp dựng nước.<br />Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam tuyệt nhiên không phải là một cái gì trừu tượng, mà là một sản phẩm đích thực của chính lịch sử Việt Nam, nó bắt nguồn từ những điều kiện cụ thể của Việt Nam, về hoàn cảnh địa lý, về khí hậu, về đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội, về lịch sử. Cũng cần phải thấy yêu nước là một tình cảm và tư tưởng phổ biến mà dân tộc nào cũng có. Duy chỉ khác nhau là ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì tư tưởng và tình cảm yêu nước bị hình thành và phát triển trong những điều kiện không giống nhau, sớm muộn, đậm nhạt khác nhau mà thôi.<br /><br />Liên hệ với nước Việt Nam chúng ta, về hoàn cảnh địa lý, nước ta ở vào một vị trí vô cùng quan trọng trên báo đảo Đông Dương, vào nơi tiếp xúc, ngã tư đường của vùng Đông Nam Á cả về tự nhiên và văn hóa, ở góc cực đông nam của đại lục châu Á, mặt nhìn ra biển Đông nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Là bao lơn của Thái Bình Dương, trên một chiều dài 3.300km, Việt Nam tuy được nối liền với lục địa bằng một mạng lưới đường giao thông thủy bộ thuận lợi, từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, nhưng cũng tạo thành những hành lang thuận lợi cho việc thực hiện tham vọng bành trướng của các thế lực đen tối từ ngoài tới.<br /><br />Về mặt khí hậu, Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, phù hợp với nghề trồng lúa nước, nhưng thường xuyên phải chống chọi hàng năm với lũ lụt, bão tố, hạn hán… Cũng là một vùng đất thống nhất trong đa dạng trên rừng, dưới biển, nằm sâu dưới đất đều chứa đựng nhiều tài nguyên phong phú và quý giá (ngọc trai, ngà voi, sừng tê, khoáng sản…) nên từ rất sớm đã phải đương đầu với các kẻ thù đầy tham vọng từ các nơi tới.<br /><br />Rõ ràng trong bối cảnh đó, nhân dân Việt Nam từ rất sớm đã phải đứng trong vị thế vừa dựng nước vừa giữ nước. Lịch sử Việt Nam bắt đầu bằng một sự kiện có ý nghĩa vô cùng trọng đại là sự ra đời rất sớm của Nhà nước Văn Lang trên cơ sở hợp nhất tự nguyện của người Việt cổ (Lạc Việt và Âu Việt): “Vua Hùng đã có công dựng nước”, và nước Việt ngay từ lúc mới ra đời đã là một quốc gia có cương vực ổn định với một nền văn hóa rực rỡ, với sản phẩm trống đồng. Có thể khẳng định rằng sự xuất hiện sớm của Nhà nước Văn Lang đã tạo điều kiện rất cơ bản cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hình thành sớm.<br /><br />Nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam là nước Âu Lạc (thống nhất giữa Tây Âu và Lạc Việt) với người thủ lĩnh kiệt hiệt là Thục Phán để chống lại sự xâm lược của nhà Tần từ phương Bắc tràn xuống, với sự kiện này đã nói rõ một đặc điểm của lịch sử Việt Nam: bắt đầu dựng nước cũng là bắt đầu giữ nước! Tư thế chung của dân tộc ta trong lịch sử là phải luôn luôn vừa lao động xây dựng đất nước , vừa chiến đấu bảo vệ đất nước dựng nước đi đôi với giữ nước là một đặc điểm bao trùm, một quy luật cơ bản của lịch sử Việt Nam.<br /><br />Đến cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, vào cuối thời Văn Lang (và các vua Hùng) sang đầu thời Âu Lạc (và vua Thục) dân tộc Việt Nam đã đi vào chính sử. Và công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã được thực hiện quyết liệt và có kết quả. Vào cuối đời vua Hùng (thế kỷ 3 trước Công nguyên) đế chế Tần (Tần Thủy Hoàng) với âm mưu bành trướng xuống phía Nam đã cử 50 vạn quân xuống phía Nam để bình Bách Việt. Nhưng chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của người Việt (cư dân Văn Lang – Âu Lạc) do Thục Phán đứng đầu đánh bại sau một cuộc kháng chiến kéo dài đến 6-7 năm trong những điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ bề (từ 214 trước CN – 209 trước CN). Thục Phán là một thủ lĩnh người Âu Lạc đã cùng các thủ lĩnh người Văn Lang và quân dân Việt tổ chức cuộc chiến đấu, bãi chiến trường là miền rừng núi Việt Bắc và miền trung du miền Đông Bắc ngày nay. Cuối cùng nhà Tần đã phải ra lệnh bãi binh, rút hết quân ra khỏi phạm vi đất nước người Việt, cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ đầu tiên của tổ tiên ta đã giành được toàn thắng. Nước Âu Lạc là cao điểm cuối cùng của kỷ nguyên bắt đầu dựng nước và giữ nước. Sau chiến thắng oanh liệt đó, (đặc biệt là qua việc đoàn kết chiến đấu), tinh thần cố kết dân tộc trong nội bộ cộng đồng người Việt càng được củng cố và tăng cường.<br /><br />Sau chiến thắng quân Tần (khoảng 208 trước CN) nhân uy tín sẵn có Thục Phán đã xưng là An Dương Vương đổi quốc hiệu là Âu Lạc, phản ánh sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa hai thành phần Việt tộc (Âu và Lạc) trong một chỉnh thể quốc gia, một kết cấu chính trị – xã hội cao hơn. Âu Lạc là một thể thống nhất Việt tộc có ý nghĩa là vừa thống nhất Dân tộc, vừa thống nhất Quốc gia) cao hơn Văn Lang. Thục Phán (An Dương Vương) quyết định dời đô từ Việt Trì (Phú Thọ) về ngã ba sông Đuống – sông Hồng là vùng đất Cổ Loa (huyện Đông Anh) xây thành, đánh dấu sự phát đạt của nền kinh tế vùng đồng bằng (cả về mật độ dân số, về trình độ nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sự thành lập nước Âu Lạc là bước phát triển kế tục nước Văn Lang với hai thành tựu nổi bật về kỹ thuật quốc phòng (đắp thành Cổ Loa và cải tiến nỏ và tên nỏ)đáp ứng một nhu cầu bức xức chống ngoại xâm từ phía Bắc tới. Thời đại Văn Lang và Âu Lạc là thời đại văn minh Sông Hồng, thời đại các Vua Hùng và Vua Thục, một thời đại vô cùng quan trọng của lịch sử Việt Nam. Đó là thời kỳ hình thành dân tộc với nền tảng là một đời sống kinh tế chung cho toàn quốc, là thời kỳ hình thành Nhà nước đầu tiên. Đó cũng là thời đại hình thành một nền văn hóa dân tộc với một bản sắc độc đáo phi Hoa, phi Ấn với một phong cách Đông Sơn rất đặc trưng, rất điển hình và có ảnh hưởng lớn đến toàn vùng Đông Nam Á. Cộng đồng dân tộc Việt xây dựng từ đó một lối sống riêng, có một bản lĩnh vững vàng, và trên nền tảng đó đã xây dựng được một xã hội, một lối sống Việt Nam, một truyền thống Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ hình thành ý thức dân tộc được tổng hợp từ những tình cảm gia đình, họ hàng, quan hệ đồng bào, tình làng nghĩa nước… để trở thành một lòng yêu nước Việt Nam bất khả chiến bại, một ý thức về quyền sở hữu chung của dân tộc, về địa bàn đất đai, đất nước, lãnh thổ để trên nền tảng đó ý thức hệ của công cuộc giữ nước bắt đầu. Đó là kỷ nguyên bắt đầu dựng nước của dân tộc Việt Nam, mở đầu truyền thống dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc, từ đó được nâng lên trình độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.<br /><br />Nhưng vào năm 183 trước CN, Triệu Đà lợi dụng tình hình phương Bắc rối loạn để xưng đế, lập nước Nam Việt, rồi đưa quân xuống phía Nam chiếm nước Âu Lạc, mở đầu một thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm, là một thời kỳ thử thách lớn lao đối với sức sống của dân tộc với âm mưu đồng hóa toàn diện và triệt để của kẻ thù. Nhưng dân tộc Việt Nam đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quyết giành lại Độc lập dân tộc. Các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh Hán, Triệu Thị Trinh chống Ngô, Lý Bí chống Lương dựng nên nước Vạn Xuân, Triệu Quang Phục đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, nhưng đến đầu năm 603 sau CN lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Bất chấp tình hình bất lợi, phong trào khởi nghĩa vẫn bùng nổ liên tục, trên khắp mọi miền đất nước. Đến đầu thế kỷ 10 (905), Khúc Thừa Dụ đánh thắng quân phong kiến nước ngoài, xây dựng một chính quyền tự chủ. Năm 930, nhà Nam Hán sang xâm chiếm, Dương Đình Nghệ lại đánh bại chúng giành lại quyền tự chủ. Đến cuối năm 938 Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc oanh liệt thời kỳ mất nước kéo dài hơn 1.000 năm. Một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc bắt đầu. Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa, đánh dấu một bước phát triển mới của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.<br /><br />Sau khi Ngô Quyền mất, chính quyền trung ương bị tan rã, các thế lực phong kiến chia nhau hùng cứ các phương và tranh giành nhau quyết liệt, tạo nên thế 12 sứ quân cát cứ các địa phương. Yêu cầu cấp thiết của lịch sử lúc đó là phải khôi phục sự thống nhất của nước nhà. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (năm 968), đóng đô ở Hoa Lư, lập quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Từ đó, trải qua các triều Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, suốt trong năm thế kỷ (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15), quốc gia thống nhất ngày càng được củng cố, công cuộc xây dựng đất nước được tiến hành trên quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của Nhà nước phong kiến độc lập, việc dựng nước gắn liền với giữ nước. Nhưng cũng trong năm thế kỷ đó, không có thế kỷ nào dân tộc ta không phải chống ngoại xâm, thế kỷ 13 phải tới ba lần chống Nguyên – Mông. Đến thế kỷ 15, nhà Trần đổ nát và bị nhà Hồ thay thế. Nhưng cuộc kháng chiến do Hồ Quý Ly đứng đầu đã nhanh chóng thất bại vì không phát huy được sức mạnh vĩ đại của dân tộc để chống giặc giữ nước. Phong trào yêu nước dâng lên mạnh mẽ, lôi cuốn mọi tầng lớp, mọi thành phần, phát triển rộng khắp dần quy tụ vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu.<br /><br />Sau 10 năm chiến đấu (1418-1428), với thắng lợi của cuộc kháng chiến, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững, âm mưu xâm lược của kẻ thù bị đánh bại hoàn toàn. Tình hình đó tạo ra những điều kiện rất thuận lợi để củng cố và xây dựng đất nước. Nhưng đến thế kỷ 16, nhân triều Lê suy yếu, các phe phái phong kiến (Mạc, Trịnh, rồi Trịnh – Nguyễn) xung đột nhau. Đất nước bị chia cắt trên 200 năm. Trong sự phát triển như vũ bão của nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, dân tộc ta đã đánh thắng cả thù trong và giặc ngoài (1789). Sau chiến thắng, Vua Quang Trung cương quyết tiến hành xây dựng đất nước. Công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế của Quang Trung đang mang lại những kết quả bước đầu đầy hứa hẹn thì ông đã bị bạo bệnh và mất đột ngột để tới năm 1802 chế độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn lại được thiết lập trên cả nước.<br /><br />Thời kỳ này chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng suy vong. Phong trào nông dân khởi nghĩa tiếp tục lan tràn, chỉ trong vòng nửa thế kỷ đầu của triều Nguyễn đã có tới trên 300 cuộc khởi nghĩa nông dân lớn và nhỏ. Tới giữa thế kỷ 19, vận mạng dân tộc ta đứng trước một thử thách mới vô cùng nghiêm trọng là sự xâm lăng của tư bản Pháp. Lịch sử Việt Nam cũng chuyển sang một trang mới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển theo những khuynh hướng mới. Chính Đảng vô sản ra đời (ngày 3-2-1930) tạo nên một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Từ đây Cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo của thời đại. Chủ nghĩa yêu nước lúc này là chủ nghĩa yêu nước của nhân dân, không bị hạn chế, biến chất bởi chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh tư sản, phong kiến. Chính trong thời kỳ Đảng lãnh đạo, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam càng có những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển. Yêu nước ngày nay là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính, là đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng để xây dựng Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên tinh thần hòa bình, hữu nghị và hội nhập, cùng nhau phát triển.<br /><br />Để kết luận, có thể khẳng định chủ nghĩa yêu nước là động lực, là chìa khóa của lịch sử Việt Nam, đoàn kết yêu nước là sức mạnh vô địch của dân tộc. Về vấn đề này, có thể vận dụng bài học của Bác Hồ về yêu cầu khai thác, phát triển lòng yêu nước, cũng được trình bày trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951):<br /><br />“Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.<br />GS. ĐINH XUÂN LÂM (ĐẠI ĐOÀN KẾT)</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-17480625780361934412013-08-06T08:52:00.002-07:002013-08-06T08:52:22.535-07:00Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-89408260411458670922013-07-31T01:47:00.001-07:002013-07-31T01:47:04.040-07:00Kissinger - Những biên bản hội đàm tuyệt mật chưa công bố, phần 1<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; line-height: 20px;"><b>Kissinger-Những biên bản hội đàm tuyệt mật chưa công bố</b></span><br style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; line-height: 20px; margin-top: 0px;" /><span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;">Tác giả: William Bel</span><br style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;" /><span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;">Người dịch: Nguyễn Văn Giang - Nguyễn Xuân Bích</span><br style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;" /><span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;">Nhà xuất bản: Thanh niên</span><br style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;" /><span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;">Năm xuất bản: 2002</span><br />
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: right;">
<div style="text-align: justify;">
Theo cuốn "KÍT-SINH-GƠ BÍ LỤC". </div>
<div style="text-align: justify;">
Xuất bản bằng tiếng Hán </div>
<div style="text-align: justify;">
Do Nhà xuất bản Viễn Phương Trung Quốc xuất bản </div>
<div style="text-align: justify;">
Tháng 4 năm 1999</div>
</div>
<div style="text-align: justify;">
<br style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;" /></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<b>LỜI NÓI ĐẦU</b></div>
<br />
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Kít-sinh-gơ (Những biên bản hội đàm tuyệt mật chưa công bố) do Nguyễn Văn Giang và Nguyễn Xuân Bích biên dịch, theo cuốn “Kít-sinh-gơ bí lục" bằng tiếng Hán do Nhà xuất bản Viễn Phương Trung Quốc xuất bản tháng 4 năm 1999, là cuốn sách công bố những ghi chép (Biên bản hội đàm) của Kít-sinh-gơ, lúc đó là một nhân vật ngoại giao nổi tiếng thế giới với chức năng là Cố vấn An ninh quốc gia của Tổng thống, Quốc vụ khanh và Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ. </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Qua tác phẩm, bạn đọc sẽ hiểu biết hơn không nhũng tư liệu về các vấn đề trong tiến trình hội đàm giữa những người lãnh đạo cao cấp Trung Quốc, Liên Xô với Mỹ, mà còn thấy được động thái, tinh thần của từng thành viên trong các cuộc hội đàm, để thấy rằng các cuộc hội đàm về các vấn đề có liên quan đến sự ổn định thế giới, sự cân bằng lực lượng và cân bằng giữa các bên là cực kỳ khó khăn và gian truân để đi đến thoả thuận.</div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Trong bối cảnh thế giới biến động và thay đổi hiện nay, những tư liệu này là hết sức có ý nghĩa, vì vậy chúng tôi xin giới thiệu cuốn sách này trong hệ thống sách tham khảo của Nhà xuất bản Thanh Niên. </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Vì lần đầu xuất bản và điều kiện có hạn nên chúng tôi đã lược bớt một số đoạn so với nguyên bản và chắc cũng khó tránh khỏi sai sót, nên chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn và giới thiệu cùng bạn đọc. </div>
</span><br />
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<b>Nhà xuất bản Thanh Niên</b></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<b>LỜI GIỚI THIỆU</b></div>
<div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên, với nội dung là một phần biên bản hội đàm của Hăng-ri Kít-sinh-gơ với các nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc và Liên Xô. Một phần biên bản này đã công bố. Kít-sinh-gơ lúc đó là trợ lý đặc biệt của Tổng thống Mỹ về An ninh quốc gia, và là Bộ trưởng Ngoại giao thời Ních-xơn và G.Pho, cho đến nay nhiều nội dung trong hội đàm còn được giữ bí mật, nhưng những biên bản chi tiết được công bố về các cuộc nói chuyện sẽ giúp độc giả nắm được một số tài liệu, hiểu thêm về một phần trong những sự kiện quan trọng trong lịch sử thế giới hiện đại-các cuộc đối thoại; và ảnh hưởng của chúng giữa Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brê-giơ-nhép, Ngoại trưởng Liên Xô Grô-mư-cô với Kít-sinh-gơ, người xây dựng chính sách ngoại giao được lịch sử Mỹ hiện đại đề cao tán dương cũng như chỉ trích. </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Biên bản các cuộc đối thoại này cho đến nay vẫn được dư luận quan tâm, nó cho thấy sự ảnh hưởng của một số nhân vật lịch sử đối với chính sách và hoạt động ngoại giao trong thời kỳ lịch sử chiến tranh lạnh. Lúc đó, chính quyền Ních-xơn đang tìm cách làm dịu mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ với Liên Xô, một đối thủ hùng mạnh và xây dựng quan hệ ngoại giao với kẻ thù trước đây, nước cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Tổng thống Ních-xơn, rồi Tổng thống kế nhiệm G.Pho và nhà ngoại giao Kít-sinh-gơ đều theo đuổi một chính sách thân thiện đối với Trung Quốc và Liên Xô, nhằm một mặt giảm đến mức tối đa nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân do các cuộc xung đột trực tiếp trong tương lai gây nên, mặt khác xây dựng mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc và Liên Xô trong bối cảnh hai nước này đang đối địch nhau, nhằm gây ảnh hưởng bao trùm lên cả Bắc Kinh và Mát-xcơ-va, hòng duy trì được vai trò lãnh đạo của Mỹ trong quan hệ quốc tế. Do vậy, "Ngoại giao tam giác" nhằm phát triển quan hệ và lợi ích giữa Oa-sinh-tơn với Bắc Kinh và Mát-xcơ-va đã trở thành cốt lõi của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ thời Ních-xơn và G.Pho. </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Nội dung các cuộc nói chuyện đề cập trong cuốn sách này cho thấy Kít-sinh-gơ đã cố gắng như thế nào trong việc thực thi chính sách này, ít có một nhà ngoại giao nào lại nổi danh thế giới nhưng cũng lắm điều bê bối như Kít-sinh-gơ. Khi là trợ lý đặc biệt về An ninh quốc gia của Ních-xơn, Kít-sinh-gơ là nhân vật thường xuất hiện trên tờ "Thời đại" và tờ "Tuần tin tức". Trong một số buổi dạ hội, Kít-sinh-gơ hay xuất hiện bên cạnh minh tinh màn bạc. Với biệt tài: Biết cách lấy lòng người, ông ta đã giành được sự quan tâm và ủng hộ của giới truyền thông, bằng cách tiết lộ cho giới báo chí một vài thông tin hoặc chỉ thị có chọn lọc với danh nghĩa "quan chức cao cấp của Chính phủ”. </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<span style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><div style="text-align: justify;">
Kít-sinh-gơ nhận thấy mình nổi tiếng khắp nơi, rất có lợi cho việc củng cố uy tín của mình. Thích thú với việc nình trở thành trung tâm của công luận, nhưng Kít-sinh-gơ không muốn trở thành đối tượng bị bình luận phê phán về công việc của người xây dựng chính sách và Cố vấn Tổng thống. Cho đến nay rất ít người biết được quan điểm cá nhân của Kít-sinh-gơ đối với những quyết sách và các cuộc đàm phán, trong đó Chính phủ Mỹ và Kít-sinh-gơ đóng vai trò quan trọng, cũng như mối liên hệ giữa ông ta với lãnh đạo các nước. Kít-sinh-gơ muốn như vậy? </div>
</span><div style="text-align: justify;">
<span style="color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px;"><br /></span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
Giữ bí mật nghiêm ngặt là một trong những thủ đoạn quan trọng của Kít-sinh-gơ để kiểm soát chính sách và sách lược ngoại giao. Giữ bí mật quốc gia là truyền thống của chính quyền Oa-sinh-tơn từ sau thế chiến thứ hai đến nay, đã được Kít-sinh-gơ phát huy đến mức tối đa. Các văn kiện cơ mật không kể đó là loại thông tin "kênh ngầm" hay biên bản của Tổng thống hội đàm với lãnh đạo nước ngoài, Kít-sinh-gơ đều kiểm soát chặt chẽ từ khâu lưu trữ đến bảo quản. Ông ta tin rằng, kiểm soát chặt chẽ những thông tin then chốt và nhạy cảm là rất cần thiết để góp phần làm cho sách lược ngoại giao giành thắng lợi bất ngờ, đồng thời còn làm cho đối thủ đàm phán không nhận ra được những bản tuyên bố mang tính bịp bợm, đảm bảo cho Nhà Trắng kiểm soát được chính sách và giành thắng lợi trong ngoại giao. Kít-sinh-gơ hay nổi cáu khi bất kỳ bí mật nào của Chính phủ bị lộ cho báo chí. Để tìm ra và trừng phạt kẻ để lộ bí mật, ông ta không ngần ngại lén nghe điện thoại của quan chức cấp dưới với phóng viên báo chí.</div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<br /></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Trong thực tế, để giảm tối đa sự rò rỉ bí mật và đảm bảo sự kiểm soát của Nhà Trắng về chính sách, các viên chức của Kít-sinh-gơ phải định kỳ chuẩn bị trước những biên bản hội đàm chính thức đã được xử lý để phát cho các cơ quan hữu quan. Trước khi trở thành Ngoại trưởng, Kít-sinh-gơ cấm không cho các chuyên gia Bộ Ngoại giao biết tiếng Trung và tiếng Nga tham dự các cuộc Hội nghị cấp cao giữa Mỹ với Trung Quốc và Liên Xô. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Vì vậy, đầu những năm 1970, trong các cuộc gặp giữa Ních-xơn và Kít-sinh-gơ với Mao Trạch Đông và Brê-giơ-nhép đều không thể không sử dụng phiên dịch Trung Quốc hoặc Liên Xô, và không thể kiểm tra được mức độ dịch chính xác trong các tuyên bố chính trị của Chính phủ Mỹ nên cả hai bên đều không hiểu mình đã rõ sự khác biệt các chi tiết hay chưa? Rõ ràng, Kít-sinh-gơ đành chấp nhận sự khó khăn và bất tiện đó để không cho đối thủ chính trị nắm được bí mật của cuộc hội đàm. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong 6 năm làm việc ở Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao, Kít-sinh-gơ đã rất thành công trong việc giữ bí mật quốc gia. Nhưng văn kiện về cuộc khủng hoảng Nam Á bị tiết lộ và sự kiện bê bối về việc ông ta nghe trộm điện thoại của trợ lý Hội đồng An ninh quốc gia bị phanh phui lại là một ngoại lệ lớn </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Sau khi G.Pho thất bại trong cuộc tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ 2, Kít-sinh-gơ quyết định siết chặt kiểm soát các văn kiện, nhằm bảo vệ cho tiếng tăm khi phải rời khỏi Chính phủ này. Vì vậy, tháng 1/1977 rời khỏi Bộ Ngoại giao, ông ta đã chuyển phần văn kiện trong khối lượng lớn văn kiện lưu giữ tại Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao sang Thư viện Quốc hội. Với hành động trên, Kít-sinh-gơ có thể tiếp tục sử dụng văn kiện đó để viết hồi ký. Nhưng cho đến nay công chúng vẫn chưa được tiếp cận hết với loại văn kiện trên. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy trong thời gian tại chức, Kít-sinh-gơ thường xuyên tranh cãi với Quốc hội, nhưng Luật Tự do thông tin (FOIA) đã bảo vệ ông về mặt hiến pháp sau khi ông ta từ chức, bởi ông ta biết cách lách qua kẽ hở của pháp luật. Luật FOIA nhằm bảo vệ các văn kiện cơ quan Nhà nước, còn Kít-sinh-gơ lại quyết định lưu giữ văn kiện của mình ở Thư viện Quốc hội. Do vậy một số lượng lớn văn kiện bí mật, bao gồm biên bản quan trọng trao đổi bằng điện thoại trong thời gian Kít-sinh-gơ làm Ngoại trưởng và Cố vấn An ninh Nhà Trắng đều nằm trong tay ông ta, đồng thời tách biệt với những nhà nghiên cứu lịch sử, phóng viên và đông đảo công chúng muốn tìm hiểu, khám phá. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Dù rằng, các biên bản của Chính phủ phản ánh chính sách ngoại giao toàn diện nhất của Ních-xơn và G.Pho nằm trong tay cá nhân Kít-sinh-gơ, đã dựng nên bức tường ngăn cách đối với những người nghiên cứu, nhưng quan chức của Chính phủ và Cục lưu trữ hồ sơ vẫn nắm được một số tư liệu gốc của Kít-sinh-gơ có liên quan tới chính sách ngoại giao của Ních-xơn và G.Pho. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ví dụ: Cục lưu trữ hồ sơ có lưu giữ văn kiện về An ninh quốc gia của chính quyền Ních-xơn, trong đó có cả văn kiện làm việc của Kít-sinh-gơ. Rõ ràng, những văn kiện đó chính là bản sao một phần văn kiện của Kít-sinh-gơ lưu trữ trong thư viện Quốc hội. Hiện nay, Cục lưu trữ hồ sơ đang lần giở lại từng trang văn kiện của Ních-xơn về An ninh quốc gia. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cuối cùng, cùng với việc hàng loạt bí mật được công khai, tất cả biên bản có liên quan sẽ được công bố, bao gồm tóm tắt báo cáo hàng ngày của Kít-sinh-gơ với Ních-xơn, biên bản hội đàm của Kít-sinh-gơ, Ních-xơn với lãnh đạo cấp cao các nước, cùng những tư liệu "kênh ngầm" của họ. Những trợ lý thân cận của Kít-sinh-gơ hồi đó cũng có trong tay biên bản Hội đàm của Kít-sinh-gơ với lãnh đạo cấp cao các nước, là những văn kiện tương tự mà Cục lưu trữ hồ sơ Quốc gia và Bộ Ngoại giao chuẩn bị đưa ra công khai, như vậy có khả năng một số văn kiện quan trọng sớm được công bố.</span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Uyn-tơn Lốt là một trong những trợ lý của Kít-sinh-gơ làm Đại sứ Mỹ ở Trung Quốc trong thời kỳ Tổng thống Bút-sơ cầm quyền, là trợ lý về công việc Đông Á và Thái Bình dương thời kỳ Kít-sinh-gơ làm Ngoại trưởng. Làm việc trong các cơ quan hoạch định chính sách ngoại giao từ năm 1960, đến năm 1969 Lốt ở tuổi 32, đã tham gia Hội đồng An ninh của Kít-sinh-gơ, đã trở thành trợ lý đặc biệt và cánh tay đắc lực của-Kít-sinh-gơ trong chính sách đối với Trung Quốc. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong các Hội nghị Trung-Mỹ, Lốt làm nhiệm vụ ghi biên bản, viết thông tin “kênh ngầm", tuyển chọn loại rượu ngon và ánh sáng phù hợp cho các cuộc họp ban đêm có bửa ăn. Lốt cũng biết Kít-sinh-gơ, và đồng tình với việc CIA nghe trộm điện thoại của mình để tìm ra thủ phạm tiết lộ bí mật về vụ đánh bom ở Cam-pu-chia hồi 1969, nên Lốt vẫn quyết định ở lại cơ quan ngoại giao cấp cao này. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tháng 9 năm 1973, Kít-sinh-gơ nhậm chức Ngoại trưởng, và đã bổ nhiệm Lốt phụ trách nhóm kế hoạch ngoại giao (PPS), Lốt đã phát huy được vai trò trụ cột trong chính sách đối với Trung Quốc. Lốt đã thu thập được nhiều văn kiện có tính nhạy cảm cao và những văn kiện này, cho thấy hàng loạt đối sách của Kít-sinh-gơ trong quan hệ với Trung Quốc ở những năm 70. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong điều kiện pháp luật cho phép công khai những văn kiện quá khứ, Bộ Ngoại giao đã mở văn kiện PPS của Lốt lưu giữ tại Cục lưu trữ hồ sơ, có tất cả biên bản trao đổi của Kít-sinh-gơ đó là nguồn tư liệu quan trọng nhất cho cuốn sách này. Theo quy định của Luật tự do thông tin (FOIA) Bộ Ngoại giao còn cho những bí mật trong các biên bản Hội đàm khác của Kít-sinh-gơ, do các cộng sự khác của Kít-sinh-gơ và các ngành khác lưu giữ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Biên bản hội đàm giữa Kít-sinh-gơ với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brê-giơ-nhép và Ngoại trưởng Grô-mư-cô. Từ năm 1972-1973 thời kỳ quan hệ Mỹ-Xô dịu đi và đến đỉnh cao, các hồ sơ được niêm phong kỹ. Nhưng từ năm 1974 đến 1976, quan hệ Mỹ-Xô trở nên căng thẳng. Bộ Ngoại giao Mỹ đã cho công bố các biên bản hội đàm trong thời gian đó. Biên bản đã ghi lại tỉ mỉ cuộc trao đổi giữa Kít-sinh-gơ với phía Liên Xô, bao gồm cuộc đối thoại về hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn II (SALT II) và Hội nghị An ninh và hợp tác khu vực châu Âu, về hợp tác kinh tế và tình hình Ăng-gô-la. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nói tóm lại, biên bản văn kiện của Lốt lưu giữ trong Cục lưu trữ hồ sơ Quốc gia và biên bản có liên quan do Bộ Ngoại giao công bố đã cung cấp những chứng cớ xác đáng về nỗ lực cua Kít-sinh-gơ, nhằm đẩy mạnh nền ngoại giao "tam giác". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Điểm làm cho người ta chú ý nhất là biên bản đã cung cấp những chi tiết rất cụ thể mà trước Kít-sinh-gơ, đều không có quy định cụ thể về yêu cầu đối với biên bản Hội nghị cấp cao của Chính phủ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Biên bản Hội nghị nói chung là tỉ mỉ, nhưng Hội nghị cấp Tổng thống không cần thiết phải ghi chép từng chữ. Kít-sinh-gơ rất không hài lòng về cách ghi biên bản như vậy, ông ta dứt khoát cho rằng, biên bản phải ghi thật tỉ mỉ, không bỏ sót chi tiết khác biệt nhỏ nhất (cho dù lúc đó không có phiên dịch Mỹ). Biên bản như vậy phục vụ cho sự quyết sách chính trị hiện đại và việc viết hồi ký sau này. Vì vậy Kít-sinh-gơ đã chỉ thị cho các trợ lý trong Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) là Uyn-tơn Lốt, Pi-tơ Rô-đơmen v v . phải làm bút ký Hội nghị và biên bản Hội nghị thật tường tận, ghi lại từng sự kiện trong Hội nghị không chỉ có nội dung cuộc nói chuyện, mà cả không khí và động thái trong Hội nghị lúc đó. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ví dụ như thói quen của Brê-giơ-nhép hay đi đi lại lại trong phòng họp, hay động tác quen thuộc cầm ống nhổ của Đặng Tiểu Bình. Những biên bản tường tận, tỉ mỉ như vậy đã phản ánh cá tính đặc biệt của Kít-sinh-gơ là uyên bác, tự phụ, suy nghĩ chu đáo nhưng rất nhạy cảm, hay tâng bốc kèm theo bịp bợm, hóm hỉnh nhưng có thói giễu cợt người vắng mặt.</span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Điều quan trọng hơn, những biên bản đó đã tạo ra cho ta một căn cứ khách quan và độc lập hơn để đánh giá Kít-sinh-gơ, một nhà ngoại giao, một nhà xây dựng chính sách, do đó cho phép ta có thể không chỉ dựa vào hồi ký của ông ta về chính quyền Ních-xơn, trong cuốn sách "Những năm tháng ở Nhà Trắng" và "Nhữĩng năm rối ren" để đánh giá ông ta. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Về nhiều mặt, nội dung được "giải mã" chứng thực các biên bản được đề cập trong hồi ký của ông ta về cuộc hội đàm với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai vào năm 1972 và 1973, đồng thời cũng chứng tỏ cuốn hồi ký Kít-sinh-gơ chỉ đề cập một phần nội dung về nền "ngoại giao tam giác", điều đó khiến ta cần khám phá tìm hiểu phần nội dung mà ông ta đã ém đi. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Điều quan trọng hơn, biên bản đã ghi lại những cố gắng, thậm chí đôi khi có phần mạo hiểm của Kít-sinh-gơ mưu đồ thỏa thuận với Bắc Kinh về một "liên minh" chiến lược ngầm, trong đó có việc không thuyết phục được Trung Quốc đồng ý lập đường dây điện thoại nóng trực tiếp giữa cấp cao Trung-Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ngoài ra, những biên bản đó còn giúp ta hiểu thêm vai trò của Kít-sinh-gơ trong chính quyền G.Pho. Trong hồi ký, Kít-sinh-gơ không đề cập tới điều này. Biên bản hội đàm Kít-sinh-gơ với Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông, Brê-giơ-nhép và Grô-mư-cô (từ năm 1974-1976), có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển mang tính mấu chốt của những năm đó. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để hệ thống lại và biên soạn các biên bản, trong phần mở đầu giới thiệu nội dung, cuốn sách này đã khái quát quan điểm của Kít-sinh-gơ về tình hình thế giới trước khi thành lập chính quyền Ních-xơn, sự phát triển mối quan hệ hợp tác giữa Kít-sinh-gơ và Ních-xơn và những cố gắng chung của họ trong việc phát triển mối quan hệ giữa Mỹ với các quốc gia vốn là kẻ thù, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Tuy họ có chung lợi ích với Bắc Kinh và Mát-xcơ-va trên vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, nhưng vẫn tồn tại nhiều mâu thuẫn và xung đột quan trọng. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đối với Ních-xơn và Kít-sinh-gơ, quan hệ Mỹ-Xô hòa dịu và xây dựng "quan hệ liên minh" bao gồm việc hạn chế vũ khí và hợp tác kinh tế, đã tạo ra một phương thức có hiệu quả khiến Mỹ khống chế được Liên Xô, tránh được nguy cơ chiến tranh hạt nhân trong tương lai, thậm chí xây dựng quan hệ mới với Trung Quốc, cũng nằm trong chiến lược khống chế đó. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Do hai nước Trung Quốc-Liên Xô mâu thuẫn nhau, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ cho rằng, chấm dứt mối quan hệ đối địch với Trung Quốc có lợi cho việc Mỹ đứng trên Liên Xô và tăng cường được toàn bộ sức mạnh của Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Sau phần giới thiệu, sách chia làm 9 chương, đăng lại biên bản Hội đàm cấp cao Trung-Xô từ năm 1975 đến 1976 và nội dung thảo luận của cấp dưới Kít-sinh-gơ về chính sách đối với Liên Xô. Mỗi chương bao gồm phần tư liệu văn bản, để biên bản văn kiện được biên soạn theo tuần tự lịch sử và có hệ thống. Mỗi biên bản đều ghi chú xuất xứ của các nguồn tư liệu. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nói tóm lại, cuốn sách đã tái hiện hầu như toàn bộ biên bản, trong đó có biên bản quan trọng, như cuộc nói chuyện giữa Ních-xơn và Kít-sinh-gơ với Mao Trạch Đông, được ghi lại toàn văn. Nhưng có một số biên bản dài lê thê nên đã cắt bớt và tóm tắt lại đúng sự thật, để dành chỗ cho tài liệu tiêu biểu nhất và để tránh cho những biên bản về hạn chế vũ khí và các loại đàm phán khác trở nên rối rắm, phức tạp, nhằm cố gắng tái hiện toàn diện vai trò của Kít-sinh-gơ trong xây dựng mối quan hệ đông-tây. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đối với văn kiện đặc biệt quan trọng có kèm theo trích dẫn. Để đáp ứng nhu cầu của độc giả không chỉ cần tóm tắt hoặc trích dẫn, Cục lưu trữ hồ sơ An ninh quốc gia đã đăng toàn văn những biên bản lên mạng Internet, phần văn bản thể hiện trong sách hoặc văn bản chưa tiến hành ghi âm do nhiều nguyên nhân.</span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Chương một trong sách, khái quát quá trình đẩy nhanh việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Trung Quốc-Mỹ và hoà hoãn giữa hai nước Mỹ-Xô. Bản tóm tắt hội đàm giữa Ních-xơn với Tổng thống Pháp G.Pom-pi-đu cho thấy động cơ của Nhà Trắng tích cực xích lại gần Bắc Kinh và Mát-xcơ-va nhằm vào ý nghĩa chiến lược và lợi ích chính trị rộng lớn. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Biên bản "kênh ngầm" về cuộc hội đàm Kít-sinh-gơ và Đu-brô-min cho thấy mối lo ngại của Mát-xcơ-va về chính sách mới của Mỹ đối với Trung Quốc. Biên bản của cuộc hội đàm nổi tiếng giữa Ních-xơn với Mao Trạch Đông tháng 2/1972 và cuộc tiếp xúc bí mật giữa Kít-sinh-gơ với quan chức ngoại giao Trung Quốc cho thấy sự "lo ngại sâu sắc" của Liên Xô đã ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ đến mức nào. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Sau Hội nghị cấp cao tháng 5/1972, quan hệ Mỹ-Xô hòa dịu và xuất hiện xu thế kiên định tiến tới. Nhưng văn kiện được giải mã lại chứng tỏ, Kít-sinh-gơ đã cảnh cáo Trung Quốc về khả năng xâm lược của Liên Xô vào giữa những năm 70. Năm 1973, mối quan hệ giữa Kít-sinh-gơ với nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đến mức "nóng ran". Tháng 2 và tháng 11, ông ta đã hai lần gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, tiến hành nhiều cuộc mật đàm với quan chức ngoại giao Trung Quốc. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Chương hai, ba, bốn của cuốn sách ghi chép lại việc Kít-sinh-gơ nhiều lần đến Bắc Kinh, liên tục cố gắng làm cho Bắc Kinh hiểu tình hình và sự tiến triển của đàm phán Mỹ-Xô, thậm chí cả tình hình chính sách của Mỹ trong cuộc chiến tranh tháng 10 ở Trung Đông. Những biên bản có liên quan sau năm 1973 cho thấy những nhân tố gây căng thẳng và bất đồng trong quan hệ Trung-Mỹ. Kít-sinh-gơ hiểu rằng khó mà làm cho Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tin rằng Mỹ-Xô hoà hoãn không có nghĩa bất lợi cho Trung Quốc và cố gắng của ông ta muốn Trung Quốc tham dự vào chấm dứt cuộc chiến ở Căm-pu-chia đã thất bại do cả hai bên đều không tin tưởng nhau. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cho dù trong thời kỳ khó khăn, nhưng sự ghi chép về thay đổi quan hệ Mỹ-Trung cho thấy mối quan hệ "liên lạc” đã được chính thức thiết lập giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong khi đó, Kít-sinh-gơ cũng đang nỗ lực đẩy tới mối quan hệ "ngầm" giữa Mỹ, Liên Xô. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Năm 1973, quan hệ Mỹ-Xô đạt tới đỉnh cao, nhưng biên bản về "khả năng Liên Xô đưa quân vào Trung Quốc và Trung Quốc sẵn sàng ứng chiến những chỉ trích chống Trung Quốc của Brê-giơ-nhép, khiến mối lo của Kít-sinh-gơ ngày càng tăng vào cuối năm 1973. Mặc dù Mát-xcơ-va phản đối kịch liệt và cảnh cáo về hợp tác quân sự Trung-Mỹ, Kít-sinh-gơ vẫn đưa ra đề nghị với Chu Ân Lai về lập đường dây điện thoại "nóng" giữa cấp tối cao Mỹ-Trung, nhằm thông báo kịp thời khả năng Liên Xô phát động cuộc tấn công chống Trung Quốc. Nhưng lãnh đạo Trung Quốc không trả lời. Tuy nhiên, sự hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực tình báo vào thời kỳ này đã thật sự tiến triển. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ trợ giúp Trung Quốc không có nghĩa là từ bỏ hòa hoãn với Liên Xô. Chương năm cuốn sách thuật lại cuộc đàm phán giữa Kít-sinh-gơ và Brê-giơ-nhép tháng 3/1974, nhằm đạt được thỏa thuận về Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn II (SALT II) (Đó là sự chuẩn bị cuối cùng cho đỉnh cao quan hệ Mỹ-Xô thời kỳ chính quyền Ních-xơn) thảo luận về hợp tác kinh tế giữa hai bên, và bắt đầu trở lại tiến trình Hội nghị An ninh và hợp tác khu vực châu Âu (CSCE) chưa được giải quyết. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nhưng các cuộc thảo luận cho thấy, Mỹ-Xô hoà hoãn lại nảy sinh vấn đề mới, ngoài nguyên nhân chính quyền Ních-xơn sắp ra đi, chỉ riêng vấn đề phương tiện bay mang nhiều đầu đạn, chia nhiều hướng (MIRV) đã khiến cho tiến trình CSCE vấp phải nhiều trở ngại (Liên Xô bác bỏ đề nghị của Kít-sinh-gơ về hạn chế đầu đạn ngư lôi), rồi Kít-sinh-gơ thành công trong việc gạt Liên Xô ra ngoài tiến trình hoà bình ở Trung Đông khiến Brê-giơ-nhép vô cùng bực tức.</span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Ngoài ra, Hăng-ri Giắc-xơn lại phát động cuộc chiến du kích chống lại Mỹ-Xô hòa hoãn và đòi Liên Xô phải thay đổi chính sách dân cư trước khi đưa ra đòi hỏi đảm bảo quyền lợi kinh tế của họ tại Quốc hội. Tuy Kít-sinh-gơ và Brê-giê-nhép đều không đưa vấn đề nhân quyền vào tiến trình hoà hoãn, nhưng họ vẫn có thái độ tích cực trong giải quyết vấn đề này. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trên một mức độ nào đó, sự căng thẳng xuất hiện trong quan hệ Mỹ-Xô đã cân bằng quan hệ Trung-Mỹ. Chương sáu ghi lại những cố gắng tăng cường ngoại giao Trung-Mỹ của Kit-sinh-gơ trong tình hình khó khăn hơn sau khi Ních-xơn từ chức. Tổng thống mới lên cầm quyền, ảnh hưởng của Chu Ân Lai giảm dần, vai trò của Đặng Tiểu Bình nổi lên và trở thành người đối thoại chủ yếu trong quan hệ Trung-Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Mặc dù Đặng Tiểu Bình, một con người khắt khe, cho rằng, về cơ bản, quan hệ Trung-Mỹ tốt đẹp, nhưng biên bản cho thấy vấn đề Đài Loan và sự ác cảm của Trung Quốc trước việc Mỹ-Xô hoà hoãn, khiến quan hệ Trung-Mỹ đã "nguội lạnh" đi trong năm 1974. Không chỉ có những biện pháp của Kít-sinh-gơ và Bộ Ngoại giao trong vấn đề Đài Loan làm cho Bắc Kinh nổi giận, ngay cả việc Kít-sinh-gơ thăm dò việc thừa nhận Đài Loan về mặt ngoại giao, cho thấy chính sách cứng rắn của Bắc Kinh quyết không chấp nhận Mỹ bảo hộ Đài Loan, còn việc bảo hộ Đài Loan lại chính là một chính sách cơ bản quan trọng đã định sẵn của Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nếu như trước đây Kít-sinh-gơ cảnh báo phía Trung Quốc về sự đe doạ của Liên Xô thì nay Đặng Tiểu Bình lại cảnh báo lại phía Mỹ rằng: Sự uy hiếp của Liên Xô đối với phương Tây lớn hơn. Trong chuyến thăm Trung Quốc tháng 11/1974, Mao Trạch Đông đã từ chối gặp Kít-sinh-gơ, điều đó chứng tỏ quan hệ Trung-Mỹ ở vào thời kỳ dẫm chân tại chỗ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Chương bảy cuốn sách miêu tả bức tranh phức tạp về quan hệ Mỹ-Xô. Cuộc trao đổi giữa Kít-sinh-gơ với Brê-giơ-nhép tháng 10/1974 tại Mát-xcơ-va, đã tạo cơ sở để đi đến thỏa thuận về Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược chính, và được G.Pho và Brê-giê-nhép nhất trí tại Vla-đi-vô-stốc mấy tuần sau đó. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nhưng bất đồng về vấn đề vai trò của "máy bay ném bom Bach-cơ-phai" của Liên Xô và tên lửa Cơ-lui-sơ của Mỹ, đã khiến hai bên không đạt được một Hiệp định. Một vấn đề đau đầu khác là vấn đề hòa hoãn về kinh tế; Biên bản cho thấy Brê-giơ-nhép có thái độ chế nhạo Hăng-ri Giắc-xơn, còn Kít-sinh-gơ thì đảm bảo rằng, ông ta có thể làm át đi sự chỉ trích của thượng viện đối vấn đề này. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nhưng Kít-sinh-gơ vẫn không sao tác động nổi sự hạn chế của Quốc hội về hợp tác kinh tế, bởi ông ta thiếu sự quan tâm đối với những chi tiết hợp tác, cũng có thể bởi thái độ mập mờ của ông ta trong việc tin vào Liên Xô. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Hiệp ước An ninh và hợp tác khu vực châu Âu đạt được tại Hen-xin-ki tháng 7 năm 1975 chứng tỏ hoà hoãn Mỹ-Xô lại đi đến một điểm cao mới. Nhưng biên bản hội đàm giữa Kít-sinh-gơ với Grô-mư-cô diễn ra trước Hội nghị trong tháng đó cho thấy, Liên Xô lo ngại sâu sắc về chính sách hạt nhân của Mỹ. Ngoài ra, Học thuyết của Kít-sinh-gơ về mở ra "cạnh tranh" trong thế giới thứ ba cũng dự báo trước những điều phiền phức sẽ xảy ra trong tương lai. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Chương tám của cuốn sách ghi lại thất bại của Kít-sinh-gơ năm 1975 và 1976 trong việc thay đổi tình trạng ngày càng bế tắc của quan hệ Trung-Mỹ. Tuy năm 1976, Ních-xơn đưa ra những cam kết ngoại giao về vấn đề Đài Loan với Trung Quốc nhưng kế hoạch tranh cử của Tổng thống G.Pho khiến cam kết đó khó bề thực hiện, bởi dù sao G.Pho hay Ních-xơn đều không muốn bị phái hữu trong Đảng Cộng hòa công kích vì vấn đề Đài Loan. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong thực tế Kít-sinh-gơ tiếp tục được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng, nhưng vì triển vọng tranh cử của mình. G.Pho đã không để Kít-sinh-gơ giữ chức Cố vấn An ninh quốc gia.</span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="background-color: #fcfcff; color: #141414; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 15px; line-height: 20px; margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Việc Mỹ kéo dài vấn đề Đài Loan rõ ràng đã chọc tức Bắc Kinh và khiến nỗ lực của Kít-sinh-gơ nhằm cải thiện quan hệ Trung-Mỹ trong điều kiện không có cam kết ngoại giao đã thất bại. Tuy nhiên Kít-sinh-gơ tin rằng, Bắc Kinh vẫn cần đến Oa-sinh-tơn để làm lực lượng đối trọng với Liên Xó, nhưng điều Bắc Kinh mong muốn là giữa Oa-sinh-tơn và Mát-xcơ-va nảy sinh mâu thuẫn. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đặng Tiểu Bình công kích Mỹ-Xô hòa hoãn, cuộc hội đàm gian nan giữa Kít-sinh-gơ Mao Trạch Đông, còn những cử chỉ của Trung Quốc bị Kít-sinh-gơ coi là "thô lỗ”, tất cả đều làm cho vấn đề quan hệ Trung-Mỹ ngày càng căng thẳng. Chuyến thăm của Tổng thống G.Pho tới Trung Quốc đánh dấu sự cải thiện tạm thời của quan hệ hai nước. Trung Quốc cũng đã mua máy tính của Mỹ để dùng trong lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên, vấn đề Đài Loan vẫn làm nhức nhối Trung Quốc. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tháng 1/1976 và sau đó là tháng 9/1976 Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông lần lượt qua đời, cuộc đấu tranh chính trị diễn ra ở Trung Quốc đã khiến Kít-sinh-gơ và Cố vấn của ông ta nghi ngờ về quan hệ bang giao Trung-Mỹ trong tương lai.</span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Quan hệ Trung-Mỹ dẫm chân tại chỗ, quan hệ Mỹ-Xô cùng bắt đầu xuống dốc từ năm 1976. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Chương chín của cuốn sách ghi lại biên bản hội đàm giữa Kít-sinh-gơ với Brê-giơ-nhép và Grô-mư-cô trong chuyến thăm Liên Xô cho thấy: Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược là vấn đề đàm phán quan trọng giữa hai nước. Cả hai bên đều có những nỗ lực sáng suốt và có khả năng thực hiện một sự “đột phá" nhằm giảm thiểu khoảng cách giữa hai nước. Nhưng do lo ngại bị tấn công chính trị trong cuộc tranh cử, nên G.Pho quyết định tạm thời rời bỏ tiến trình đó. Vì vậy, các cuộc đàm phán sau đó đều trong trạng thái không tiến triển. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy nhiên, bóng ma nội chiến ở Ăng-gô-la đã phủ đám mây đen lên Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược Mỹ-Xô. Kít-sinh-gơ đã dùng khái niệm chính trị địa lý quen thuộc để giải thích cuộc chiến nhưng lại bỏ qua tính chất nội tại của nó, cho rằng hành động của Liên Xô trong cuộc chiến này dẫn tới việc Mỹ mất lòng tin ở Liên Xô, đã vượt khỏi phạm vi cho phép của hòa hoãn Mỹ-Xô. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ tỏ ra không quan tâm đến sự phản đối của Brê-giơ-nhép và trên thực tế Brê-giơ-nhép đã từ chối trao đổi vấn đề Ăng-gô-la. Để cảnh cáo Liên Xô và cũng là để phản kích cuộc tấn công của Rô-nan Ri-gân, ứng cử viên Đảng Cộng hòa được xem như có triển vọng nhất, Kít-sinh-gơ đã lớn tiếng ủng hộ đường lối cứng rắn chống Liên Xô, khiến cho bức tranh Mỹ-Xô hòa hoãn mờ nhạt khó lường. </span><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Vô số chi tiết của biên bản hội đàm đã tái hiện rõ rệt quan hệ ngoại giao của Mỹ trong một thời kỳ lịch sử quan trọng. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy rằng biên bản hội đàm không nói rõ động cơ sâu xa và quá trình đi đến quyết sách của người tham dự, bởi còn cần có nhiều văn kiện hồ sơ của Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ để cùng làm sáng tỏ vấn đề nhưng các biên bản này chí ít cũng đã cung cấp căn cứ ban đầu để tìm hiểu chính sách ngoại giao thời kỳ Ních-xơn và G.Pho, nhất là sự chèo lái của Kít-sinh-gơ đối với nền ngoại giao của Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Có thể một số độc giả sẽ thấy những biên bản này đã chứng minh những nhận xét của mình đối với Kít-sinh-gơ, một nhà ngoại giao khôn ngoan biết cách chế ngự sự cân bằng lực lượng trong đối trọng quốc tế. Một số độc giả khác có thể đi xa hơn trong suy nghĩ, cho rằng Kít-sinh-gơ chỉ là một nhân vật quá độ của thời kỳ đầu đế quốc, mà Mỹ đang tiến tới nhưng không còn là trung tâm của thế giới nữa. Cũng có độc giả sẽ cho rằng, Kít-sinh-gơ không phải là nhà ngoại giao, mà chỉ là kẻ tâng bốc nịnh hót, không làm nên trò trống, nhưng rất ham quyền lực, lạm dụng nhân quyền, gây tội ác trong cuộc chiến ở Đông Dương. Nhưng lại có người cho rằng, Kít-sinh-gơ là kẻ nhân nhượng vô nguyên tắc trong một chính quyền đầy quyền lực. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Dù sao chăng nữa, đọc xong cuốn sách này, những người phê phán cũng sẽ có chút khoan dung, những kẻ ham tâng bốc sẽ khắt khe hơn trong đánh giá. Cho dù, mọi người nhìn nhận Kít-sinh-gơ như thế nào chăng nữa, ngày càng có nhiều biên bản quan trọng được công khai sẽ giúp chúng ta đánh giá khách quan và công bằng hơn về vai trò Kít-sinh-gơ, một nhân vật quan trọng trong nền chính trị thế giới. </span><br style="text-align: left;" /><div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: right;">
<b>NHÓM BIÊN DỊCH </b></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: right;">
<b><br /></b></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<b><br /></b></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: center;">
<b>I. THẾ LỰC CỦA HĂNG-RI KÍT-SINH-GƠ VÀ MỸ TRONG THẾ GIỚI ĐA CỰC</b></div>
<br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để hoàn chỉnh biên bản các cuộc hội đàm giữa Hăng-ri Kít-sinh-gơ với nhà lãnh đạo Trung Quốc , Liên Xô được giải mã, chúng ta cần tính toán đến các giả thiết mà ông ta đặt ra trong hội đàm, tính đến việc ông ta hành động theo suy nghĩ của mình trong quan hệ với Ních-xơn, tính đến chính sách mới đối với Trung Quốc và Liên Xô, mà Ních-xơn, Kít-sinh-gơ đứng ở vị trí trung tâm của nền chính trị thế giới. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy rằng chỉ với biên bản lưu giữ đã được giải mã thì không đáng kể, nhưng nếu đem kết hợp những văn bản đó với một số ấn phẩm quan trọng, chúng ta có thể nhận ra ngay vai trò của Ních-xơn và Kít-sinh-gơ trong việc đẩy cuộc chiến tranh lạnh tiến đến một chỗ đứng mới, bằng cách điều tiết với hai cường quốc cộng sản. Tuy chính sách đó là mới, nhưng mục đích mà Ních-xơn và Kít-sinh-gơ muốn đạt được thông qua việc kiểm soát quan hệ quốc tế lại rất truyền thống, đó là giữ vững vị trí trung tâm của thế lực Mỹ trong nền chính trị thế giới, và ngăn cản tất cả những hình thái chính trị thù địch từ bên ngoài, tiềm ẩn và có thể, có cả sự "cô lập" nước Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ở vào thời kỳ đầu năm 1964, Kít-sinh-gơ bước vào Nhà Trắng của Mỹ và trở thành trợ lý Tổng thống, phụ trách về công việc An ninh quốc tế. Lúc đó cuộc chiến tranh ở Việt Nam gây ra nhiều vấn đề phiền toái và ảnh hưởng đến vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Kít-sinh-gơ lo rằng Mỹ sẽ mất đi vai trò điều khiển thế giới, nếu cứ tiếp tục thực hiện chủ nghĩa bá quyền, và ông ta đã nhận ra một tình thế mới, như một châu Âu độc lập hơn, sự trỗi dậy của thế giới thứ ba, sức mạnh hạt nhân của Mỹ-Xô tương đương như nhau; sức mạnh quân sự với vũ khí hạt nhân chưa đủ để Mỹ làm lệch cán cân. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Và 5 năm sau đó, khi được đề bạt làm Ngoại trưởng, ông phát hiện thấy tình hình quốc tế khiến người ta vô cùng hài lòng, cho rằng, Mỹ, một nước không được hoan nghênh trong liên minh quân sự, có thể khiến Mỹ tồn tại đồng thời trong "một thế giới khác nhau mà ở đó chúng ta cần phải ở lại". Kít-sinh-gơ tin rằng: liên minh hiện nay đều có lợi. "Tôi cho rằng, nếu cục diện thế giới như hiện nay được tiếp tục duy trì điều đó tuyệt đối có lợi cho chúng ta". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">So với tình hình có nhiều thay đổi của năm 1969, tại sao Kít-sinh-gơ lại cho rằng tình hình thế giới tháng 11/1973 là thời kỳ tốt nhất trong tất cả thời kỳ. Kít-sinh-gơ đã sử dụng chủ nghĩa thực dụng kinh điển, sức mạnh quân sự và tài nguyên công nghiệp, để định nghĩa về quốc gia và tính toán công việc quốc tế, ông ta coi Mỹ, Liên Xô, Tây Âu, Trung Quốc và Nhật là trung tâm của cơ cấu quan hệ quốc tế thời đại hiện nay. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Năm 1973, Kít-sinh-gơ nói, quan hệ Mỹ-Xô bắt đầu xuất hiện triển vọng tốt đẹp, được đưa vào chương trình nghị sự, nhưng lại bị ngăn cản bởi sức ép của cuộc chiến tranh tháng 10 ở Trung Đông. Trên thực tế, Mỹ coi diễn biến ở Trung Đông là sự đảm bảo cho Mỹ giữ được vai trò trung tâm của sứ giả hoà bình, từ đó gạt Mát-xcơ-va ra ngoài. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ngoài ra, sau khi chấm dứt cuộc chiến của quân đội Mỹ ở Việt Nam, Kít-sinh-gơ đã đẩy mạnh luôn việc vun đắp quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa mà Mỹ đã đối đầu trong hơn 20 năm, còn quốc gia này lại trở thành kẻ thù trước tiên của Liên Xô. Chỉ cần Mát-xcơ-va và Bắc Kình đối đầu, Kít-sinh-gơ sẽ có thể lợi dụng khả năng có hạn này để tác động vào hai quốc gia đó, Oa-sinh-tơn sẽ giữ vững được ảnh hưởng của mình và có được sự lựa chọn công bằng thông qua sự đối đầu của hai nước này.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Còn hai lực lượng trung tâm khác là Tây Âu và Nhật Bản. Kít-sinh-gơ cho rằng giữa Tây Âu và Nhật với Mỹ có mối quan hệ chặt chẽ về chính trị kinh tế, quân sự, bị ràng buộc bởi liên minh chính thức hoặc Hiệp ước An ninh, hơn nửa Nhật và Tây Âu lại nhận được sự hỗ trợ của Mỹ về vũ khí hạt nhân. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy mối quan hệ đó mang tính bắt buộc, nhưng không có nguy cơ đe dọa, chia cắt. Đến nay, cho dù Nhật Bản lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Tây Âu hòa hoãn với Liên Xô, nhưng họ vẫn phải tìm sự đảm bảo An ninh ở Mỹ. Thậm chí Trung Quốc bắt đầu điều chỉnh quan điểm về mối quan hệ an ninh Mỹ-Nhật, coi đó là sản phẩm chống đối của khuynh hướng quân phiệt thời kỳ đầu trong xã hội Nhật Bản. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Hơn nữa, tình hình Trung Âu tương đối ổn định. Bằng một Hiệp định ký với Liên Xô, Tây Đức đã ổn định được cục diện Béc-lin từng bị đe doạ, và bắt đầu mối quan hệ ngoại giao. Kít-sinh-gơ lo ngại vai trò của Bộ trưởng Ngoại giao Tây Đức Uy liêm Bran trong việc hòa hoãn với Đông Âu và Liên Xô. Nhưng Hiệp ước Đức-Xô không mang tính nguy hại cho thế giới. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tháng 9/1973, cuộc đảo chính chống Chính phủ San-va-đo A-zen-đê nổ ra ở Chi-lê. Điều đó làm cho Kít-sinh-gơ rất mừng, bởi lực lượng phái cánh tả trong tư thế thách thức đã bị đập tan. Trong khi đó, các nước xuất khẩu dầu lửa phát huy vai trò to lớn trên thị trường thế giới, khiến Kít-sinh-gơ mất vui phần nào, dù sao chăng nữa, quan hệ Mỹ-Xô, Trung-Mỹ đang phát triển tốt đẹp, nên Kít-sinh-gơ cũng không lo ảnh hưởng của Mỹ trong lĩnh vực chính trị và kinh tế sẽ bị các lực lượng trung tâm như Trung-Nhật hoặc châu Âu-Liên Xô, Tây Đức-Liên Xô hoặc Trung-Xô đẩy ra ngoài. Đám mây đen đó từng là cơn ác mộng của người quyết sách Oa-sinh-tơn trong nhiều năm qua. </span><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cục diện lực lượng thế giới trở nên sáng sủa, bởi mức độ gần gũi của Mỹ với mọi cường quốc trung tâm đã vượt qua mức độ liên hệ vốn có giữa họ. Không còn nghi ngờ gì nữa, sức mạnh của Mỹ có khả năng "làm lệch cán cân", dù tốt hay xấu, Kít-sinh-gơ đều trở thành một nhân vật trung tâm. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Ô-rê-na Fa-ra-xi về sự thành công, Kít-sinh-gơ nói, ông ta luôn luôn phải tác chiến một mình "như con trâu kéo một đoàn xe lửa chở hàng". Tất nhiên, sự thật phức tạp hơn nhiều. Rõ ràng, Kít-sinh-gơ đã đóng vai trò to lớn trong quyết sách, trở thành nguồn tư tưởng chủ yếu trong quyết sách và đã hợp lý hóa quyết sách của Tổng thống. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tất cả làm việc dưới sự lãnh đạo của Tổng thống, còn Tổng thống đóng vai trò quyết định trong xây dựng sách lược. So với thái độ do dự của Kít-sinh-gơ, Ních-xơn tỏ ra dứt khoát kiên quyết hơn trong việc thi hành chính sách mới đối với Trung Quốc. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Do không đủ chứng cớ trong hồ sơ khiến chúng ta khó mà đánh giá ai đóng vai trò lớn hơn trong mọi quyết sách hàng ngày. Nhưng qua biên bản đã có được, cho thấy, Ních-xơn là người có suy nghĩ sâu sắc về các vấn đề như cách thức cầm quyền, quan hệ quốc tế và tác động của sức mạnh Mỹ. Là một đầy tớ nhiều mưu mẹo, quyền thế của Kít-sinh-gơ bắt nguồn từ quan hệ với Tổng thống. Nhưng Kít-sinh-gơ cho rằng, quan điểm của Ních-xơn thường có những nhược điểm. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong tòa nhà làm việc của Ních-xơn, sau cuộc thảo luận mất nhiều thì giờ, Kít-sinh-gơ khó nhọc lắm mới có thể sàng lọc được một số quan điểm chín chắn từ kế hoạch soạn thảo vội của Ních-xơn. Sau các cuộc làm việc với Ních-xơn, Kít-sinh-gơ hay đưa Ních-xơn ra nói đùa trong Hội đồng An ninh, gọi ông ta là "bộ óc toàn thịt”, "một người bạn đen tối". Một lần, Kít-sinh-gơ đã nói một cách công khai rằng: "Ních-xơn là con người kỳ quặc và không được hoan nghênh".</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Sự kết hợp giữa cá tính với tư cách Cố vấn về chính sách đã giải thích được nguyên nhân tại sao Kít-sinh-gơ, một con người hay nói, bi quan không tin người, được giáo dục tại Đại học Ha-vơt, là dân di cư Do Thái, Cố vấn của Rốc-cơ-phe-lơ lại có thể phát triển mối quan hệ công việc nếu không nói là thân mật thì cũng là bằng phẳng với Ních-xơn, một con người đến từ Ca-li-phoóc-ni-a, trầm ngâm, không tin người, khinh bỉ trí thức và Do Thái, sau này trở thành nhân vật lừng danh của Đảng Cộng hòa. Cho dù thế nào chăng nữa, Ních-xơn đã phát hiện Kít-sinh-gơ là con người được việc cho mình, trước khi sử dụng ông ta. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong vai trò là Cố vấn về chính sách đối ngoại của Rốc-cơ-phe-lơ, Kít-sinh-gơ đã tiếp xúc với đồng nghiệp Jan Mác-san, Cố vấn về pháp luật và hoạch định chiến lược của Ních-xơn. Ngay trước khi được Ních-xơn đề bạt, Kít-sinh-gơ đã chuyển tới Mác-san và Ních-xơn những thông tin về đàm phán cuộc chiến tranh Việt Nam. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Danh tiếng chuyên môn của Kít-sinh-gơ đã khiến Ních-xơn tin rằng, mình sẽ được sự hỗ trợ của Kít-sinh-gơ ngay tại Oa-sinh-tơn. Không còn nghi ngờ gì nữa, tài tâng bốc của Kít-sinh-gơ cũng như bạn bè "nội bộ" mà ông cài cắm từ lâu đã đóng một vai trò nhất định. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn nhận thấy ở Kít-sinh-gơ một sự tư duy có lý trí, đặc biệt là trong vấn đề "trật tự" ổn định thế giới, cả hai đều tâm hợp ý đầu. Trong bài phát biểu chuẩn bị trước bầu cử, Kít-sinh-gơ đã chỉ rõ “sự gia tăng của tính chất bất ổn định trong phạm vi toàn cầu là xu thế lịch sử". Sức mạnh hạt nhân của Mỹ bị yếu đi, và những "hố sâu thay thế” đã hạn chế việc Mỹ sử dụng sức mạnh ở ngoài nước, những quốc gia liên minh cũ và quốc gia mới trỗi dậy đều có khả năng thực hiện độc lập. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để tỏ rõ sự miệt thị đối với cách mạng của các nước thế giới thứ ba, Kít-sinh-gơ đã viết: "Họ thiếu tinh thần trách nhiệm đối với sự cân bằng của cả thế giới. Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, các nước thế giới thứ ba sẽ đe doạ một hoặc hai siêu cường, thậm chí đe doạ cả hòa bình thế giới”. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ cho rằng, nhiệm vụ của thế kỷ mới là đi tìm con đường, khiến cho sức mạnh của Mỹ đáp ứng nhu cầu ý tưởng của một Hiệp định trật tự thế giới. Nghiên cứu chính sách ngoại giao châu Âu thế kỷ 19, Kít-sinh-gơ cho rằng, trật tự này cần sự cân bằng về sức mạnh có nghĩa là dù ràng buộc hành động của bản thân mình, hay hạn chế hoạt động của một số quốc gia không chịu hợp tác, các cường quốc trung tâm đều giành được lợi ích lớn hơn so với hành động phá hoại sự cân bằng này. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đối với Kít-sinh-gơ ổn định là trung tâm của sự cân bằng, ông ta cho rằng tất cả quốc gia đều có trách nhiệm hợp tác để duy trì sự cân bằng trên thế giới, cần tránh sự phá hoại cân bằng do bất đồng ý kiến. Kít-sinh-gơ cho rằng, tính hợp pháp của một chính phủ thể hiện chủ yếu ở chỗ chính sách của Chính phủ đó phù hợp với sự cân bằng quốc tế, chứ không phải đặc điểm bên trong của nó. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Bằng mưu trí và "tinh thần của sứ mạng", Kít-sinh-gơ cho rằng Mỹ có thể phát huy vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy sự ổn định chính trị và an ninh quân sự, nhưng không được tác chiến một mình. Như Kít-sinh-gơ từng nói: "Một hậu quả của cuộc chiến là người Mỹ đã phản đối mạnh mẽ sự dính hu vào cuộc chiến ở ngoài biên giới". Cho dù Oa-sinh-tơn muốn can thiệp chăng nữa nhưng lực bất tòng tâm. Trong một thế giới nhanh chóng trở thành "đa cực", vũ khí hạt nhân không có ý nghĩa gì, bởi sự phân tán của sức mạnh kinh tế và quân sự, có nghĩa là "quyền tự quyết của các quốc gia khác đạt tới quy mô chưa từng có". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Căm ghét chiến tranh lạnh, Mỹ cần hạn chế cuộc chạy đua với Liên Xô. “Trong thời đại vũ khí hạt nhân dẫn đến sự hợp tác ở chừng mực nào đó và sự hạn chế tuyệt đối cuộc xung đột". Tệ hơn nữa, quan hệ Mỹ-Tây Âu đứng trước "khủng hoảng sâu sắc", không thể tiếp tục duy trì cái phương thức bảo vệ cũ của Mỹ là "Hãy để châu Âu có sức mạnh kinh tế và lòng tin chính trị lớn hơn" .</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Tuy lực lượng Tây Âu ngày càng lớn mạnh, mặc dù bị chi phối bởi hoàn cảnh mới, Kít-sinh-gơ vẫn cho rằng, chỉ có Mỹ với sức mạnh của mình và triển vọng trong tương lai, mới đóng nổi "vai trò toàn cầu”. Việc trực tiếp can dự vào việc lập chính sách hoặc tìm cách thay đổi trong nỗ lực "dã tràng xe cát" nhằm vào thể chế thế giới thứ ba, Mỹ muốn quan tâm hơn về cái khung của một trật tự. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Điều giả thiết của Kít-sinh-gơ về vai trò sức mạnh của Mỹ có thể kích thích "động cơ của các quốc gia khác". Ví dụ: cung cấp viện trợ quân sự cho một thế lực ở khu vực, để chúng có thể giữ vững được "vùng tạm chiếm". Điều này có thể tìm thấy trong cái gọi là quan điểm của Ních-xơn, nó có nghĩa là một quốc gia nào đó có hành động "thiếu trách nhiệm", sẽ bị sức ép thậm chí bị can thiệp từ phía Mỹ hoặc các nước xung quanh. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Lập nên sự cân bằng mới không chỉ bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế phức tạp, mà còn gặp phải trở lực từ trong nước khi thực hiện nó. Kít-sinh-gơ cho rằng, cơ quan quyết sách sáng tạo có khái niệm tổng hợp nhất là Bộ Ngoại giao. Họ cần tìm ra phương pháp có khả năng chặn được việc hoạch định chính sách của các nước, nhằm tránh người quyết sách trở thành "kẻ điều phối giữa các bộ máy quan liêu, giống nhau”. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong quan điểm của Kít-sinh-gơ, sự thay đổi về quan niệm giá trị của lớp trẻ thực dụng cũng là rất nguy hiểm, bởi họ coi "quyền lực (kiểm soát) là vô đạo đức”, họ không quan tâm, thậm chí tỏ ra thù địch với hệ thống và khái niệm về trật tự. Do tồn tại một bộ phận người như "hố sâu ngăn cách", tâm trạng của công chúng Mỹ, bao gồm cả tầng lớp lãnh đạo cũng đang dao động giữa hai cực: “không cần quyền lực" và "cần có quyền lực nhiều hơn". Nếu như người Mỹ bằng lòng với di sản mà họ quản lý, thì Kít-sinh-gơ lại lo lắng sức mạnh của Mỹ bị giảm đi, không cho phép lạc quan về triển vọng của trật tự thế giới. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Quan tâm đến sự ổn định, Kít-sinh-gơ coi sự cân bằng do Mỹ lập nên là lực lượng chủ đạo để tránh cuộc hỗn loạn quốc tế, và ông ta tin rằng vai trò nòng cốt của Mỹ trong việc xây dựng cân bằng quốc tế là cần thiết cho việc ông ta thực hiện mục tiêu quan trọng. Trong báo cáo viết về hậu kỳ chấp chính của Ních-xơn, ông ta tỏ ra rất lo ngại khả năng Liên Xô biến lời tuyên bố thành hành động chống Trung Quốc. Điều đó giải thích tại sao ông rất coi trọng "Sự cân bằng về sức mạnh". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tháng 2/1973, ông ta đã nói với Mao Trạch Đông một câu khiến người ta kinh ngạc và hoài nghi. Kít-sinh-gơ nói: "Nếu Liên Xô tấn công Trung Quốc, sẽ phá loại nền an ninh của tất cả quốc gia, và làm cho chúng ta bị cô lập". Sau đó vài tháng, trong thư gửi Tổng thống Pháp Goóc-dơ Pom-pi-đu tháng 5/1973, Kít-sinh-gơ bày tỏ quan điểm tương tự, có nghĩa: "Đối với Mỹ, ngăn chặn Liên Xô phá huỷ Trung Quốc là vấn đề liên quan tới lợi ích căn bản. Nếu như Mát-xcơ-va "tìm cách khuất phục Trung Quốc, thì châu Âu sẽ biến thành Phần Lan, và Mỹ hoàn toàn bị cô lập". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trên một khía cạnh khác, Kít-sinh-gơ dự đoán nếu Trung Quốc bị đánh bại, thế lực bá quyền Liên Xô sẽ nhanh chóng mở rộng sang lục địa Âu-Á. Sự cân bằng sức mạnh nếu có thay đổi lớn, sẽ dẫn tới Tây Âu tìm cách thỏa hiệp với Liên Xô và chấm dứt quan hệ Đồng minh với Mỹ. Nếu châu Âu trung lập hoặc bị “Phần Lan hóa", Mỹ sẽ bị chơi vơi trong một thế giới đầy ác cảm. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Quan điểm của Kít-sinh-gơ về ngăn chặn sự xuất hiện một nước Mỹ "bị cô lập", là thống nhất với quan điểm của nhân vật chính R.Các-stơ trong cuốn sách đầu tiên: "Thế giới bừng tỉnh" do ông ta viết. Cuốn sách đề cập tới thời kỳ hậu Na-pô-lê-ông lập nên sự cân bằng về sức mạnh. Tại sao đảo Iu-gơ-len lại không bị ngăn cách bởi sự phát triển của các lục địa quan trọng. Nó liên quan chặt chẽ đến quan điểm chung sau thế chiến thứ hai cho rằng vì an ninh quốc gia Mỹ đã hướng tới các đối thủ nổi trội trong phạm vi toàn cầu. Họ cho rằng, nếu Mỹ bị cô lập trong một thế giới bị ngự trị bởi hệ thống tập quyền Trung ương (chủ nghĩa Cộng sản hay chủ nghĩa phát xít) nhất là khi chúng đã kiểm soát được lục địa Âu-Á, thì chỉ với nền chính trị kinh tế tư bản tự do, Mỹ không thể tiếp tục tồn tại bằng một chính thể dân chủ pháp trị.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Chúng ta có thể tìm hiểu sâu về Uy-li-am Ai-li-ô-đô, người luôn ủng hộ Kít-sinh-gơ. Vốn là uỷ viên Hội đồng đàm phán thương mại. Có khả năng ông ta đã nhồi cho Kít-sinh-gơ quan điểm chính trị kinh tế "chống cô lập". Ai-li-ô-đơ cho rằng, hệ thống của Mỹ đòi tự do hội nhập thị trường thế giới là điều tất nhiên. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nhiều bậc tiền bối của Kít-sinh-gơ ở Oa-sinh-tơn đều có chung quan điểm như vậy Ví dụ: Oa-tơ Rô-stơ sau khi trở thành trợ lý An ninh quốc gia cho Lin-tơn Giôn-sơn đã viết trong năm 1962 rằng, sự thay đổi cân bằng về sức mạnh Âu-Á sẽ biến Mỹ thành một hòn đảo cô độc, "một quốc gia phòng ngự". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Sau này vào đầu năm 1962, Mắc-na-ma-ra giải thích trước Quốc hội tại sao phải chống chủ nghĩa cô lập: "Nếu không chống lại, Mỹ phải đối mặt với một thế giới nguy hiểm hơn, khó xác định hơn". "Trong thế giới đó, sức ép ngày càng tăng lên cùng với việc phổ biến vũ khí hạt nhân", mà ở đó "chúng ta chỉ có thể thay đổi phương hướng công nghiệp và thương nghiệp trong điều kiện tự do về kinh tế giảm đi tương đối, để đạt được mức tối đa về tự túc kinh tế”. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong suy nghĩ của Kít-sinh-gơ, muốn cân bằng sức mạnh, muốn Mỹ giừ được vị trí là trung tâm của nền chính trị thế giới, cần có sự nhất trí hoàn toàn với Ních-xơn. Trong đàm phán với Liên Xô và tìm con đường làm cho sức mạnh của Mỹ thích ứng với môi trường quốc tế mới, Kít-sinh-gơ và Ních-xơn đã gặp nhau ở trên điểm thú vị này. Ních-xơn đã viết trong cuốn "Quan hệ với nước ngoài" rằng: "Vai trò sen đầm quốc tể-mà Mỹ muốn đóng sẽ bị hạn chế. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Năm 1968, sau cuộc tranh cử Tổng thống, Ních-xơn đã nói đến mối nguy hiểm trong đối đầu hạt nhân và sự cần thiết phải tiến vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên đàm phán. Ních-xơn công khai đề cập khả năng khôi phục bang giao với Trung Quốc. Còn Kít-sinh-gơ nghiêng về quan điểm cho rằng, Trung Quốc trở thành mối uy hiếp trong thời gian gần, chứ không phải là một đối tác đầy tiềm năng.</span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong các Hội nghị trước đó, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ đã có quyết định quan trọng về quy trình quyết sách của nội các mới. Trong thời gian tranh cử, Ních-xơn phê phán tiến trình chính sách ngoại giao thiếu bài bản và không thực tế của Tổng thống Giôn-sơn: ông ta thề "sửa sang nhà cửa", nhưng làm theo cách của mình. Ních-xơn đặc biệt coi thường Quốc hội, nghi ngờ rằng người của Đảng Dân chủ trong nội các đều là kẻ phá hoại, và quyết định phải thay đổi chính sách đối ngoại, để hỗ trợ cho mục tiêu chính trị. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nếu như trước đây không biết, thì nay Ních-xơn nhanh chóng phát hiện ra rằng, Kít-sinh-gơ cũng coi Quốc hội là bức tường che khuất "tầm nhìn" của những người quyết định chính sách. Tự ban cho mình cái quyền làm việc theo quan điểm riêng, Kít-sinh-gơ đã dễ dàng thoả thuận với Ních-xơn trong vấn đề “tổng thống nhất trí cần hướng dẫn chính sách ngoại giao của Nhà Trắng". Tất nhiên, từ lâu Kít-sinh-gơ đã chuẩn bị giúp Ních-xơn đạt được mục đích này. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ngay từ tháng 1/1969, Ních-xơn đã thông qua một loạt đề án đem lại cho Kít-sinh-gơ quyền lực chưa từng có trong cơ quan quyết định chính sách an ninh với danh nghĩa trợ lý an ninh quốc gia. Sử dụng các quyền đó, Kít-sinh-gơ yêu cầu dùng các NSSM (Bản ghi nhớ hội nghị về An ninh quốc gia.) chỉ đạo các cơ quan khác - Quốc hội, nghị viện, CIA (Cục tình báo trung ương Mỹ.), ACDA (Cục quản lý Cắt giảm vũ khí Mỹ.) chuẩn bị tiến hành học tập nghiệp vụ. Như vậy Ních-xơn và Kít-sinh-gơ có thể quyết định cần thay đổi chính sách ra sao. Hơn nữa, còn cho phép Kít-sinh-gơ lãnh đạo nhóm dự thảo NSCR (Nghị quyết Hội đồng an ninh quốc gia). Ních-xơn còn cho Kít-sinh-gơ cái quyền "tiền trảm hậu tấu” đối với đề án của các ngành.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ rất am hiểu công việc thư ký và với biệt tài biến báo, ông ta kiểm soát rất chắc biên bản những cuộc nói chuyện của Ních-xơn, cũng như phương pháp sử dụng "kênh ngầm" trong đối thoại với Chính phủ nước ngoài, khiến cho Quốc hội như bị bưng trong cái trống. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Thành công của Kít-sinh-gơ trong việc giúp Ních-xơn kiểm soát được mức độ thực hiện các chính sách lại càng nổi bật. Tuy ở địa vị lãnh đạo, Kít-sinh-gơ vẫn dành lấy ưu thế chủ đạo trong việc quyết định chính sách. Tất nhiên ưu thế đó được xây dựng trên cơ sở cái giá mà người khác phải trả dần. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Bộ trưởng quốc phòng, nguyên Giám đốc phòng liên lạc trung tâm các vấn đề quốc tế M.Lê-đô có cơ sở sức mạnh của mình và cũng không ngờ nghệch trong quan trường, ông ta tìm mọi cách giữ quyền tự chủ khi cần gặp trực tiếp Ních-xơn. Những người khác thì không biết tinh khôn tháo vát như vậy. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn đã chọn người bạn lâu năm Uy-li-am Rô-giơ làm Ngoại trưởng, thực ra ông này thiếu hiểu biết về quan hệ quốc tế, nhưng như vậy có lợi cho Nhà Trắng trong việc kiểm soát chính sách đối ngoại. Rô-giơ miễn cưỡng chấp nhận sự lãnh đạo của Kít-sinh-gơ, bởi ông ta không có sức mạnh cũng như không dám thách thức Kít-sinh-gơ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Sau khi tham gia Chính phủ, Đại sứ Liên Xô A-na-tô-li Đô-brư-nin một con người nhạy cảm chính trị đã thường xuyên gặp gỡ Kít-sinh-gơ, ông ta đã cân nhắc mức độ trong quyết sách của Kít-sinh-gơ để có sự phán đoán về cá nhân Kít-sinh-gơ. Trong bức thư gửi Ngoại trưởng Grô-mư-cô và Bộ Chính trị, ông ta đã miêu tả Kít-sinh-gơ là "con người thông minh, khôn ngoan, học rộng, nhưng lại rất tự phụ và không tìm cách che giấu ảnh hưởng của mình". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để chứng minh về sự tự phụ của Kít-sinh-gơ, Đô-brư-nin đã viết: "Chỉ có hai con người bất kỳ lúc nào cũng biết rõ, biết chính xác lập trường của Mỹ trên vấn đề này hay vấn đề khác. Đó là Ních-xơn và Kít-sinh-gơ". Cho dù thế nào chăng nữa, Đô-brư-nin tin ở cơ sở lý luận có chiều tâng bốc đó: Trong Nhà Trắng, Kít-sinh-gơ có một vai trò quan trọng, và sức mạnh ảnh hưởng của ông ta trong lĩnh vực chính sách ngoại giao là tuyệt đối”. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nếu như Ních-xơn và Kít-sinh-gơ với ý chí cứng rắn điều khiển chính sách của Mỹ, thì tất cả hành động của Chính phủ cũng đạt tới mục đích cuối cùng. Ví dụ, năm 1969, trong cương vị Tổng thống, Ních-xơn lần đầu tiên tiến hành cuộc thăm châu Âu và đã hiểu được nguyên lý chính sách ngoại giao của họ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Do bất đồng trong cuộc đàm phán về Hiệp ước ngăn ngừa phổ biến hạt nhân và sử dụng vũ khí hạt nhân, quan hệ Mỹ-châu Âu đã xấu đi. Châu Âu tỏ vẻ nghi ngờ về vai trò sen đầm quốc tế mà Ních-xơn từng đề cập. Vì thế, Ních-xơn đã phải cam kết: xác định quan hệ Mỹ-châu Âu, và đầu tư cho NATO (Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây dương.). </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Anh Uyn-sơn, Ních-xơn đảm bảo rằng cho dù "vai trò lãnh đạo của Mỹ có sa sút nhưng nước Mỹ vẫn là một quốc gia rất mạnh và có phạm vi ảnh hưởng to lớn, nó sẽ đảm bảo cam kết hỗ trợ châu Âu”. Ních-xơn hứa với Uyn-sơn rằng, ông ta không "run sợ” trước sách lược của Mát-xcơ-va được nâng cao. Bởi Oa-sinh-tơn nắm giữ trong tay "đầy đủ” sức mạnh răn đe hạt nhân. Nói một cách khác, cho dù Liên Xô có bất ngờ tấn công Mỹ, Mỹ cũng có đủ sức mạnh hạt nhân để giáng trả. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để làm yên lòng các nước Đồng minh trong khối NATO, Ních-xơn đã đề ra sách lược cơ bản cho một chính sách đối ngoại: Thông qua việc kiềm chế Liên Xô để giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam, nhằm tới SALT (Hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược.) và các mục tiêu khác. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cho dù, Ních-xơn có đầy đủ lý do tin vào vũ khí hạt nhân của Mỹ, nhưng trong cuộc mật đàm với đại diện thường trực của NATO, ông ta nêu rõ cần thiết có SALT để "giảm bớt sự nguy hại đối với hoà bình" nhấn mạnh đến sự kiểm soát vũ khí, coi đó là thuốc an thần cho cuộc đối đầu giữa các lực lượng siêu cường.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Năm 1967-1968, Giôn-sơn coi việc từ bỏ kiểm soát vũ khí là bước đi cho quan hệ hoà hoãn cho dù thế nào chăng nữa, Ních-xơn cũng không vội vàng bắt đầu đàm phán cũng không chịu nhẹ dạ ký SALT để có đàm phán, mà phải tiến theo tuần tự, ông ta không muốn gây cảm giác "Phương Tây yên ổn", hoặc ám chỉ "sự hòa hoãn không có hoà hoãn". Bởi vì trong khi vấn đề chính trị quan trọng, chiến tranh Việt Nam, khủng hoảng Trung Đông chưa được giải quyết, thì làm như vậy, chỉ đem lại nguy hiểm, cho Liên Xô. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để có thể kiềm chế Liên Xô ở mức tối đa, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ chủ trương nêu ra khái niệm "Liên hợp", có nghĩa là cần thận trọng trong khi tiếp xúc với một quốc gia, nhằm đảm bảo sự nhất trí trong mục tiêu chính trị. Đối với châu Âu, Ních-xơn không công khai sử dụng khái niệm "Liên hợp" bởi tính phức tạp trong điều khiển của nó. Nhưng tất nhiên ông ta coi đó là công cụ chính trị để thúc ép Liên Xô tác động đến sự kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam và giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Ả-rập-It-xra-en. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn luôn bày tỏ ngầm thái độ lạc quan của ông ta và Kít-sinh-gơ, bởi Liên Xô có đủ sức mạnh để tác động đến Hà Nội, có khả năng làm cho cuộc chiến Việt Nam sớm chấm dứt. Tương tự như vậy, Ních-xơn nói với Uyn-sơn rằng, ông ta tin Liên Xô muốn sớm đạt thỏa thuận về SALT hơn cả ông ta. Nói một cách khác, ở chừng mực nào đó, Oa-sinh-tơn có tác dụng đòn bẩy đối với Mát-xcơ-va. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy nhiên nhận thức được Liên Xô có khả năng nới lỏng đối đầu trong tình hình mới, nhưng với tư tưởng chống cộng thâm căn cố đế, Ních-xơn vẫn coi Liên Xô là đối thủ nguy hiểm. Ních-xơn tin rằng, Liên Xô chỉ là "kẻ hiếu chiến" ba hoa, đồng thời coi việc làm yếu và phân tán lực lượng của NATO là một mục tiêu chính trị. Cho dù Liên Xô không thay đổi "trung tâm" của họ, nhưng ông ta đoán rằng một số nhân tố khiến cho Mát-xcơ-va phải thay đổi suy nghĩ" về sức mạnh của Tây Âu, về đám mây hạt nhân đang lơ lửng trên đầu và sự coi thường Trung Quốc. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn có ý đồ dò tìm khả năng và thái độ mới của Brê-giơ-nhép và người lãnh đạo Liên Xô khác. Nhưng trong lúc đó NATO cần đảm bảo sức mạnh quân sự "đáng tin cậy" nhằm răn đe Mát-xcơ-va. Rõ ràng, Ních-xơn không hoàn toàn thành thật với các Đồng minh ở châu Âu, tuy rằng ông ta từng nói bóng nói gió rằng, "Sự uy hiếp đối với nền hoà bình" nói lên tính bức bách của cuộc đàm phán về SALT. Nhưng ông ta lại cho rằng chưa cần thiết, và mong rằng không chỉ có Liên Xô lo ngại về "đám mây hạt nhân". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cuối năm 1970, Ních-xơn đã thẳng thắn nói với Ét-uốt Héc người kế nhiệm của Uyn-sơn rằng: "Hiện nay, vấn đề làm tôi suy nghĩ là thay đổi sự cân bằng chiến lược... Thời kỳ tách khỏi vũ khí hạt nhân đã đến. Nếu Mỹ thực hiện kế hoạch chiến tranh hạt nhân, sẽ có 50 đến 60 triệu người chết. Để việc tách khỏi vũ khí hạt nhân có kết quả, Mỹ phải dùng đàm phán để thay thế chiến tranh lạnh". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Bằng một giọng chậm chạp, Ních-xơn bày tỏ rằng: thời gian đầu lên cầm quyền, ông ta không có ý tưởng to lớn về hòa hoãn, cho dù ông ta tin rằng đàm phán là con đường quan trọng nhất. Cho dù ra sao, cuộc thảo luận thẳng thắn về "Liên hợp" cho thấy Ních-xơn và Kít-sinh-gơ đang thiết kế một khung tư tưởng, để hướng dẫn quan hệ Mỹ-Xô phát triển. Trên một chừng mực nào đó, họ coi "Liên hợp" là sự tiến bộ trên một loạt vấn đề, trong đó có vấn đề Việt Nam, vấn đề SALT hoặc vấn đề Béc-lin. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đó cũng là điều kiện tiên quyết để nới lỏng sự đối đầu với Liên Xô, và hơn thế nữa, "Liên hợp" còn có nghĩa Ních-xơn và Kít-sinh-gơ có ý định dùng biện pháp kích thích và trừng phạt (củ cà rốt và cái gậy) để khích lệ Liên Xô hành động theo nguyên tắc quốc tế ổn định, thậm chí còn ủng hộ nếu Liên Xô giữ được sự ổn định đó.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Vì vậy, mùa thu năm 1973, Kít-sinh-gơ nói, mục đích hoà hoãn không phải để thay đổi tôn chỉ cơ bản của Mát-xcơ-va, hoặc thay đổi thể chế chính trị tàn bạo của họ, mà nhằm xây dựng một cơ cấu quan hệ quốc tế, khiến Mát-xcơ-va "cố gắng hơn để đeo đuổi sự nghiệp hòa bình, chứ không phải chiến tranh". ông ta dự đoán, nếu hoà hoãn duy trì với thời gian đủ dài, thậm chí Liên Xô có thể phát triển "lợi ích với phương Tây", lợi ích chính trị kinh tế đem lại qua hợp tác, điều đó sẽ không thay đổi nhiều tư tưởng của họ, mà chỉ làm thay đổi những tính toán mạo hiểm mỗi lần đưa ra quyết định khó khăn. Trong tình trạng đó, Liên Xô sẽ bắt đầu tự kiềm chế việc sử dụng ảnh hưởng của mình. Nói theo cách của Kít-sinh-gơ, Liên Xô sẽ trở thành thành viên hợp pháp trong hệ thống quốc tế. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nếu như Ních-xơn nói, Việt Nam là mục tiêu trung tâm trong phương thức "Liên hợp" mà ông ta áp dụng ngay từ đầu thì các cuộc nói chuyện của ông ta với quan chức NATO cho thấy, ông ta cũng như Kít-sinh-gơ chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về việc kết thúc chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến Việt Nam là một mặt trong quan hệ đối ngoại của Mỹ, cũng là tiêu điểm của cuộc. khủng hoảng chính trị trong nước. Vì vậy, cần kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam, và Ních-xơn còn cho rằng, thắng hay bại trong cuộc bầu cử giành ghế Tổng thống lần nữa phụ thuộc vào cuộc chiến Việt Nam có được giải quyết hay không? </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Như Đô-brư-nin đã nói với Kít-sinh-gơ sau đó vài tháng rằng: "Đối với Ních-xơn, một vấn đề trong chính sách ngoại giao là làm thế nào tìm được lối thoát để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam trong điều kiện có thể chấp nhận được". Mấu chốt là "điều kiện có thể chấp nhận được". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cuối năm 1973, theo Kít-sinh-gơ, cuộc chiến cần được giải quyết bằng một phương thức nhất định, nếu không có cơ hội khác. Tất cả mọi sự sắp xếp về "sự trả giá của Chính phủ được chúng ta chỉ đạo trong sáng tạo" đều được cân nhắc kỹ lưỡng. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Số phận của chính quyền Sài Gòn là vấn đề cần được công khai. Nhưng cả Ních-xơn và Kít-sinh-gơ đều bác bỏ việc thừa nhận sự sụp đổ chính thức của chính quyền này trong Hiệp định hòa bình. Họ cho rằng làm như vậy sẽ giảm độ tin cậy đối với sức mạnh của Mỹ, dẫn đến tình trạng hỗn loạn của cả vùng Đông Nam Á, đặt Chính phủ vào chỗ khó bề phòng thủ, cuối cùng làm cho "các cơ hội khác" như quan hệ với Bắc Kinh hoặc Liên Xô khó bề xác lập. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Hoà bình mà Ních-xơn cam kết không giữ được lâu so với các tiền nhiệm, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ cũng không khôn ngoan hơn, để tỏ rõ "độ tin cậy" của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, một sự hướng dẫn sai lầm, cố chấp đã khiến cuộc chiến kéo dài 4 năm, dẫn đến hàng loạt biến cố không thể kiểm soát, những bi kịch và sự công phẫn trong nước. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Như Ních-xơn dự đoán, chính sách "Liên hợp" mà ông ta và Kít-sinh-gơ xây dựng làm cho vấn đề Việt Nam, vấn đề SALT và vấn đề Béc-lin đan xen vào nhau, khiến cho quan hệ Mỹ-Xô phát triển chậm chạp. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cuộc đàm phán về SALT bắt đầu từ mùa thu năm 1969, nhưng cho đến năm 1970, hai bên đều không nêu ra được một ý kiến nào có tính xây dựng. Ních-xơn hy vọng cuộc chiến Việt Nam kết thúc "càng sớm càng tốt”, nhưng hàng loạt vấn đề đọng lại trong quan hệ ngoại giao, sức ép của quân đội (như vấn đề bí mật ném bom Cam-pu-chia) và ý muốn của Ních-xơn để đạt được một Hiệp định, lại khiến cuộc chiến tiếp tục kéo dài.</span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn nhiều lần nêu yêu cầu với Đô-brư-nin, nhưng sự trợ giúp của Mát-xcơ-va là rất nhỏ bé, bởi ảnh hưởng của Liên Xô đến người Việt Nam là có hạn. Theo giả thiết về cuộc chiến tranh lạnh cổ truyền, Hà Nội đặt dưới sự chi phối của Mát-xcơ-va. Ních-xơn và Kít-sinh-gơ đã quy trách nhiệm cho phía Liên Xô là không chịu hợp tác. Năm 1970, họ đã công khai tuyên bố rằng, do Mát-xcơ-va thất bại trong việc tác động một cách có hiệu quả đối với Hà Nội, khiến "quan hệ của chúng ta với Liên Xô trở nên không sáng sủa".</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Ních-xơn và Kít-sinh-gơ cho rằng, để buộc Liên Xô phải hợp tác cần thực hiện “kiềm chế mạnh hơn". Và năm 1970, họ thi hành đường lối cứng rắn. Mùa thu năm 1970, Liên Xô đã gây ra "cuộc khủng khoảng nhỏ" về việc đưa thiết bị lặn vào Cu Ba. Kít-sinh-gơ đã cảnh cáo Đô-brư-nin bằng thái độ cứng rắn, ông ta nói: "Liên Xô đang đứng ở bước ngoặt trong quan hệ với chúng tôi". "Liên Xô có trách nhiệm quyết định là chúng tôi đi tới hoà hoãn hay đối kháng". </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy rằng, sau này ông ta tuyên bố một đường lối không có triển vọng đã dẫn đến "sự thay đổi trong chính sách của Liên Xô", ông ta hiểu rằng cần phải có hành động bí mật tương tự đối với Trung Quốc. Tuy rằng, các quan chức Nhà Trắng tin rằng Liên Xô rất cần giải quyết vấn đề Việt Nam. Tuy nhiên, họ đã không chỉ dựa vào sự trợ giúp của Liên Xô viện trợ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ biết rằng, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam kinh tế và quân sự. Sau này, ông ta viết rằng, Nhà Trắng đi tìm một nguyên nhân mà Trung Quốc tiến hành mở cửa là "họ muốn cùng với Hà Nội, thúc đẩy vấn đề Bắc Việt Nam được giải quyết hợp lý nhằm kết thúc cuộc chiến ở Đông Dương". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Năm 1969, Ních-xơn đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy quan hệ Trung-Mỹ. ông ta nhờ Sác-lơ Đờ-gôn nhắn cho người lãnh đạo Trung Quốc một thông tin rằng: "Bất luận thế nào, Mỹ sẽ rút quân ở Việt Nam". Hiểu được sự lo ngại của Bắc Kinh đối với sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ ở Đông Nam Á, Ních-xơn tỏ rõ bắt đầu ngay cuộc rút quân, và ông ta không muốn xung đột với Trung Quốc trên vấn đề Việt Nam, mà chỉ hy vọng từng bước lái được Trung Quốc đi đến một Hiệp định, và chịu hợp tác với Oa-sinh-tơn. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tuy vậy, Việt Nam cũng chỉ là một nhân tố để Chính phủ Mỹ khôi phục lại quan hệ bang giao bị cắt dứt 20 năm với Trung Quốc. Do Mao thiếu kinh nghiệm với Trung Quốc và cuộc đại cách mạng văn hóa, kinh tế Trung Quốc đi dần vào suy thoái. Người lãnh đạo nước Mỹ không coi Trung Quốc là "mô hình" phát triển xã hội mang tính uy hiếp, cần phải tách rời khỏi diễn dàn quốc tế và hệ thống thương nghiệp phương Tây. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong năm 1969, khi phát hiện Trung-Xô mâu thuẫn, các cuộc tranh chấp trên thế giới leo thang, Ních-xơn cho rằng đã đến lúc mở của cho Bắc Kinh, và cảnh cáo Liên Xô không nên uy hiếp Trung Quốc. Ở mức độ nào đó, Ních-xơn cho rằng, khôi phục quan hệ bang giao với Trung Quốc sẽ xua đi mối lo ngại của các quốc gia châu Á đối với sự hòa hoãn Mỹ-Xô. Ông ta nói với Kít-sinh-gơ và Đại sứ Mỹ ở Ba Lan rằng, nếu Mỹ-Xô quá gần nhau, các nước Đông Á sẽ nghi ngại Mỹ-Xô "âm mưu đối phó với Trung Quốc". Như vậy sẽ "hỏng bét". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn cho rằng, nếu Mát-xcơ-va lớn mạnh đến mức có thể "kiểm soát Trung Quốc về chiến lược sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn". Theo chính sách "mở cửa" của Ngoại trưởng Jôn-hây, Ních-xơn cho rằng ủng hộ toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc sẽ khiến Trung Quốc giữ vững lực lượng độc lập để chống lại chính sách nước ngoài là rất quan trọng. Nếu không, như ông ta từng nhấn mạnh với Kít-sinh-gơ rằng: "Một liên minh Trung-Xô mới sẽ uy hiếp hoà bình thế giới". </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cuộc đối đầu Trung-Xô đi vào-giai đoạn căng thẳng nhất. Cả Ních-xơn và Kít-sinh-gơ đều nhìn thấy cái lợi của họ từ trong sự đối đầu này. Họ đều tin rằng, mặc dù Trung Quốc rất không hài lòng về chính sách của Mỹ, nhưng sự lo ngại về sự uy hiếp của Liên Xô, khiến Bắc Kinh phải tìm đến hợp tác với Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ không thích thú trước quan hệ Trung-Xô tiến triển. Nhưng ông ta tin rằng có thể tăng cường sức mạnh của Mỹ, Mỹ sẽ có sức "kiềm chế mạnh hơn đối với Mát-xcơ-va, và thúc đẩy Liên Xô “phải xây dựng với Mỹ một quan hệ mang tính xây dựng”, Oa-sinh-tơn hiểu rõ Trung Quốc "không tin vào" Liên Xô. Như vậy lập nên một cân bằng mới sẽ mở rộng chính sách kiềm chế, không những thế còn khiến cho Chính phủ Trung Quốc của Mao trở thành một thành viên hợp pháp trong hệ thống thế giới, và Liên Xô không chỉ lo ngại về quan hệ Trung-Xô, mà còn cảm nhận được sức ép phải cải thiện quan hệ với Mỹ".</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Ních-xơn và Kít-sinh-gơ buộc phải mở cửa đối với Trung Quốc, còn có nhiều nguyên nhân khác. Do Mỹ bị sa lầy ở Đông Nam Á và cuộc chiến tranh lạnh khiến Mỹ không thể bỏ qua khả năng một ngày nào đó "do tính toán sai lầm" dẫn đến Trung-Mỹ đánh nhau. Triều Tiên trong chia cắt là một thùng thuốc súng, Nhật Bản vững mạnh lên về kinh tế cũng lo ngại vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, trong khi đó Trung Quốc cũng lo ngại chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đang sống trở lại. Trung Quốc vẫn là "kẻ yếu về chiến lược và dễ bị tổn thương", và trước khi Trung Quốc “có thể trực tiếp uy hiếp nền an ninh của Mỹ bằng vũ khí chiến lược", Ních-xơn và Kít-sinh-gơ muốn xây dựng với Bắc Kinh "mối quan hệ tích cực", nhằm làm dịu tình hình Đông Á. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trước ba ngày Kít-sinh-gơ tới Bắc Kinh, ngày 6-7-1971 tại bang Kan-xát, Ních~xơn đọc bài diễn văn nổi tiếng, đã hỗ trợ cho bản phân tích của trợ lý an ninh quốc gia của ông ta, về hướng dẫn, giảm bớt sự kiểm soát trung gian và Ních-xơn đã dự kiến sức mạnh và sức cạnh tranh trong kinh tế của Mỹ trong một thế giới đa cực, ông ta nhận thấy rằng sức mạnh của Mỹ đang yếu đi, nhưng bất luận tình hình ra sao cũng phải giữ được "vai trò chủ đạo" của Mỹ trong thị trường thế giới. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để tâng bốc Mao và Chu (đã nhanh chóng biết được bài diễn văn), Ních-xơn đã không ngần ngại coi Trung Quốc là cường quốc kinh tế. Để ngăn ngừa Trung Quốc bị "cô lập" và mất đi mối liên hệ với Mỹ, Ních-xơn nhấn mạnh: "Cánh cửa nhất định phải mở ra", phải bình thường hóa quan hệ giữa Bắc Kinh và Oa-sinh-tơn, cho dù Trung Quốc có trở thành cường quốc kinh tế hay không, trong một thế giới mà công nghiệp và thương nghiệp nhanh chóng phục hồi, Ních-xơn, không thể mạo hiểm tách nước Mỹ ra khỏi khu vực có tiềm lực phát triển kinh tế to lớn này. Nhưng ông ta cũng không thể nói thẳng như vậy, nhằm tránh gây ra sự chống lại chủ nghĩa đế quốc của Bắc Kinh. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Như trong một bài viết đã nêu rõ, "Quan hệ Trung-Mỹ hoà hoãn không phải do trời quyết định". Cho dù thời gian từ 1969 đến 1970, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ tiến hành nhiều chuyến thăm ngoại giao và thăm với tư cách cá nhân, nhưng trong biểu hiện của họ, mọi chuyện đều không phải hài hoà. Ví dụ, năm 1969, trong lời phát biểu, Ních-xơn nêu lên Trung Quốc là "sự đe dọa lớn nhất" đối với hoà bình thế giới, có khả năng sẽ kéo dài, hoặc làm rối loạn tiến trình khôi phục bang giao. Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện "đối đầu kép" với Mỹ và Liên Xô. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Từ năm 1969 đến 1970, thuộc hạ của Mao đã thận trọng thảo luận vấn đề sự đe doạ ngang nhau của Mỹ và Liên Xô. Tuy vậy Mao và Chu đều cho rằng có khả năng và cần thiết khôi phục quan hệ với quốc gia trước đây là kẻ thù. Song cho đến tận Hội nghị Lư Sơn mùa hè năm 1970, Mao mới tuyên bố việc này. Khi Mao thông báo với mọi người ông ta có cuộc mật đàm với Oa-sinh-tơn, và đã chấp nhận đề nghị của một đại diện Oa-sinh-tơn về chuyến thăm Trung Quốc các cán bộ lãnh đạo trong Đảng đều vô cùng sửng sốt. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Nhưng cuộc tấn công của Mỹ chống Cam-pu-chia làm gián đoạn cuộc đàm thoại Trung-Mỹ, mãi cho đến cuối năm đó, hai bên mới trở lại quỹ đạo. "Ngoại giao bóng bàn" của Bắc Kinh năm 1971 làm chẤn Động cả thế giới. Trong thời gian diễn ra giải bóng bàn thế giới tại Nhật Bản, đội bóng Trung Quốc mời đội bóng Mỹ tới Trung Quốc. Điều mang nhiều kịch tính hơn là Bắc Kinh và Oa-sinh-tơn đã đạt được thỏa thuận về vấn đề quan trọng cho chuyến thăm bí mật của Kít-sinh-gơ và Ních-xơn. Cho dù cuộc nói chuyện giữa Kít-sinh-gơ với Chu năm 1971 còn giữ bí mật, khi Ních-xơn và người Trung Quốc tuyên bố Ních-xơn sẽ thăm Trung Quốc, thì quan hệ cam kết của họ đã trở thành công khai. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ và Ních-xơn cho rằng, hành động đáng kinh ngạc của họ nhằm thay đổi cân bằng sức mạnh đáng được đền đáp. Trong mấy tuần diễn ra chuyến thăm Trung Quốc của Ních-xơn, bỗng nhiên Liên Xô tỏ ra cực kỳ linh hoạt về lịch gặp gỡ của Ních-xơn với Brê-giơ-nhép tại Mát-xcơ-va và tìm cách kết nối với các vấn đề khác như vấn đề Béc-lin.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Bị kích thích bởi Oa-sinh-tơn và Bắc Kinh, Liên Xô đã đồng ý để Ních-xơn viếng thăm Mát-xcơ-va vào tháng 6 năm 1972, sau khi cân nhắc mối quan hệ giữa Pakixtan, đồng minh của Trung Quốc với Ấn Độ, người bị coi là đại diện cho Liên Xô. Ních-xơn và Kít-sinh-gơ tiếp tục gây sức ép với Liên Xô nhân cuộc chiến tranh Nam Á nổ ra vào tháng 11/1971. Bằng cách phát tín hiệu cảnh cáo Mát-xcơ-va và Niu Đê-li, cả hai người đều muốn chứng minh với Trung Quốc về độ tin cậy của họ và nó được coi là mở màn cho cuộc nói chuyện với Chu và Mao. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Chuyến thăm của Ních-xơn tới Bắc Kinh và Mát-xcơ-va năm 1972 được giới báo chí ca ngợi như một sự tích thần kỳ tại Trung Quốc. Ních-xơn cùng với Mao và Chu cùng ký bản thông cáo Thượng Hải, đôi bên đều chống lại "bá quyền", (chỉ Liên Xô). Mỹ chính thức xác nhận phải chống lại Liên Xô và rút quân đội ra khỏi Đài Loan. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong lần tái tranh cử Tổng thống, Ních-xơn ba hoa rằng: Chuyến thăm Trung Quốc là "một tuần lễ biến đổi thế giới". Sau đó mấy tháng, Ních-xơn gặp Brê-giơ-nhép tại Mát-xcơ-va và đi đến thỏa thuận quan trọng về nguyên tắc vấn đề SALT, ABMR (Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo.) và quan hệ Mỹ-Xô. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Để thúc đẩy cho sự sắp đặt này, Ních-xơn đã đưa ra những ngôn từ hoa mỹ. Trong báo cáo gửi Quốc hội sau khi về nước, ông ta tuyên bố "Chúng ta đã nhìn thấy sự mở đầu của một kỷ nguyên mới", "đó là một kỷ nguyên trong đó biết bao nhiêu người phải sống dưới đám mây đen hạt nhân sẵn sàng bùng nổ bởi cuộc chạy đua vũ trang". Và để giảm mức độ phổ biến vũ khí hạt nhân, chúng ta bắt đầu giảm mức độ sợ hãi bằng cách giảm các nhân tố làm chúng ta sợ hãi. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cho dù sau đó vài năm, việc ba hoa quá mức về hoà hoãn Mỹ-Xô đã gây khó khăn cho các kiến trúc sư Xô-Mỹ nhưng chính quyền Ních-xơn đã có một bước tiến quan trọng trong việc lập nên thế cân bằng mới về lực lượng quốc tế. Cuộc đàm phán với Mát-xcơ-va đã xác định phương thức làm dịu cuộc cạnh tranh Mỹ-Xô, công lao đó thuộc về Ních-xơn trong mục tiêu cân bằng sức mạnh. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Căn cứ vào Hiệp ước ABM, các siêu cường đã dừng lại cuộc chạy đua về hệ thống chống tên lửa; nhưng theo Hiệp định SALT, Chính phủ Ních-xơn có thể kiểm soát hệ thống tên lửa, và giữ được ưu thế về đầu đạn hạt nhân. Cứ cho là Ních-xơn và Kít-sinh-gơ cùng phủ định giá trị "nguyên tắc cơ bản về quan hệ Mỹ-Xô" mà Ních-xơn đã ký, văn kiện này đã xác lập việc giám sát cuộc chạy đua của các siêu cường, trong đó bao gồm cả vấn đề chung sống hòa bình, chủ quyền bình đẳng, không can thiệp nội bộ của nhau và biện pháp chế ước lẫn nhau, tránh không để xảy ra khủng hoảng. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ không quan tâm nhiều đến vấn đề chính sách kinh tế, nhưng thời gian đầu khi ông ta bắt đầu sự nghiệp, có vấn đề kinh tế từ hai phía. Oa-sinh-tơn cần mở rộng xuất khẩu để cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, còn Mát-xcơ-va cần hiện đại hóa nền kinh tế nhưng thiếu lương thực, đó là động lực mạnh mẽ cho hoà hoãn, nhất trí với chính sách liên hợp. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Cho đến khi quan hệ hai bên đi vào hoà hoãn, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ mới chịu chia sẻ lợi ích kinh tế với Liên Xô. Và kết quả kéo theo là nó đã trở thành động lực buộc Liên Xô phải xét lại chính sách đối ngoại của mình. Sau chuyến thăm Mátxcơva của Ních-xơn không lâu, Chính phủ Mỹ đã thực hiện cam kết cho vay tín dụng nông nghiệp để Liên Xô mua vài triệu đô la lương thực của Mỹ. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Tháng 10/1972, Oa-sinh-tơn ký với Liên Xô một Hiệp định thương mại rộng rãi và một Hiệp định viện trợ sau chiến tranh, dành cho Liên Xô được hưởng quy chế tối huệ quốc trong xuất khẩu. Mỹ còn cam kết thực hiện cho Liên Xô vay vốn ngân hàng để xuất khẩu với số lượng lớn đối với mặt hàng công nghiệp xuất khẩu của Mỹ. Các điều khoản trên đi vào thực hiện mang lại ý nghĩa to lớn cho quan hệ hoà hoãn hai bên trong vài năm sau đó.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;">Đồng bộ với Mỹ-Xô hòa hoãn, Liên Xô cũng đã hòa hoãn với Tây Âu trong đó Tây Đức đóng vai trò then chốt. "Chính sách Đông tiến" của Tây Đức đem lại động lực quan trọng: Ních-xơn và Kít-sinh-gơ cần phát triển mối quan hệ hoà hoãn với Liên Xô, bởi họ ngày càng lo ngại chính sách ngoại giao của Bộ trưởng Tây Đức Bran sẽ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, và biến nước Cộng hòa Dân chủ Đức thành "Phần Lan". Như vậy, ảnh hưởng của Mỹ sẽ mất đi hoặc sa sút nghiêm trọng. </span><br style="margin-top: 0px; text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Do tác động của "kênh ngầm" (Kít-sinh-gơ), một sự phát triển mấu chốt đã được hình thành, tức Hiệp định 4 bên về Béclin. Hiệp định này đã ổn định mối quan hệ của phương Tây với Béc-lin và khiến thành phố chia năm sẻ bảy này không còn là tiêu điểm đối đầu giữa các siêu cường. Nếu xét về tầm quan trọng của Hiệp định, nó thúc đẩy Nhà Trắng chấp nhận Hội nghị cấp cao tại Mát-xco-va, và làm tăng lợi ích hai bên trong nền an ninh châu Âu và trong cuộc đàm phán đa phương về lực lượng ở Trung Đông. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đi đến Hội nghị an ninh châu Âu về kế hoạch hoạch định biên giới sau chiến tranh là mong muốn của Liên Xô. Một mặt, Oa-sinh-tơn ủng hộ MBFR (Đàm phán giải trừ quân bị cân bằng lẫn nhau năm 1973-1986.) nhằm gây sức ép với Quốc hội để rút quân khỏi Tây Âu. Đối với Ních-xơn và Kít-sinh-gơ, "luật tu chính Men-fin" của NATO dẫn đến nhiều nguy cơ; Còn Brê-giơ-nhép lại càng lo ngại hơn về điều đó bởi quân Mỹ rút khỏi Tây Đức sẽ ảnh hưởng tới vai trò của quân Đức tại châu Âu. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Trong Hội đàm cấp cao năm 1972, Ních-xơn và Brê-giơ-nhép đồng ý đàm phán về MBFR thông qua Hội nghị Hợp tác và an ninh châu Âu (CSCE) Hội nghị này được mở màn bằng cuộc họp sơ bộ vào tháng 11 tại Hen-xin-ky và cuộc đàm phán về MBFR được tổ chức vào tháng 1/1973 tại Hà Nội. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Kít-sinh-gơ đã không ngần ngại coi CSCE là "thất bại của phương Tây, bởi đó là một liên minh yếu ớt sinh ra trong thời kỳ ảo tưởng", ông ta coi đó là cái giá phải trả cho cuộc đàm phán quan trọng về MBFR, nhằm đảm bảo an toàn cho quân Mỹ đóng ở châu Âu, Ních-xơn và Kít-sinh-gơ đã đưa ra một giải pháp về Việt Nam. Đó là động cơ ban đầu của họ nhằm tiếp xúc với Bắc Kinh và Mát-xcơ-va. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Mùa hè năm 1972, sau vài tháng có cuộc nói chuyện với Mao và Brê-giơ-nhép, họ quyết định giữ "chính quyền Nguyễn", Mỹ tiếp tục trả một cái giá lớn về xương máu và tiền bạc, nhằm buộc Hà Nội chấm dứt đối đầu với Oa-sinh-tơn. Nếu Hà Nội tạm thời chấp nhận hòa hoãn, thì lẽ ra Mỹ phải chấp nhận Bắc Việt Nam đóng quân ở miền Nam. Nhưng cho dù thế nào chăng nữa, thì ảnh hưởng của Mỹ đối với Nam Việt Nam đã chấm dứt vào tháng 1/1973. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Giải quyết vấn đề Việt Nam là mục đích chủ yếu của Ních-xơn và Kít-sinh-gơ ngay trong thời kỳ đầu hoà hoãn với Liên Xô và lập lại bang giao với Trung Quốc. Nhưng sự thực phức tạp hơn nhiều, chạy đua với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh và tăng cường vai trò trung tâm của Mỹ trong nền chính trị thế giới, là hai nguyên nhân cơ bản để Nhà Trắng thúc đẩy quan hệ với hai cường quốc cộng sản. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Đặt chính sách kiềm chế chiến tranh lạnh trên một cơ sở mới, Chính phủ Ních-xơn theo đuổi một sự cân bằng trên cơ sở Trung-Xô xa lánh nhau, một mặt hợp tác với Liên Xô, mặt khác lại ngầm nghiêng về phía Trung Quốc, và đảm bảo bất kỳ bên nào cũng không có được quan hệ thân mật hơn so với các nước Đồng minh của Mỹ ở châu Á và châu Âu. Ních-xơn và Kít-sinh-gơ không ảo tưởng về khôi phục và cải thiện quan hệ với quốc gia đối địch nhau về chính trị và tư tưởng trong mấy chục năm qua. </span><br style="text-align: left;" /><br style="text-align: left;" /><span style="text-align: left;">Ních-xơn và Kít-sinh-gơ có khuynh hướng chống cộng của họ, hơn thế nữa lực lượng chính trị to lớn trong nước cung đang gây ảnh hưởng đối với Liên Xô, và đang lo ngại phải chăng Mỹ đang đi quá xa trong chính sách mềm mỏng đối với Bắc Kinh. Vì thế, biên bản đã ghi lại sự thật về khó khăn khi khôi phục lại bang giao với Bắc Kinh và Mát-xcơ-va, vạch rõ sự thật chua chát về Mỹ-Xô hòa hoãn và quan hệ Trung-Mỹ dẫm chân tại chỗ ở những năm 70.</span></div>
<div style="margin: 0px; padding: 0px; text-align: justify;">
<span style="text-align: left;"><br /></span></div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-36523875782863212902013-07-31T01:06:00.000-07:002013-07-31T01:06:04.038-07:00Nhật Bản công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013<h1 style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 26px; margin: 0px; padding: 0px;">
<a href="http://www.ngoaigiao.net/2013/07/09/nhat-ban-cong-bo-sach-trang-quoc-phong-nam-2013/" rel="bookmark" style="color: #ca0002; font-size: 33px; font-weight: normal; line-height: 1.2; margin: 0px 0px 7px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="Permanent Link to Nhật Bản công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013">Nhật Bản công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013</a></h1>
<div>
<br /></div>
<div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Ngày 9/7, Nhật Bản đã công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013 sau khi được thông qua tại cuộc họp nội các giữa Thủ thướng Shinzo Abe và các bộ trưởng. </strong></div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Đây là Sách Trắng Quốc phòng đầu tiên được ban hành dưới thời chính quyền của Thủ tướng Shinzo Abe, trong đó đặc biệt</div>
<div class="wp-caption alignright" id="attachment_294" style="background-color: #efefef; color: #252324; float: right; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 22px; margin: 0px 0px 5px 15px; max-width: 100%; padding: 5px; width: 310px;">
<img alt="Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. (Nguồn: AFP)" class="size-full wp-image-294" height="225" src="http://i0.wp.com/www.ngoaigiao.net/ngoaigiao/wp-content/uploads/2013/07/Abe.jpg?resize=300%2C225" style="border: 0px; height: auto; margin: 0px; max-width: 100%; padding: 0px; width: auto;" width="300" /><div class="wp-caption-text" style="color: #a7a3a3; font-size: 11px; line-height: 1.8; padding: 4px 0px 0px; text-align: center;">
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. (Nguồn: AFP)</div>
</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
nhấn mạnh những quan ngại về các hành động hàng hải mạnh mẽ của Trung Quốc và chương trình hạt nhân tranh cãi của Triều Tiên.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Sách Trắng Quốc phòng năm 2013 gồm 450 trang, nhấn mạnh những lo ngại của Tokyo về việc gia tăng các hoạt động hàng hải tiềm ẩn nguy hiểm của Trung Quốc, nhất là việc Bắc Kinh xâm phạm lãnh hải và vùng trời Nhật Bản. Sách Trắng cũng chỉ trích Bắc Kinh thiếu hợp tác và giải thích không đúng sự thật sau vụ một tàu chiến Trung Quốc khóa radar tàu khu trục của Lực lượng Phòng vệ Bờ biển Nhật Bản hồi tháng Một; đồng thời hối thúc Bắc Kinh hành động theo luật pháp quốc tế, thay vì sử dụng vũ lực.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Sách Trắng cũng bày tỏ lo ngại về chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên, cho rằng việc Bình Nhưỡng phát triển các tên lửa đạn đạo có thể vươn tới nước Mỹ là minh chứng cho thấy chương trình này đã bước vào giai đoạn phát triển mới.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Ngoài ra, Sách Trắng cũng đề cập đến chủ đề an ninh mạng, trong đó nêu rõ Nhật Bản cần tăng cường khả năng đối phó với các cuộc tấn công mạng đang ngày càng trở nên tinh vi. Bên cạnh đó, Sách Trắng cũng cho biết chính phủ của Thủ tướng Abe đang lên kế hoạch biên soạn các nguyên tắc chỉ đạo trong lĩnh vực quốc phòng nhằm đưa ra định hướng dài hạn cho chính sách quốc phòng vào cuối năm nay, đồng thời xem xét khả năng cho phép Nhật Bản tấn công ngăn chặn trong trường hợp phải đối mặt với đe dọa về tên lửa đạn đạo.<br style="margin: 0px; padding: 0px;" /><a href="http://www.vietnamplus.vn/Home/Nhat-Ban-can-nhac-thanh-lap-don-vi-tai-chiem-dao-xa/20136/201795.vnplus" style="color: #004276; margin: 0px; padding: 0px; text-decoration: none;" target="_blank"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;"><br style="margin: 0px; padding: 0px;" /></strong></a>Về môi trường an ninh, Sách Trắng nhấn mạnh liên minh an ninh Nhật-Mỹ có vai trò thiết yếu và việc triển khai máy bay Osprey MV-22 ở Okinawa sẽ góp phần đem lại hòa bình, ổn định trong khu vực. Sách Trắng cũng bảo vệ quyết định của Tokyo hồi tháng 3 vừa qua về việc cho phép các công ty trong nước tham gia sản xuất linh kiện máy bay chiến đấu tàng hình F-35 của Mỹ.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Theo Sách Trắng, sự tham gia này sẽ giúp bảo vệ, duy trì và phát triển công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản và giúp ích cho liên minh Nhật-Mỹ./.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Nguồn: http://www.vietnamplus.vn</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-87160686440864825752013-07-31T01:04:00.001-07:002013-07-31T01:04:42.727-07:00Bước phát triển lịch sử trong quan hệ với Indonesia<h1 style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 26px; margin: 0px; padding: 0px;">
<a href="http://www.ngoaigiao.net/2013/06/26/buoc-phat-trien-lich-su-trong-quan-he-voi-indonesia/" rel="bookmark" style="color: #ca0002; font-size: 33px; font-weight: normal; line-height: 1.2; margin: 0px 0px 7px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="Permanent Link to Bước phát triển lịch sử trong quan hệ với Indonesia">Bước phát triển lịch sử trong quan hệ với Indonesia</a></h1>
<div>
<br /></div>
<div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<img alt="Chủ tịch nước Trương Tấn Sang." class="size-full wp-image-208" height="225" src="http://i1.wp.com/www.ngoaigiao.net/ngoaigiao/wp-content/uploads/2013/06/chutichnuoc.jpg?resize=300%2C225" style="border: 0px; height: auto; line-height: 22px; margin: 0px; max-width: 100%; padding: 0px; width: auto;" width="300" /><span style="color: #a7a3a3; font-size: 11px; line-height: 1.8; text-align: center;">Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.</span><br />
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ có chuyến thăm chính thức cấp Nhà nước tới Indonesia từ ngày 27-28/6. Chuyến thăm này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước ngày càng gắn bó và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang trong giai đoạn bản lề để tiến tới hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.<br />
Trước thềm chuyến thăm, phóng viên TTXVN tại Jakarta đã có cuộc phỏng vấn Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Nguyễn Xuân Thủy.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cho biết Indonesia là quốc gia có vai trò quan trọng trong ASEAN, luôn tích cực đóng góp cho việc xây dựng và phát triển vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực. Việt Nam luôn đánh giá cao và coi trọng quan hệ với các nước trong khu vực, trong đó có Indonesia. Hai nước có nhiều điểm tương đồng về truyền thống, lịch sử, văn hóa và đã xây dựng mối quan hệ hữu nghị truyền thống hơn nửa thế kỷ qua.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Indonesia có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới có tính lịch sử trong quan hệ giữa hai nước.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Kể từ năm 2003 tới nay, hai nước đã có những thỏa thuận quan trọng làm nền tảng phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện. Năm 2003, nhân chuyến thăm của Tổng thống Indonesia Megawati Soekarno tới Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp định khung về Khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện hướng tới thế kỷ 21.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Tháng 9/2011, trong chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Indonesia, lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận thúc đẩy quan hệ hướng tới đối tác chiến lược. Hai bên đã ký Chương trình hành động Việt Nam-Indonesia giai đoạn 2012-2015 nhằm triển khai toàn diện giữa hai nước.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Dự kiến, trong chuyến thăm này, hai bên sẽ nâng quan hệ trở thành đối tác chiến lược. Lãnh đạo hai nước cũng sẽ chứng kiến lễ ký kết một loạt thỏa thuận hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như dẫn độ và tương trợ tư pháp, năng lượng, tài chính, hàng hóa nông nghiệp.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Theo dự kiến, ngày 27/6, sau lễ đón chính thức cấp Nhà nước, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ có cuộc gặp riêng, sau đó hội đàm với Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono; cùng Tổng thống chứng kiến Lễ ký các văn bản thỏa thuận, gặp gỡ báo chí và dự Quốc tiệc do Tổng thống Indonesia chủ trì.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Sáng 28/6, Chủ tịch nước sẽ đến viếng và đặt vòng hoa tại Nghĩa trang Anh hùng Kalibata; hội kiến Chủ tịch Quốc hội (Hạ viện) Indonesia; tiếp Bộ trưởng Các doanh nghiệp Nhà nước cùng 10 doanh nghiệp lớn của Indonesia, đến chào và dự tọa đàm với doanh nghiệp hai nước.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Chiều 28/6, Chủ tịch nước sẽ đến thăm Ban Thư ký ASEAN, gặp gỡ và nói chuyện với các Đại sứ, Trưởng phái đoàn đại diện thường trực các nước ASEAN tại Jakarta và cán bộ, nhân viên Ban Thứ ký ASEAN.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Trước khi rời Jakarta về nước, Chủ tịch nước sẽ đến thăm Đại sứ quán Việt Nam tại Indonesia, nói chuyện với cán bộ, nhân viên Cơ quan đại diện Việt Nam, phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại ASEAN và dại diện lưu học sinh và cộng đồng người Việt Nam tại Indonesia.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Về những kết quả nổi bật trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Indonesia thời gian qua, Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cho biết hai nước đã thiết lập được quan hệ hợp tác chặt chẽ và tin cậy lẫn nhau. Hai bên đã xây dựng được cơ chế hợp tác và phối hợp chặt chẽ không chỉ trong gia đình ASEAN mà trong cả các thể chế, diễn đàn quốc tế và khu vực rộng lớn hơn như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, FEALAC,.. về nhiều vấn đề nổi cộm của khu vực và thế giới như hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác kinh tế, biến đổi khí hậu…</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước cũng đạt được những kết quả tương đối khả quan. Trong hai năm 2011-2012, dù môi trường kinh tế thế giới không thuận, nhưng thương mại song phương đều đạt trên 4,6 tỷ USD. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Indonesia các mặt hàng như gạo (789.665 tấn), điện thoại các loại và linh kiện, sắt thép các loại (301.464 tấn), dầu thô (157.416 tấn); nhập khẩu của Indonesia giấy các loại (263.894 tấn), dầu mỡ động thực vật, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện, hóa chất. Kim ngạch thương mại hai chiều trong sáu tháng đầu năm 2013 đạt khoảng 2,1 tỷ USD.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Ngoài ra, hai bên đang nỗ lực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực quốc phòng (trao đổi, hợp tác huấn luyện hải quân…), đàm phán vùng đặc quyền kinh tế, giáo dục. Hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines đã mở đường bay thẳng Thành phố Hồ Chí Minh-Jakarta đạt kết quả khả quan, góp phần tăng cường du lịch và kết nối thương mại giữa hai nước.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Về tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và Indonesia trong thời gian tới, Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy nhấn mạnh hai nước có nhiều tiềm năng hợp tác trong các lĩnh vực năng lượng, khai mỏ, nông nghiệp, chế biến thủy-hải sản, du lịch, giáo dục.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Indonesia là nước đi trước trong phát triển công nghiệp năng lượng (khai thác dầu, khí hóa lỏng, than và các loại quặng…), do đó có thể giúp Việt Nam về kinh nghiệm quản lý phát triển bền vững cũng như đầu tư cùng thăm dò và khai thác.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Về nông nghiệp, hai nước có những thế mạnh có thể hợp tác liên kết với nhau góp phần tăng cường an ninh lương thực và giảm nghèo.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Trong lĩnh vực du lịch, cả hai đều có những điểm đến nổi tiếng thế giới. Nói đến Việt Nam, du khách thường nhắc đến Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, phố cổ Hội An, bãi biển Nha Trang, đảo Phú Quốc, và nói tới Indonesia, người ta nhớ đến Đảo rồng Komodo, cố đô Yogyakarta, khu nghỉ mát ở đảo Bali, Lombok… Đây là vốn quý góp phần thúc đẩy hợp tác về văn hóa, du lịch và giao lưu nhân dân.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cho rằng để nâng cao hiệu quả hợp tác, hai bên cần nâng cao vai trò của các cơ chế, bộ máy đã có như Ủy ban Hợp tác chung, Ủy ban Hỗn hợp. Bản thân mỗi bộ, ngành của từng nước cần chủ động, tích cực triển khai thực hiện các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã có, hỗ trợ quảng bá cho nhau, đồng thời có những chính sách ưu tiên hỗ trợ cho doanh nghiệp hai bên để đầu tư, làm ăn có hiệu quả. Hai nước đều có dân số trẻ cần tăng cường đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động. Đây là lĩnh vực cần khai phá thêm. Doanh nghiệp hai nước cũng cần chủ động, tăng cường trao đổi cơ hội hợp tác và đầu tư hơn nữa./.</div>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Nguồn: www.vietnamplus.vn</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-90401153425337466842013-07-31T01:03:00.003-07:002013-07-31T01:03:23.496-07:00Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman<h1 style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 26px; margin: 0px; padding: 0px;">
<a href="http://www.ngoaigiao.net/2013/07/30/thu-chu-tich-ho-chi-minh-gui-tong-thong-truman/" rel="bookmark" style="color: #ca0002; font-size: 33px; font-weight: normal; line-height: 1.2; margin: 0px 0px 7px; padding: 0px; text-decoration: none;" title="Permanent Link to Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman">Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman</a></h1>
<div>
<br /></div>
<div>
<h1 style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 26px; margin: 0px; padding: 0px;">
<strong style="font-size: 13px; margin: 0px; padding: 0px;">Trong hai năm 1945 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman.</strong></h1>
<div style="background-color: white; color: #252324; font-family: Georgia, 'Times New Roman', Times, serif; font-size: 13px; line-height: 22px; margin: 0px; padding: 0px;">
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Có lợi cho toàn thế giới</strong></div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Trong bức thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman ngày 16/2/1946 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 91- 91), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong các hội nghị quốc tế.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<br /></div>
<table align="center" cellpadding="0" cellspacing="0" style="border-collapse: collapse; border-spacing: 0px; font-family: inherit; font-size: inherit; font-stretch: inherit; font-style: inherit; font-variant: inherit; line-height: inherit; margin: 0px; padding: 0px; width: 400px;"><tbody style="margin: 0px; padding: 0px;">
<tr style="margin: 0px; padding: 0px;"><td style="line-height: 20px; margin: 0px; padding: 4px;"><img alt="thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang" src="http://www.ngoaigiao.net/ngoaigiao/wp-content/uploads/2013/07/20130729223256-anh1.jpg" style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;" title="thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang" /></td></tr>
<tr style="background-attachment: scroll; background-color: rgba(0, 0, 0, 0.0980392); background-image: none; background-position: 0px 0px; background-repeat: repeat repeat; margin: 0px; padding: 0px;"><td style="line-height: 20px; margin: 0px; padding: 4px;">Trang 1 bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, trong đó bày tỏ Việt Nam mong muốn được “hoàn toàn độc lập” và ý nguyện thiết lập “hợp tác đầy đủ” với Hoa Kỳ. <em style="margin: 0px; padding: 0px;">Ảnh: Tư liệu của Cục Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ</em></td></tr>
</tbody></table>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “An ninh và tự do chỉ có thể được bảo đảm bằng sự độc lập của chúng ta đối với bất kỳ một cường quốc thực dân nào, và bằng sự hợp tác tự nguyện của chúng ta với tất cả các cường quốc khác. Chính là với niềm tin vững chắc này mà chúng tôi yêu cầu Hợp chủng quốc với tư cách là những người bảo vệ và những người bênh vực Công lý thế giới, thực hiện một bước quyết định trong sự ủng hộ nền độc lập của chúng tôi.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Điều mà chúng tôi đề nghị đã được trao cho Philippines một cách quý báu. Cũng như Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Mỹ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới”.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Nhìn xa hơn về quá khứ, người ta thấy rằng những bức điện, thư của Hồ Chí Minh, với tư cách Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, gửi Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã có “ tiền đề” từ những mối quan hệ của Hồ Chí Minh (và Việt Minh) với lực lượng Mỹ chống Nhật ở Hoa Nam trước đó.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Sau khi Nhật tấn công Trân Châu cảng (7/12/1941) mở đầu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Mỹ đặt Đông Dương trong khu vực tác chiến của Quân đoàn không quân số 14 của Mỹ, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Hoa Nam và bắc Đông Dương.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Những tiếp xúc của Hồ Chí Minh với lực lượng Mỹ được thiết lập từ tháng 3/1945, sau sự kiện trung úy R. Shaw được Việt Minh cứu thoát ở vùng núi Cao Bằng ngày 2/11/1944 và đưa trở lại Côn Minh. Ngày 29/3/1945 ở Côn Minh, Hồ Chí Minh gặp tướng C. Chenault tư lệnh không đoàn 14 và hai người đã có những mối thiện cảm.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<br /></div>
<table align="center" cellpadding="0" cellspacing="0" style="border-collapse: collapse; border-spacing: 0px; font-family: inherit; font-size: inherit; font-stretch: inherit; font-style: inherit; font-variant: inherit; line-height: inherit; margin: 0px; padding: 0px; width: 400px;"><tbody style="margin: 0px; padding: 0px;">
<tr style="margin: 0px; padding: 0px;"><td style="line-height: 20px; margin: 0px; padding: 4px;"><img alt="thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang" height="640" src="http://www.ngoaigiao.net/ngoaigiao/wp-content/uploads/2013/07/20130729223345-anh2.jpg" style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;" title="thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang" width="480" /></td></tr>
<tr style="background-attachment: scroll; background-color: rgba(0, 0, 0, 0.0980392); background-image: none; background-position: 0px 0px; background-repeat: repeat repeat; margin: 0px; padding: 0px;"><td style="line-height: 20px; margin: 0px; padding: 4px;"></td></tr>
</tbody></table>
<table align="center" cellpadding="0" cellspacing="0" style="border-collapse: collapse; border-spacing: 0px; font-family: inherit; font-size: inherit; font-stretch: inherit; font-style: inherit; font-variant: inherit; line-height: inherit; margin: 0px; padding: 0px; width: 400px;"><tbody style="margin: 0px; padding: 0px;">
<tr style="margin: 0px; padding: 0px;"><td style="line-height: 20px; margin: 0px; padding: 4px;"><img alt="thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang" height="480" src="http://www.ngoaigiao.net/ngoaigiao/wp-content/uploads/2013/07/20130729223430-anh3.jpg" style="border: 0px; margin: 0px; padding: 0px;" title="thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang" width="640" /></td></tr>
<tr style="background-attachment: scroll; background-color: rgba(0, 0, 0, 0.0980392); background-image: none; background-position: 0px 0px; background-repeat: repeat repeat; margin: 0px; padding: 0px;"><td style="line-height: 20px; margin: 0px; padding: 4px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Trang 2 và 3 của bức thư</strong></td></tr>
</tbody></table>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Hồ Chí Minh cũng đã làm cho người Mỹ hiểu hơn về Việt Minh và cuộc chiến đấu của giành độc lập của người Việt Nam. Sau đó, người Mỹ bắt đầu coi Việt Minh như một lực lượng đồng minh chống Nhật tích cực và có thể phối hợp các nỗ lực.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Cho đến đầu tháng 5/1945, hai sĩ quan OSS (Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ, tiền thân của CIA) đã có thể đều đặn gửi báo cáo về từ Tân Trào. Ngày 17/7/1945, đội tình báo Mỹ mang biệt danh Con nai gồm 5 người do thiếu tá A. Thomas chỉ huy đã nhảy dù xuống Tân Trào.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Họ huấn luyện các kỹ năng quân sự cho 40 người được chọn từ số 110 quân du kích của Đàm Quang Trung. Đầu tháng 8/1945, trung đội Bộ đội Việt – Mỹ (tên đặt chính thức của Hồ Chí Minh) đã được thành lập và ngày 20/8/1945 trung đội này đã tham gia chiến đấu với quân Nhật ở Thái Nguyên dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Việc hỗ trợ trang bị và huấn luyện chiến đấu cho một lực lượng nhỏ người địa phương trong vùng núi rừng Việt Bắc không giữ vai trò đáng kể về mặt quân sự trong việc kết thúc chiến tranh với Nhật ở Đông Dương. Người Mỹ biết rõ điều đó. Hồ Chi Minh cũng biết rõ điều đó.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Điều quan trọng hơn của những mối quan hệ với lực lượng Mỹ mà Hồ Chí Minh chủ trương thiết lập chính là tăng thêm lực lượng ngoại giao, uy thế chính trị của Việt Minh để giành độc lập cho dân tộc và tạo ra những tiền đề cho việc xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập trên trường quốc tế sau này.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
<strong style="margin: 0px; padding: 0px;">Con đường hòa bình</strong></div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Ngay sau khi giành lại được độc lập, bên cạnh việc củng cố, xây dựng chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những hoạt động tích cực mở rộng quan hệ quốc tế.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Với Chính phủ Mỹ, trong hai năm 1945 – 1946, Hồ Chí Minh đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Harry Truman, 3 thư và điện gửi Bộ trưởng Ngoại giao James Byrnes.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Trong thư gửi ông James Byrnes ngày 1/11/1945, Hồ Chí Minh đề nghị gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để “xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”, và theo Người, giới trí thức Việt Nam “tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam”.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên trì tìm cách hoà bình, tìm con đường hoà bình để đem lại hoà bình cho nhân dân, cho đất nước Việt Nam với đầy đủ nội dung về quyền dân tộc.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Với con đường hòa bình, Hồ Chí Minh hướng đến điều hòa sự đa dạng về xu hướng chính trị, chế độ xã hội giữa các nước để các dân tộc gần gũi nhau, hiểu biết nhau, để mở rộng sự hợp tác hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước láng giềng và khu vực, hướng tới hòa bình và thịnh vượng.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Năm 1955, Người phát biểu: “Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách hoà bình, tin chắc rằng các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hoà bình được”.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Điều được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh với Tổng thống Harry S. Truman cho đến nay không hề cũ.</div>
<div style="line-height: 1.8; margin-bottom: 15px; padding: 0px;">
Những dòng cuối cùng trong Thông điệp của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đăng trên tờ Washington Post ngày 27/7/2013 đã kế thừa rõ nét tinh thần đó: “Mặc dù ở hai bờ xa cách của Thái Bình Dương bao la, nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ cùng chia sẻ một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của một châu Á – Thái Bình Dương, hòa bình, hợp tác, thịnh vượng. Hôm nay, khi tôi tới thăm đất nước và nhân dân Hoa Kỳ, chúng ta cùng chia sẻ niềm vui vì ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gần 70 năm trước về mối quan hệ “hợp tác đầy đủ” giữa hai dân tộc đã thành hiện thực”.</div>
<ul style="list-style-position: inside; list-style-type: none; margin: 0px 0px 20px; padding: 0px 0px 0px 30px;">
<li style="list-style-type: square; margin: 0px; padding: 0px;"><strong style="margin: 0px; padding: 0px;">TS Ngô Vương Anh</strong></li>
<li style="list-style-type: square; margin: 0px; padding: 0px;">Nguồn: www.vietnamnet.vn</li>
</ul>
</div>
</div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-3623067357671408872013-07-08T22:42:00.000-07:002013-07-08T22:42:12.428-07:00Đối thoại giữa Asean và Việt Nam trong quá trình giải quyết “Vấn đề Cămpuchia” (1985 - 1991)<div align="justify" class="content_details_title">
<span style="font-size: large;"><span style="font-family: Arial,Helvetica,sans-serif;">Đối thoại giữa Asean và Việt Nam trong quá trình giải quyết “Vấn đề Cămpuchia” (1985 - 1991)</span></span></div>
<div align="center" class="binhthuong">
</div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: 3.0in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><i style="mso-bidi-font-style: normal;"><span style="color: #558ed5; font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 14.0pt; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;"> TS. Phạm Phúc Vĩnh</span></i></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: 2.5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="color: #558ed5; font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 14.0pt; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;"> Giảng viên, Trường Đại học Sài Gòn.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: normal; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: 2.5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="color: #558ed5; font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; mso-bidi-font-size: 14.0pt; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;"> Nguồn bài viết: <span style="color: cornflowerblue;">Hội sử học Đồng Tháp</span>
</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify;">
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">1. Nhu cầu đối thoại với ASEAN về “vấn đề
Cam-pu-chia” của Việt Nam</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Sau
đại thắng mùa xuân 1975, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam bắt đầu
gặp nhiều khó khăn, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
ngày càng nghiêm trọng (lạm phát gia tăng với tốc độ phi mã: năm 1978: 128%,
năm 1981 lên đến 131%,... ). Chỗ dựa quốc tế - ngoại lực quan trọng nhất của Việt
Nam lúc này là Liên Xô cũng đang lâm vào khủng hoảng, nên viện trợ của Liên Xô
đối với Việt Nam giảm đi và chuyển từ viện trợ không hoàn lại sang cơ chế hợp
tác hai bên cùng có lợi,... đẩy Việt Nam lún sâu vào cuộc khủng hoảng.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Mặt
khác, việc đưa quân sang giúp nhân dân Căm-pu-chia đánh bại chế độ diệt chủng
Pôn-pốt đã tạo ra thêm những khó khăn, phức tạp mới trong hoạt động đối ngoại.
Sau sự kiện này, quan hệ Việt – Trung trở nên căng thẳng, Trung Quốc và Mĩ cáo
buộc Việt Nam xâm lược Căm-pu-chia và thúc đẩy Liên hiệp quốc ra Nghị quyết yêu
cầu Việt Nam rút khỏi Căm-pu-chia, vận động hầu hết các nước trong Nghị viện
châu Âu và các nước trong khu vực Đông Nam Á đình chỉ viện trợ kinh tế, siết chặt
cấm vận, cắt đứt quan hệ, đẩy Việt Nam vào thế bị cô lập với khu vực và thế giới
phương Tây. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong đầu thập nhiên 80 là phải phá thế
bị bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới để
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trước
đòi hỏi của thực tiễn phát triển của đất nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc của
ĐCS Việt Nam lần thứ V (tháng 3/1982) đã có những thay đổi trong chính sách đối
ngoại. Văn kiện Đại hội đã xác định: “Nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những
quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng phối hợp, cố gắng
để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình và ổn định”<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[1]</span></sup></b>. Đối với các nước khác thì sẵn
sàng “thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước về kinh tế, văn
hoá, khoa học kĩ thuật với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị xã
hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền bình đẳng cùng có lợi”<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[2]</span></sup></b>.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Tuy
nhiên, những tuyên bố mới về đường lối đối ngoại của Việt Nam dường như không
được các nước ASEAN cũng như phương Tây đón nhận và ủng hộ. Nguyên nhân của
tình trạng đó không nằm ngoài việc quân tình nguyện Việt Nam vẫn còn đóng trên
lãnh thổ Căm-pu-chia. Việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” và rút quân khỏi nước
này chính là “chìa khoá” để Việt Nam mở cánh cửa giao lưu tiếp xúc với các nước
trong khu vực và trên thế giới, thoát khỏi sự bao vây cô lập để đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Việc
giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” liên quan đến nhiều bên khác nhau, trong đó Việt
Nam, Trung Quốc và ASEAN có một vị trí rất quan trọng. Chính vì vậy, Việt Nam
đã tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc và ASEAN để tìm giải pháp tháo gỡ
vấn đề này.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Để
tìm cách đối thoại với Trung Quốc nhằm tìm hướng giải quyết “vấn đề
Căm-pu-chia”, tháng 7/1982, thông qua Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Đông Dương,
Việt Nam đã tuyên bố “mong muốn có quan hệ hoà bình hữu nghị và hợp tác với
Trung Quốc trong cùng tồn tại hoà bình và nối lại đàm phán Việt - Trung”<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[3]</span></sup></b> và ngày 17/7/1982, Việt Nam đã chủ
động rút một phần quân tình nguyện ở Căm-pu-chia về nước và tuyên bố sẽ tiếp tục
rút như vậy hàng năm. Những tín hiệu tích cực mà Việt Nam đưa ra đã không được
phía Trung Quốc đáp lại. Tuy nhiên, trong vòng 1 của cuộc đàm phán Xô – Trung
diễn ra 3 tháng sau đó (10/1982), Trung Quốc đã đưa vấn đề rút quân tình nguyện
Việt Nam khỏi Căm-pu-chia làm một trong ba điều kiện tiên quyết mà Liên Xô phải
thực hiện để tiến tới bình thường hoá quan hệ Xô – Trung <b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[4]</span></sup></b><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;"> </span>và từ
chối đàm phán trực tiếp với Việt Nam để giải quyết vấn đề Cam-pu-chia. Chủ
trương này được Trung Quốc duy trì liên tục đến cuối năm 1988. Chủ trương này của
Trung Quốc đã làm cho kênh đối thoại với Trung Quốc để cùng giải quyết vấn đề
Căm-pu-chia trong giai đoạn này đối với Việt Nam là hoàn toàn bế tắc. Hướng duy
nhất còn lại đối với Việt Nam chính là đối thoại với ASEAN.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify;">
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">2. Đối thoại ASEAN - Việt Nam về “vấn đề
Căm-pu-chia” (1985 - 1991)</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trong lúc Trung
Quốc không đáp lại những thiện chí của Việt Nam, ASEAN đã có thái độ ngược lại.
Tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 18 họp tại Thái Lan (2/1985),
Ngoại trưởng các nước ASEAN đã thống nhất sẽ đối thoại trực tiếp với Đông Dương
mà chủ yếu là Việt Nam để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” và đồng thời cử
In-đô-nê-xi-a làm đại diện của ASEAN trong việc xúc tiến quá trình đối thoại với
Việt Nam. Trước tín hiệu tích cực đó của ASEAN, tại Hội nghị Ngoại trưởng ba nước
Đông Dương (8/1985), Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân vào năm 1990, nếu có giải
pháp sẽ rút sớm hơn.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trong
bối cảnh thuận lợi như trên, ngày 29/7/1987, Ngoại trưởng In-đô-nê-xi-a (với tư
cách là nước đại diện của ASEAN) đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam, hai bên
đã ra thông cáo chung, đánh dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa Việt Nam
và ASEAN xung quanh “vấn đề Căm-pu-chia” và mở ra thời kì của những cuộc gặp gỡ
trực tiếp giữa Hun-xen và Xi-ha-núc. Để thúc đẩy đối thoại với ASEAN về “vấn đề
Căm-pu-chia”, ngày 11/10/1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra Thông cáo chung về
việc rút quân tình nguyện Việt Nam ở Căm-pu-chia về nước đợt 6 vào tháng
11/1987.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Những
kết quả thuận lợi này đã giúp Việt Nam xác định hướng đi mới trong việc giải
quyết “vấn đề Căm-pu-chia”: nếu chưa thể nối lại đàm phán với Trung Quốc thì Việt
Nam có thể chuyển sang hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế để giải
quyết vấn đề này. Nghị quyết 13 “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình
hình mới” ngày 25/5/1988 của Bộ chính trị đã xác định: “Vấn đề Căm-pu-chia” phải
được giải quyết với Trung Quốc, nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa muốn trực
tiếp giải quyết với ta về “vấn đề Căm-pu-chia”. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên
trì mở ra nhiều hướng khác (Hun-xen – Xi-ha-núc, Việt Nam – In-đô-nê-xi-a, Việt
Nam – Thái Lan, ASEAN – Đông Dương, Việt Nam – Mĩ)… để thúc đẩy và kéo Trung Quốc
vào giải quyết. Dù giải quyết trực tiếp với Trung Quốc hay với các đối tượng
khác, thì việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” cũng phục vụ cho mục tiêu bình
thường hóa với Trung Quốc, không nhằm chống lại Trung Quốc”<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[5]</span></sup></b>. Và ngày 26/5/1988, Việt Nam tiếp
tục tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ tư lệnh Việt Nam tại Căm-pu-chia.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Những
chủ trương và hành động thể hiện quyết tâm giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” của
Việt Nam như trên đã được ASEAN đón nhận một cách tích cực. Trong cuộc họp hàng
năm của ASEAN diễn ra từ 03/7/1988 đến 05/7/1988 tại Băng-cốc (Thái Lan), các đại
biểu đã bày tỏ niềm tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đã từ bỏ các mục tiêu
quân sự của mình ở Căm-pu-chia và đang hướng toàn bộ nỗ lực vào con đường ngoại
giao.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Nếu
như trước đây, ASEAN và cộng đồng quốc tế cho rằng Việt Nam là mối đe dọa đối với
hòa bình và an ninh khu vực, thì giờ đây họ đã nhận ra được rằng, mối đe dọa đó
chính là Khơ-me đỏ chứ không phải Việt Nam. Nhằm giải quyết viễn ảnh Khơ-me đỏ
có thể giành được thế thượng phong quân sự sau khi quân Việt Nam rút toàn bộ,
ASEAN với sự ủng hộ của Mĩ đã nhấn mạnh rằng “Trung Quốc nhất thiết phải có mặt
trong việc đề ra các bảo đảm quốc tế cho những thỏa thuận đạt được giữa các nước
trong vùng quanh “vấn đề Căm-pu-chia”. Đồng thời cũng cần thành lập một lực lượng
quốc tế gìn giữ hòa bình đông đảo ở nước này”<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[6]</span></sup></b>. Chính trong tình thần của lập
trường này, tại Hội nghị JIM-1 (Jakarta Informal Meeting) từ 25 đến 27/7/1988,
ASEAN đã đưa ra đề nghị giải giáp tất cả các phe Khơ-me đang xung đột ở
Căm-pu-chia và sự cần thiết phải có một lực lượng vũ trang quốc tế ở nước này để
thực hiện quyết định vừa kể. Đề nghị này phản ánh rõ ràng ý đồ của ASEAN là
không muốn để bên nào chiếm được thế thượng phong ở Căm-pu-chia sau khi quân đội
Việt Nam rút đi và trong lúc chờ tổng tuyển cử.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trong
bầu không khí ngày càng trở nên hòa dịu của quan hệ Việt Nam – ASEAN, tháng
8/1988, Thủ tướng Thái Lan Thạt-chai Xu-ha-vản đã tuyên bố rằng cần xem các nước
Đông Dương không phải như là những chiến trường mà là những thị trường có thể
trong tương lai. Theo ý ông, “cần giải quyết càng nhanh càng tốt “vấn đề
Căm-pu-chia” và đã có tất cả các dấu hiệu cần thiết để mau chóng đạt được những
thỏa hiệp tương xứng”<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[7]</span></sup></b>.
Sau đó, ngày 08/8/1988, Thạt-chai Xu-ha-vản tuyên bố sẽ khuyến khích các nhà
doanh thương Thái Lan tăng các hoạt động thương mại với Lào và Việt Nam, điều
này theo ông sẽ góp phần làm dịu tình hình trong vùng và nhấn mạnh rằng Thái
Lan sẽ thúc đẩy buôn bán với Việt Nam và Lào mà không cần xem xét đến việc Việt
Nam rút quân khỏi Căm-pu-chia.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Như
vậy, sự hợp tác giữa Việt Nam với ASEAN đã mở ra một hướng giải quyết mới (quốc
tế hóa) cho “vấn đề Căm-pu-chia” mà không nhất thiết phải phụ thuộc quá nhiều
vào việc Trung Quốc có chấp nhận đàm phán với Việt Nam hay không.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trước
những kết quả đạt được giữa Việt Nam và ASEAN như trên, thêm vào đó là tình
hình quan hệ Xô – Mĩ, Xô - Trung trở nên lắng dịu, “vấn đề Căm-pu-chia” từng bước
được quốc tế hóa, ngày 15/12/1988, Việt Nam đã chính thức đề nghị Trung Quốc tổ
chức cuộc gặp cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao để bàn về việc giải quyết “vấn đề
Căm-pu-chia” và bình thường hóa quan hệ hai nước.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Việc
tiếp tục trì hoãn việc nối lại đàm phán với Việt Nam để giải quyết “vấn đề
Căm-pu-chia” giờ đây không còn phù hợp với tình hình quan hệ quốc tế và lợi ích
của Trung Quốc nữa. Cuối cùng, ngày 24/12/1988, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã
thông báo mời một Thứ trưởng ngoại giao của Việt Nam đi Bắc Kinh vào giữa tháng
01/1989 để trao đổi với Trung Quốc về “vấn đề Căm-pu-chia” và bình thường hoá
quan hệ Việt – Trung. Như vậy, Trung Quốc đã chấp nhận đối thoại với Việt Nam để
giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia”.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Đầu
năm 1989, Việt Nam đã nối được kênh đàm phán với Trung Quốc để giải quyết vấn đề
Căm-pu-chia, nhưng khi tiến hành đàm phán, Trung Quốc lại muốn Việt Nam thỏa
thuận theo hướng giải quyết mặt nội bộ của giải pháp Căm-pu-chia, chủ yếu là vấn
đề chính quyền và vấn đề quân đội của các bên Căm-pu-chia trong thời kỳ quá độ
(thời gian ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử) theo quan điểm của Trung Quốc, đồng
thời khẳng định rằng nếu có thảo luận và đạt kết quả này thì mới có giải pháp,
nếu không thì mặt quốc tế có thỏa thuận cũng không giải quyết được và khó bàn về
quan hệ hai nước. Ngược lại, lập trường của Việt Nam là vấn đề nội bộ
Căm-pu-chia phải do các bên Căm-pu-chia giải quyết. Sự khác biệt về lập trường
giữa hai nước đã làm cho quá trình đàm phán Việt – Trung vừa được mở ra lại rơi
vào tình trạng bế tắc. Một lần nữa, Việt Nam lại tiếp tục hướng về ASEAN để giải
quyết “vấn đề Căm-pu-chia”.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Sau
những thỏa thuận đạt được ở Hội nghị JIM-1, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh rút quân
khỏi Căm-pu-chia nhằm thúc đẩy xu thế đối thoại và tiến đến quốc tế hóa “vấn đề
Căm-pu-chia” để tranh thủ các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế, kiềm chế những
đòi hỏi của Trung Quốc. Và những nỗ lực của Việt Nam đã giành được sự ủng hộ của
các nước ASEAN tại Hội nghị JIM-2 (02/1989). Tuy nhiên, các nước ASEAN vẫn trước
sau như một, không chấp nhận thế thượng phong của Chính phủ Hun-xen do Việt Nam
ủng hộ và chọn giải pháp Xi-ha-núc<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[8]</span></sup></b>.
Để đi đến giải pháp này, họ đòi hỏi giải giáp tất cả lực lượng các bên
Căm-pu-chia xung đột, để thay vào đó là lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hiệp
quốc. Cuối cùng, giải pháp trên của các nước ASEAN đã nhận được sự ủng hộ của
Mĩ, Trung Quốc, Liên hiệp quốc và cả Liên Xô, đồng thời phù hợp với chủ trương
của Việt Nam và được các bên Căm-pu-chia đồng thuận.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Những thỏa thuận
về giải pháp chính trị cho “vấn đề Căm-pu-chia” đạt được trong Hội nghị JIM-2
đã cho phép Việt Nam có thể quyết định dứt khoát hơn trong việc rút quân khỏi
Căm-pu-chia. Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương ĐCS Việt Nam (khóa
VI) đã khẳng định sẽ “góp phần tích cực giải quyết vấn đề Căm-pu-chia bằng
chính trị, đồng thời chuẩn bị tốt việc rút hết quân sớm trong trường hợp chưa
có giải pháp về Căm-pu-chia” <b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[9]</span></sup></b>;
ngày 05/4/1989, Tuyên bố chung của Căm-pu-chia, Lào và Việt Nam về việc rút
toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Căm-pu-chia về nước đã khẳng định mạnh mẽ
hơn rằng: “Việt Nam rút hết quân đội của mình về nước trước tháng 9/1989, dù có
giải pháp hay không” <b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[10]</span></sup></b>.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Thực
hiện chủ trương trên, Việt Nam đã tham gia tích cực trong Hội nghị quốc tế lần
thứ nhất về “vấn đề Căm-pu-chia” tại Pa-ri (vòng 1: từ 30/7 đến 01/8, vòng 2: từ
28/8 đến 30/8/1989). Tuy nhiên, Hội nghị kết thúc mà các bên vẫn chưa đưa ra được
một giải pháp cuối cùng cho vấn đề Căm-pu-chia. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn thực
hiện đúng cam kết. Từ 21/9 đến 26/9/1989, Việt Nam đã rút quân tình nguyện còn
lại ở Căm-pu-chia cùng toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh dưới sự quan
sát của cộng đồng quốc tế.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trước
những kết quả đạt được giữa Việt Nam và ASEAN, cùng với quá trình rút quân mạnh
mẽ của Việt Nam, ngày 18/7/1990, Mĩ tuyên bố không còn ủng hộ lực lượng Khơ-me
đỏ và đến ngày 28/8/1990, một văn kiện khung để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia”
và việc lập một Hội đồng tối cao của Căm-pu-chia bao gồm các phái Khơ-me và đại
diện của Căm-pu-chia đã được 5 Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thông qua <b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><sup><span style="color: #558ed5; mso-style-textfill-fill-alpha: 100.0%; mso-style-textfill-fill-color: #558ED5; mso-style-textfill-fill-colortransforms: "lumm=60000 lumo=40000"; mso-style-textfill-fill-themecolor: text2; mso-themecolor: text2; mso-themetint: 153;">[11]</span></sup></b>. Giải pháp chính trị cho “vấn đề
Căm-pu-chia” về mặt quốc tế đã ngã ngũ, việc giải quyết vấn đề này đến đây đã
được chuyển sang cho Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Ngày 23/10/1991, Hiệp định
Pa-ri về Căm-pu-chia được kí kết.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Vấn
đề Căm-pu-chia - “vật cản” lớn nhất đối với việc khôi phục và mở rộng quan hệ
quốc tế của Việt Nam đã được giải tỏa. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước
ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước khác trên thế giới cũng dần hồi phục.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify;">
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">3. Kết luận</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Trong
bối cảnh Việt Nam đang bị bao vây cô lập và việc đối thoại với Trung Quốc rơi
vào trạng thái bế tắc, sự thay đổi lập trường của ASEAN đối với Việt Nam kể từ
năm 1985 trở đi đã mở ra thời kì đối thoại giữa ASEAN với Việt Nam về “vấn đề
Căm-pu-chia” và từng bước tháo gỡ được những bất đồng, khúc mắc trong quan hệ
giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á và thế giới phương Tây.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify; text-indent: .5in;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 13.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Quá
trình đối thoại giữa Việt Nam và ASEAN từ 1985 đến 1991 đã góp phần quan trọng
trong việc hình thành giải pháp chính trị cho “vấn đề Căm-pu-chia”, đẩy Trung
Quốc vào thế “người ngoài cuộc” và buộc phải nối lại đàm phán với Việt Nam và cộng
đồng quốc tế để cùng giải quyết triệt để vấn đề này.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; text-align: justify;">
<b style="mso-bidi-font-weight: normal;"><span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">Chú thích</span></b></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[1] ĐCS Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ V (tập 1), Nxb Sự Thật, Hà Nội, trang 153.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[2] ĐCS Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ V (tập 1), Nxb Sự Thật, Hà Nội, trang 155.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[3] Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt
Nam 1945 – 1995 (tập 2), Nxb CAND, Hà Nội, trang 202.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[4] Trong qúa trình đàm phán Xô – Trung, Trung Quốc
đã luôn đặt ra điều kiện để bình thường hoá quan hệ với Liên Xô đó là Liên Xô
phải giải quyết dứt điểm ba trở ngại: Thứ nhất là sự hiện diện của quân đội Xô
Viết trên vùng biên giới Xô – Trung và Trung – Mông Cổ; Thứ hai là sự hiện diện
của quân đội Liên Xô ở Áp-ga-nít-xtan; Thứ ba là sự ủng hộ mà Liên Xô dành cho
Việt Nam trong vấn đề quân đội Việt Nam ở Căm-pu-chia.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[5] Báo cáo của Văn phòng TW Đảng về công tác đối
ngoại trong những năm đổi mới (1989), Phần 1, Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương
Đảng, trang 15.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[6] Lê Phụng Hoàng (1994), Một số vấn đề về quan hệ
quốc tế ở Đông Nam Á (1975 - 1991), Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, trang 61.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[7] Lê Phụng Hoàng (1994), Một số vấn đề về quan hệ
quốc tế ở Đông Nam Á (1975 - 1991), Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, trang 62.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[8] Lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên (CHND
Căm-pu-chia, Khơ-me đỏ, Xi-ha-núc và lực lượng của Son San) do Xi-ha-núc đứng đầu.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[9] ĐCS Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ
6 BCH TW khóa VI, Nxb CTQG, Hà Nội, trang 40.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[10] “Tuyên bố chung của CHND Căm-pu-chia, CHDCND
Lào và CHXHCN Việt Nam về việc rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở
Căm-pu-chia về nước”, Báo Nhân dân, ngày 6/4/1989, trang 03.</span></div>
<div class="MsoNormal" style="line-height: 150%; margin-bottom: .0001pt; margin-bottom: 0in; margin-left: .5in; margin-right: 0in; margin-top: 0in; text-align: justify;">
<span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 12.0pt; line-height: 150%; mso-bidi-font-size: 14.0pt;">[11] Trong tình thế bị Mĩ và phương Tây cấm vận sau
sự kiện Thiên An Môn, để giải tỏa quan hệ với Mĩ và phương Tây, Trung Quốc đã
phải nhân nhượng và ủng hộ văn kiện trên.</span></div>
Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-51306201701634180822013-06-26T08:34:00.000-07:002013-06-26T08:34:02.188-07:00Tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ tại Biển Đông: Lợi ích, Chính sách và Tương tác<b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ tại Biển Đông: Lợi ích, Chính sách và Tương tác</span></b><br />
<b><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;" /></b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Bài tham luận Hội thảo quốc tế lần thứ 4 tại TP. Hồ Chí Minh phân tích các lợi ích và chín</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">h sách của Trung Quốc, ASEAN và Mỹ ở Biển Đông, nghiên cứu mối quan hệ giữa tam giác này trong những năm gần đây và đưa ra một số gợi ý cho sự ổn định khu vực.<br />Trong những năm gần đây, chuỗi hành động - phản ứng của các bên ở Biển Đông làm gia tăng căng thẳng trong khu vực này, ảnh hưởng đến quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, đặt ra những thách thức đối với ASEAN trong việc duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực, đồng thời củng cố thêm quyết tâm “tái cân bằng” của Mỹ đối với châu Á. Vấn đề Biển Đông giờ đã đồng thời trở thành “thuốc thử” cho ý định “phát triển hòa bình” của Trung Quốc, vị trí thống lĩnh của Mỹ ở khu vực và sự thống nhất của ASEAN. Bài viết sẽ tìm hiểu các lợi ích và chính sách của Trung Quốc, ASEAN và Mỹ ở Biển Đông, phân tích mối quan hệ giữa tam giác này trong những năm gần đây và đưa ra một số gợi ý cho sự ổn định khu vực.<br />Lợi ích của các Bên liên quan ở Biển Đông<br />Trung Quốc<br />Đối với Trung Quốc - một cường quốc khu vực đang trên con đường trở thành cường quốc toàn cầu, hiện đang nỗ lực gia tăng ảnh hưởng tại châu Á và cụ thể là Đông Nam Á thì Biển Đông là “sân sau” quan trọng để bảo vệ đại lục trước các cuộc tấn công từ biển. Nếu như trên đất liền, Trung Quốc chỉ có thể tạo được ảnh hưởng chiến lược đối với 3 quốc gia giáp ranh (Lào, Myanmar và Việt Nam), thì trên biển, mà cụ thể là Biển Đông, Trung Quốc có thể tạo ảnh hưởng đối với tất cả các quốc gia Đông Nam Á.<br />Mục tiêu bảo vệ những lợi ích của Trung Quốc trong “vành đai ổn định chiến lược” trên các khu vực “biển gần” trải dài từ biển Hoàng Hải, Hoa Đông, eo biển Đài Loan tới Biển Đông giải thích vì sao Bắc Kinh coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, phản đối các hoạt động giám sát của Mỹ trong vùng đặc quyền kinh tế và tăng cường năng lực hải quân về “chống tiếp cận/phong tỏa khu vực”. Ngoài ra, để bảo vệ các lợi ích kinh tế và chính trị đang gia tăng của mình, hải quân Trung Quốc đang chuyển hướng sang các hoạt động viễn dương. Do vậy, Biển Đông giờ trở thành khu vực để Trung Quốc tập dượt và là bàn đạp để vươn ra ngoài.<br />Theo Tướng Daniel Schaeffer, về khía cạnh quân sự, Trung Quốc muốn đặt Biển Đông trong vòng kiểm soát của mình một phần là bởi vùng biển này là quân cờ quan trọng trong tổng thể chiến lược nhằm bao vây và cô lập Đài Loan, buộc Đài Loan phải thống nhất với đại lục trong đại chiến lược trở thành siêu cường của Trung Quốc. Cách tiếp cận mang tính hệ thống của Trung Quốc, kéo dài từ Biển Đông, biển Hoa Đông tới Okinawa (Nhật Bản) cùng với các hoạt động tập trận trên biển tại phía Tây Đài Loan và giám sát xung quanh đảo Guam của Mỹ trên Thái Bình Dương, đã tạo ra một vòng cung xung quanh Đài Loan, ngăn cản mong muốn độc lập của hòn đảo này.[1]<br />Về phương diện năng lượng, Biển Đông được dự đoán chứa đựng tiềm năng dầu khí rất lớn. Có những con số ước tính khác nhau về trữ lượng dầu khí ở Biển Đông - thậm chí rất chênh lệch nhau,[2] một phần do tranh chấp nên các nước đã không thể điều tra ra được con số chính xác. Tuy nhiên, nhiều khả năng nguồn năng lượng tại Biển Đông đã bị thổi phồng quá mức. Thậm chí trong trường hợp khai thác có hiệu quả, thì sản lượng sẽ chỉ đáp ứng được một phần nhỏ so với nhu cầu rất lớn trong tương lai.<br />Mặt khác, để giải quyết vấn đề an ninh năng lượng, Trung Quốc và các quốc gia ASEAN đang tìm cách đa dạng hóa nguồn cung năng lượng. Hiện Trung Quốc đang tập trung khai thác dầu mỏ, khí đốt tại các khu vực càng gần càng tốt (nhằm hạn chế tối đa chi phí vận chuyển và đảm bảo nguồn cung năng lượng trong bối cảnh bất ổn tại Trung Đông). Vì vậy, Biển Đông trở thành tâm điểm chiến lược an ninh năng lượng của nước này. Việc Trung Quốc thúc đẩy “gác tranh chấp, cùng khai thác” tại Biển Đông là biện pháp cần thiết giúp Bắc Kinh giải quyết vấn đề an ninh năng lượng.<br />Ngoài ra, vào thời điểm hiện tại, tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc được duy trì và củng cố nhờ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao. Sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào sự ổn định nguồn cung năng lượng và tự do hàng hải.[3] Tuy nhiên, Trung Quốc lại không yên tâm với tình thế hiện tại khi việc đảm bảo an toàn cho các tuyến đường vận tải trên biển (SLOC) lại thuộc về hải quân Mỹ. Trung Quốc muốn bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mang tính sống còn đối với nền kinh tế Trung Quốc, chẳng hạn như các tuyến đường qua Biển Đông và Eo biển Malacca. Nếu các tuyến đường này bị phong tỏa trong một ngày và nguồn cung năng lượng của Trung Quốc bị gián đoạn, nó sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn đối với Trung Quốc.[4] Do đó, Bắc Kinh có mối quan ngại hợp lý khi phát triển các lực lượng hải quân nhằm bảo về các SLOC của mình. Tuy nhiên, vệc hiện đại hóa hải quân và quân đội của Trung Quốc đang đặt ra những thách thức đối với trật tự Đông Á.<br />ASEAN<br />Do tác động bên ngoài và những lợi ích khác nhau, các nước ASEAN có những quan điểm khác nhau trong vấn đề Biển Đông. Thậm chí các nước yêu sách trong ASEAN, bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đôi khi cũng không có tiếng nói chung. Trong số các quốc gia yêu sách, Việt Nam và Philippines là hai quốc gia có nhiều “va chạm” nhất với Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó, cả hai đều là những quốc gia chủ động nhất kêu gọi sự đoàn kết ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Kể từ khi Mỹ tuyên bố chiến lược “tái cân bằng châu Á”, Philippines đã tự tin hơn, đưa ra các sáng kiến mới tại các diễn đàn của ASEAN.<br />Mặc dù là quốc gia có yêu sách tại Biển Đông nhưng Malaysia và Brunei lại không bị Trung Quốc đe dọa trực tiếp trên biển và họ thường chú trọng nhiều hơn đến mối quan hệ với Trung Quốc.<br />Trong số các quốc gia không có yêu sách, Singapore và Indonesia có quan điểm trung lập. Họ không ủng hộ yêu sách của bất kỳ bên nào. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore đã từng bình luận rằng: “Singapore không phải là một quốc gia có yêu sách và không ủng hộ lập trường hay yêu sách nào của các bên tại Biển Đông. Nhưng là quốc gia dựa vào thương mại, Singapore có mối quan tâm đặc biệt đến mọi vấn đề ảnh hưởng đến tự do hàng hải trên tất cả các tuyến đường biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông”.[5] Indonesia có truyền thống đóng vai trò trung gian hòa giải, tổ chức nhiều hội thảo về quản lý xung đột tiềm tàng tại Biển Đông trong hơn 20 năm qua nên tích cực thúc đẩy quan điểm chung của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Vai trò trung gian hòa giải tích cực của Indonesia trong vấn đề Biển Đông giúp củng cố hình ảnh của quốc gia này - một trong những thành viên tin cậy nhất trong ASEAN. Lào, Thái Lan và Myanmar không có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông, do vậy họ rất ít khi thể hiện quan điểm của mình. Campuchia - quốc gia có mối quan hệ kinh tế và chính trị gắn bó với Trung Quốc - ở mức độ nào đó, ủng hộ quan điểm đàm phán song phương của Trung Quốc.<br />Mặc dù các thành viên ASEAN có những lợi ích khác nhau tại Biển Đông, nhưng tất cả đều có lợi ích chung trong việc bảo đảm tự do hàng hải, hòa bình, ổn định khu vực, tôn trọng luật quốc tế, cũng như duy trì đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN. Mười nước thành viên ASEAN đều đã tham gia đàm phán và ký kết Tuyên bố Ứng xử (DOC) năm 2002 và hiện đều có quan điểm chung muốn thúc đẩy đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) với Trung Quốc nhằm quản lý hiệu quả các tranh chấp và thúc đẩy hòa bình, hợp tác khu vực.<br />Mỹ<br />Là siêu cường duy nhất, Mỹ có lợi ích trực tiếp tại Biển Đông trên nhiều khía cạnh: (i) duy trì trật tự trên biển do Mỹ làm chủ đạo, bao gồm cả luật biển quốc tế theo cách giải thích của Mỹ, đặc biệt là về tự do hàng hải - trong đó có tự do hoạt động của tàu quân sự Mỹ; (ii) bảo vệ lợi ích các đồng minh, đặc biệt là các tuyến đường biển chiến lược của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines; (iii) kiểm soát sự lớn mạnh của (hải quân) Trung Quốc để đảm bảo rằng sự phát triển của quốc gia này không đảo lộn hệ thống hiện tại do Mỹ chi phối; (iv) bảo đảm lợi ích của các tập đoàn dầu khí Mỹ trong khu vực. Những lợi ích này đều mang tính căn bản và bất biến; sẽ rất khó cho Mỹ thỏa hiệp với Trung Quốc vì tất cả những lợi ích đó đều gắn chặt với vị thế lãnh đạo mà Mỹ mong muốn duy trì trong hệ thống toàn cầu hiện nay.<br />Chính sách của các bên tại Biển Đông<br />Trung Quốc<br />Là bên tranh chấp mạnh nhất, chính sách của Trung Quốc quyết định cục diện của tình hình Biển Đông.<br />Kể từ đầu những năm 2000, để thực hiện chiến lược “phát triển hòa bình”, Trung Quốc đã tiến hành chính sách “tấn công hấp dẫn” (charm offensive) bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm thúc đẩy hợp tác với ASEAN. Trung Quốc điều chỉnh lập trường đối với ARF và ký Tuyên bố Ứng xử các bên tại Biển Đông (DOC) vào năm 2002. Sau khi ký kết DOC, mặc dù Trung Quốc không chủ động hợp tác với ASEAN trong việc thực hiện tuyên bố chung này nhưng Trung Quốc cũng không thực hiện thêm bất kỳ hoạt động đáng kể nào đe dọa đến ổn định tại Biển Đông.<br />Tuy nhiên, kể từ năm 2009, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách đối với vấn đề Biển Đông và ngày càng trở nên quyết đoán hơn. Nước này đã gia tăng đáng kể sự hiện diện trên Biển Đông, không chỉ về quân sự mà cả về các hoạt động dân sự và bán quân sự tại khu vực này, nhằm giành kiểm soát thực tế (de-facto) Biển Đông thông qua việc khẳng định Đường lưỡi bò.<br />Liên quan đến các hoạt động quân sự, Trung Quốc đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân bằng việc xây dựng căn cứ hải quân Tam Á – căn cứ được coi là cánh cửa mở ra Biển Đông. Nhằm gửi đi thông điệp “răn đe” các nước tranh chấp khác trong ASEAN tại Biển Đông, hải quân Trung Quốc đã tăng cường tần suất và mức độ phối hợp thực hiện tập trận tại Biển Đông. Sự kiện quan trọng nhất xảy ra vào tháng 7 năm 2012 là khi lần đầu tiên Hải quân Trung Quốc (PLAN) đã huy động ít nhất hơn chục tàu chiến từ 3 hạm đội (Hạm đội Bắc Hải, Hạm đội Đông hải và Hạm đội Nam hải) tiến hành cuộc tập trận chung quy mô lớn trên Biển Đông.[6] Gần đây nhất là vào ngày 28 tháng 6 năm 2012, Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố bắt đầu tuần tra sẵn sàng chiến đấu tại các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.[7]<br />Hải quân Trung Quốc tích cực triển khai chiến lược “chống tiếp cận/phong tỏa khu vực” trên biển, một ví dụ điển hình của chiến lược này là vụ quấy nhiễu tàu USNS Impeccable của Mỹ vào tháng 3 năm 2009, nhằm đẩy hải quân Mỹ ra xa bờ biển của Trung Quốc và biến vùng đặc quyền kinh tế thành vùng đặc quyền quân sự. Mặt khác, PLAN đã chuyển từ “phòng thủ chủ động gần bờ” trên chuỗi đảo thứ nhất (từ Kurile, Đài Loan tới Biển Đông) sang “phòng thủ xa bờ” trong chuỗi đảo thứ hai (từ Nhật Bản, Guam (Mỹ) tới Bắc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương). Vì vậy, Trung Quốc đang đầu tư cho lực lượng “Hải quân xanh” (blue-water navy), bao gồm cả việc phát triển chiếc tàu sân bay đầu tiên của mình.[8] Hệ quả của việc hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc, đặc biệt là Hải quân xanh là cân bằng về sức mạnh (cứng) ở khu vực đang chuyển dịch có lợi cho quốc gia này.<br />Liên quan đến các hoạt động bán quân sự, Trung Quốc đã triển khai một cách có hệ thống các tàu và tàu tuần tra từ các cơ quan chấp pháp biển khác nhau ở Biển Đông. Trung Quốc có ít nhất 5 cơ quan chấp pháp biển: Tuần duyên Trung Quốc là đơn vị thuộc thuộc Lực lượng Công an Biên phòng, một lực lượng thuộc sự quản lý của Bộ Công an; Cơ quan An toàn Hàng hải Trung Quốc thuộc Bộ Giao thông, có chức năng phối hợp tìm kiếm cứu nạn; Hải giám Trung Quốc (CMS), đơn vị chấp pháp bán quân sự thuộc Cơ quan Hải dương Quốc gia; Lực lượng Chấp pháp Ngư nghiệp Trung Quốc (FLEC) (cơ quan thuộc Cục Quản lý Ngư nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp) có trách nhiệm chấp pháp đối với các hoạt động liên quan đến đánh bắt cá và tài nguyên biển; và Tổng cục Hải quan thực hiện các hoạt động chống buôn lậu trên biển. Một số học giả cho rằng mỗi cơ quan trên đều có tàu tuần tra riêng và hoạt động độc lập và không có sự phối hợp với nhau.[9]<br />Trong suốt thời gian ban hành lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương của Trung Quốc từ tháng 5 đến tháng 8 (áp đặt hàng năm từ 1999), các lực lượng an ninh trên biển của Trung Quốc nhiều lần đã bắt giữ ngư dân Việt Nam, tịch thu tàu và đòi các khoản tiền phạt từ 8.000USD đến 10.000USD để thả họ. Đầu tháng 4 năm 2010, Bắc Kinh thậm chí thông báo đưa hai tàu tuần tra nghề cá lớn tới Đảo Trường Sa để bảo vệ các tàu cá Trung Quốc mà số lượng ngày càng tăng và đi xa hơn về phía nam. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc làm như vậy ngoài thời gian của lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương.[10] Ngày 23 tháng 6 năm 2010, tàu Ngư chính 311 của Trung Quốc đã chĩa súng máy cỡ lớn vào một tàu hải quân của Indonesia và đe dọa tấn công tàu này khi một tàu cá Trung Quốc bị lực lượng của Indonesia bắt giữ ở khu vực bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở Đảo Natuna.[11]<br />Trên thực tế, việc Trung Quốc đang tăng cường triển khai các lực lượng bán quân sự để tuần tra ở Biển Đông là một bước đi vừa để củng cố yêu sách của nước này đối với các khu vực tranh chấp, đồng thời phát đi thông điệp rằng Trung Quốc chỉ sử dụng “các biện pháp hòa bình.” Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu lực lượng được trang bị tốt và đầy sức mạnh không thể bảo vệ được lợi ích của Trung Quốc, liệu nước này có do dự khi sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ các lợi ích của mình hay không?<br />Về vấn đề khai thác năng lượng ở Biển Đông, từ mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã đe dọa một số công ty dầu khí nước ngoài phải dừng các hoạt động thăm dò xa bờ với các đối tác Việt Nam hoặc phải đối mặt với hậu quả khôn lường trong hoạt động kinh doanh của những công ty này với Trung Quốc.[12] Trong khi phản đối các quốc gia khác tiến hành khai thác năng lượng ở những khu vực bên trong Đường lưỡi bò, Trung Quốc lại ủng hộ việc khai thác chung nguồn tài nguyên năng lượng bên trong đường yêu sách này ở Biển Đông.<br />Một số nhân tố đối nội và đối ngoại giúp giải thích việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán trong những năm gần đây.<br />Những yếu tố bên trong bao gồm: (i) Làn sóng dân tộc chủ nghĩa gia tăng ở Trung Quốc: người dân Trung Quốc tin rằng các bên tranh chấp khác đang bòn rút “dầu của Trung Quốc” và đánh bắt “cá của Trung Quốc”, trong khi nước này không thu được bất kỳ giọt dầu nào từ Quần đảo Trường Sa, và ngư dân Trung Quốc đang bị bắt giữ và xua đuổi;[13] (ii) Quá trình chuyển giao lãnh đạo ở Trung Quốc và đấu tranh chính trị nội bộ khiến cho không một lãnh đạo nào của Trung Quốc muốn thể hiện “sự mềm yếu” trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; (iii) Các nhóm lợi ích: Một số hoạt động đã được các nhóm lợi ích (như ngư chính, hải giám…) tiến hành mà không có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương[14], trong khi các vị lãnh đạo cấp cao lại đang bận rộn với việc chuyển giao quyền lực và những vấn đề đối nội khác; (iv) Nhu cầu năng lượng: như đã nêu trên, Trung Quốc coi Biển Đông là nguồn cung cấp quan trọng và tuyến giao thông thiết yếu phục vụ việc phát triển quốc gia.<br />Xét yếu tố bên ngoài, có hai nhân tố góp phần giải thích cho việc hành xử quyết đoán của Trung Quốc trong những năm gần đây, liên quan mật thiết đến hai góc khác trong tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ. Trung Quốc tin rằng sức mạnh của Mỹ đang suy giảm do các vấn đề tài chính và kinh tế trong năm 2009-2010, do vậy Trung Quốc trở nên tự tin hơn và tìm cách tăng cường ảnh hưởng và lợi ích của mình ở Đông Á, trong đó Biển Đông là khu vực trọng tâm. Sự quyết đoán của Trung Quốc một phần là phép thử phản ứng của Mỹ. Thứ hai, những hành động của các nước yêu sách trong ASEAN buộc Trung Quốc phải phản ứng lại. Đây là lập luận chính của Trung Quốc khi nước này cáo buộc các quốc gia yêu sách khác gây căng thẳng và xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, hoạt động các quốc gia yêu sách ASEAN được tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế của họ trong nhiều năm mà không hề có sự phản đối của Trung Quốc. Lý do chính Trung Quốc tăng cường phản đối những hoạt động này là vì Trung Quốc đã công khai trên bình diện quốc tế tấm bản đồ yêu sách Đường lưỡi bò vào năm 2009; bất kỳ hoạt động nào xâm phạm Đường lưỡi bò được coi là vi phạm chủ quyền và ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc.<br />ASEAN<br />Đối mặt với những hành động ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, các quốc gia yêu sách ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines, đã áp dụng một chính sách tương đối toàn diện để bảo vệ những lợi ích quốc gia của họ, đồng thời cố gắng gìn giữ môi trường hòa bình bên ngoài. Chính sách này kết hợp giữa việc: sử dụng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển, để bảo vệ những yêu sách và quyền lợi của mình; phản đối việc khai thác chung với Trung Quốc ở những khu vực bên trong vùng đặc quyền kinh tế được quốc tế công nhận; đưa vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn khu vực để thảo luận với sự tham gia các cường quốc bên ngoài khác; hợp tác cùng các thành viên của ASEAN trong can dự Trung Quốc nhằm thực thi DOC và hướng tới một bộ quy tắc ứng xử mới; và đàm phán trực tiếp với Trung Quốc để giảm bớt căng thẳng và giải quyết các vấn đề song phương còn tồn tại.<br />Đối phó với yêu sách Đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước tranh chấp trong ASEAN đang cố gắng phân tách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đất liền (hay từ các đảo không tranh chấp gần bờ) và khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Để tối thiểu hóa khu vực tranh chấp, các nước ASEAN lựa chọn cách diễn giải UNCLOS, đặc biệt là Điều 121 về “quy chế đảo” theo một cách thức hạn chế.[15] Các nước này - trực tiếp hoặc gián tiếp - không coi bất kỳ thực thể đang tranh chấp nào ở Biển Đông là đảo, như định nghĩa trong Điều 121 của UNCLOS, do đó chúng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà chỉ có tối đa là lãnh hải 12 hải lý.[16] Điều này đồng nghĩa với việc các nước này giới hạn phạm vi tranh chấp chỉ là các đảo đá và lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo đá này.<br />Hầu hết các nước ASEAN – trực tiếp hoặc gián tiếp- đều có quan điểm phê phán Đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ngay sau khi Trung Quốc công khai hóa Đường lưỡi bò trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc năm 2009, Việt Nam ngay lập tức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc phản đối Công hàm có bản đồ Đường lưỡi bò của Trung Quốc, trong đó nêu rõ: “Tuyên bố đường chín đoạn trên bản đồ gửi kèm theo Công hàm ngoại giao của Trung Quốc là vô giá trị và không có hiệu lực vì nó không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế.”[17]<br />Ngày 08/07/2010, Indonesia gửi Công hàm đến Liên Hợp Quốc phản đối bản đồ của Trung Quốc: “cái gọi là bản đồ đường chín đoạn trong Công hàm của Trung Quốc rõ ràng là thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và ngang với việc bác bỏ Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc 1982.” [18]<br />Ngày 05/04/2011, Philippines gửi Công hàm tới Liên Hợp Quốc phản đối đường chín đoạn của Trung Quốc. Tiếp theo Việt Nam và Indonesia, Philippines phản đối cơ sở lịch sử (nếu có) Trung Quốc về đường chín đoạn. [19] Công hàm nêu rõ rằng tuyên bố của Trung Quốc về các khu vực ngoài các “thực thể địa lý” ở nhóm Kalayan và “vùng nước lân cận” không có cơ sở pháp lý theo luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và “liên quan đến các khu vực này, chủ quyền, quyền tài phán và quyền chủ quyền … thuộc về các nước ven biển và quần đảo tương ứng.” Sự mở rộng của vùng nước “lân cận” với “thực thể địa lý” tương ứng được định nghĩa trong các điều luật của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt là Điều 121 xác định quy chế các đảo.[20] Philippines ngày 21 tháng 1 năm 2013 đã quyết định đơn phương kiện Trung Quốc tại Tòa Trong tài thành lập theo Công ước Luật Biển 1982, nội dung chính của đơn kiện là phản đối đường lưỡi bò của Trung Quốc.[21]<br />Singapore tuy không phải là nước có tranh chấp ở Biển Đông nhưng cũng kêu gọi Trung Quốc làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông. Ngày 20/06/2011, bình luận về chuyến viếng thăm Singapore của tàu Hải tuần 31 của Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore cho biết:<br />Chúng tôi nghĩ rằng Trung Quốc có lợi ích trong việc làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông một cách chính xác hơn bởi sự mập mờ gần đây trong phạm vi những yêu sách này đã gây quan ngại sâu sắc trong cộng đồng các quốc gia biển quốc tế. Những vụ việc gần đây đã làm tăng thêm lo ngại này và đặt ra câu hỏi nghiêm túc về việc diễn giải Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).[22]<br />Các nước ASEAN khác tuy không nêu rõ quan điểm nhưng lại thống nhất với nhau trong các văn kiện chung của hiệp hội. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN vào tháng 07/2012 tại Campuchia đã thông qua “Đề xuất của ASEAN về các thành tố cơ bản của Bộ Quy tắc Ứng xử khu vực ở Biển Đông (COC) giữa các Quốc gia thành viên ASEAN và Cộng hòa Nhân dân Trung hoa”. COC do ASEAN đề xuất là một tài liệu pháp lý và là một trong các mục tiêu của ASEAN nhằm:<br />Thúc đẩy các nỗ lực làm rõ tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Khuyến khích các bên liên quan hợp tác cùng nhau để xác định và làm rõ tranh chấp biển và lãnh thổ ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS.[23]<br />COC cũng ràng buộc các bên “cam kết tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước ven biển theo quy định của UNCLOS 1982,” [24] - gián tiếp phản bác yêu sách Đường lưỡi bò của Trung Quốc chồng lấn lên các vùng biển của các quốc gia ven biển ASEAN.<br />Mỹ<br />Sau một thời gian dài hiện diện ở Trung Đông và Afghanistan trong cuộc chiến chống khủng bố, Mỹ đã “chuyển trọng tâm” sang Châu Á để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Biển Đông trở thành trọng tâm trong chiến lược “tái cân bằng Châu Á” của chính quyền Obama. Sự chuyển dịch trong chính sách của Mỹ mang tính toàn diện. Về chính trị và ngoại giao, Mỹ can dự sâu hơn ở Châu Á – Thái Bình Dương thông qua việc tăng số lượng các cuộc viếng thăm khu vực của Tổng thống, Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng và các quan chức cấp cao khác. Về mặt kinh tế, sau khi phê chuẩn Hiệp định mậu dịch tự do với Hàn Quốc, Mỹ tập trung vào Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). TPP mang thành tố chiến lược nhằm tăng cường quan hệ giữa Mỹ với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để đối trọng với các cơ chế kinh tế đa phương với Trung Quốc làm trung tâm như CAFTA, ASEAN+3. Về quân sự, dù ngân sách chung bị cắt giảm, nhưng ngân sách dành cho Bộ tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (PACOM) không bị ảnh hưởng.[25] Ngược lại, Mỹ còn tăng cường phạm vi hiện diện các lực lượng PACOM, bao gồm “trạm quân sự” mới tại Úc. Mỹ đang lên kế hoạch chuyển phần lớn hải quân tới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 11 tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tuyên bố rằng 60% tàu chiến Mỹ sẽ đóng ở Thái Bình Dương đến năm 2020. [26] Ngoài ra, trong những năm gần đây, Mỹ còn tăng cường hợp tác với Nhật và Philippines về các vấn đề an ninh biển.<br />Tại ARF-17 năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã lần đầu tiên tuyên bố lợi ích quốc gia của Mỹ tại Biển Đông, trong đó có tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và hoạt động thương mại không bị cản trở. Mỹ cũng gián tiếp bác bỏ bất cứ lập luận nào về “vùng nước lịch sử” hay “quyền lịch sử” của đường lưỡi bò, điều này được thể hiện qua phát biểu của bà Clinton rằng: “Theo như luật tập quán quốc tế, các yêu sách hợp pháp đối với các vùng biển tại Biển Đông chỉ có thể xuất pháp từ các yêu sách hợp pháp đối với các thực thể đảo.”[27] Phát biểu tại một phiên điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thương viện Mỹ, Ngoại trưởng Clinton nói rằng: “các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông vượt qua những gì mà UNCLOS cho phép”.[28]<br />Tương tác trong tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ<br />Như đã đề cập ở trên, sự tương tác giữa các cạnh trong tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ trong vấn đề Biển Đông có các động lực riêng của nó. Trung Quốc quyết đoán tại Biển Đông đã khiến các nước ASEAN liên quan đến tranh chấp lo ngại về an ninh của họ cũng như sự ổn định ở khu vực. Nhìn chung, Trung Quốc càng quyết đoán ở Biển Đông thì sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á càng giảm sút. Chính sách “tấn công hấp dẫn” do Trung Quốc tiến hành hơn mười năm về trước tại Đông Nam Á đã không còn phát huy hiệu quả. Mặc dù hầu hết các nước ASEAN đều có lợi ích trong quan hệ kinh tế-thương mại với Trung Quốc, các nước này ngày càng cảnh giác trước ý đồ của Bắc Kinh. Một mặt, các nước ASEAN phát triển quan hệ kinh tế với Trung Quốc; mặt khác, họ tăng cường quan hệ an ninh với Mỹ và hoan nghênh sự hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực. Một vài quốc gia ASEAN cũng đã tiến hành các động thái nhằm hiện đại hóa quân sự, tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để cân bằng lại quyền lực ở khu vực này. Do đó, Mỹ càng có nhiều lý do để can dự vào Đông Nam Á và tạo ảnh hưởng đối với vấn đề Biển Đông.<br />Với Mỹ, một mặt cạnh tranh với Trung Quốc để việc duy trì vị thế lãnh đạo tại Châu Á – Thái Bình Dương, mặt khác Mỹ cũng cần hợp tác với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh đó, vấn đề Biển Đông giúp Mỹ có cớ để duy trì can dự tại khu vực và tập hợp lực lượng để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Trung Quốc càng hùng mạnh bao nhiêu thì lợi ích của Mỹ tại châu Á cũng sẽ lớn lên bấy nhiêu. Vì thế, Mỹ tái khẳng định lợi ích và lập trường của nước này về vấn đề Biển Đông tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) 17, 18, 19 và tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) 2011 là các diễn biến logic. Trong một vài năm tới, nhiều khả năng Mỹ sẽ tiếp tục duy trì lập trường trên, cho dù là với các mức độ khác nhau tại các diễn đàn khu vực khác nhau.<br />Ở một góc độ khác, chính sách và lập trường của của Mỹ ảnh hưởng lên cả lập trường của những nước khác, đặc biệt là những nước có mối quan hệ gần gũi với Washington. Tiếp sau Mỹ, các quốc gia có lợi ích tại Biển Đông như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và ngay cả một số quốc gia EU khác cũng bày tỏ quan ngại về các diễn biến gần đây tại Biển Đông. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành vấn đề quốc tế và được các bên có liên quan đề cập tại nhiều diễn đàn đa phương khác nhau (như ARF, EAS, ASEM…).<br />Ngoài ra, việc Trung Quốc đe dọa các công ty dầu mỏ và khí đốt quốc tế trong làm ăn với các nước ASEAN đã không ngăn cản được các công ty này nhưng lại tạo cớ cho Mỹ bày tỏ quan điểm của mình về “hoạt động thương mại không bị cản trở” và khiến Mỹ quyết tâm hơn trong việc bảo vệ lợi ích của các tập đoàn Mỹ. Một hậu quả nữa của hành động này đó là nó đã khiến các nước nhỏ hơn tại Đông Nam Á tìm cách hợp tác với các công ty dầu mỏ và khí đốt của các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật và Ấn Độ- những nước mà Trung Quốc không thể đe dọa. Kết quả là Biển Đông đã trở thành vấn đề có sự đan xen lợi ích của các cường quốc và đang ngày càng được quốc tế hóa – một cục diện mà Trung Quốc không hề mong muốn.<br />Quan trọng hơn, Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề chính yếu trong quan hệ Mỹ-Trung. Trong những năm trước đây, khi vấn đề Biển Đông luôn là một trong các ưu tiên chính sách đối ngoại của các nước có tranh chấp trong ASEAN thì vấn đề này chỉ là ưu tiên hạng hai trong chính sách của Trung Quốc, ít nhất là so với chính sách của Trung Quốc trong mối quan hệ với các nước lớn. Hiện nay, khi vấn đề Biển Đông trở thành một trong những ưu tiên chính sách đối ngoại của Trung Quốc thì cách tiếp cận của Trung Quốc sẽ trở nên đồng bộ và thống nhất hơn. Trung ương có thể điều phối và hạn chế yếu tố cạnh tranh và thiếu hợp tác giữa các “nhóm lợi ích” khác nhau –nhân tố chính khiến tình hình Biển Đông nóng lên. Do đó, chính sách Biển Đông của Trung Quốc có thể được điều chỉnh một cách linh hoạt khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc thấy cần thiết. Diễn biến này có cả tác động tích cực và tiêu cực cho ASEAN, phụ thuộc vào việc liệu các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định điều chỉnh chính sách mềm mỏng hay cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông.<br />Những diễn biến trong nửa cuối năm 2011 cho thấy các dấu hiệu tích cực khi Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng trong chính sách Biển Đông của nước này. Khi lãnh đạo Trung Quốc nhận ra hậu quả tiêu cực do sự quyết đoán ngày càng tăng gần đây trển Biển Đông, họ đã điều chỉnh chính sách mang tính toàn diện hơn: từ khởi động “cuộc tấn công quyến rũ” lần hai tới các nước ASEAN thông qua các biện pháp kinh tế và tài chính cho đến kiềm chế không sử dụng thêm các hành động đe dọa trên biển. Giai đoạn sau đó, không có thêm thông tin nào về việc bắt giữ các ngư dân Việt Nam hoặc tịch thu các tàu cá của Việt Nam như những năm trước cho dù Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong khu vực ở phía bắc của vĩ tuyến 12 tại Biển Đông trong khoảng thời gian từ 16/5 cho đến 1/8 năm 2011. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc cũng không cản phá hoạt động thăm dò dầu mỏ và khí đốt của Việt Nam và Philippines tại khu vực nằm trong Đường lưỡi bò ở Biển Đông. Trung Quốc cũng ký Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC với ASEAN và Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển với Việt Nam. Trung Quốc cũng để ngỏ việc thảo luận với ASEAN về việc xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử COC “khi thời cơ chín muồi”.[29] Trung Quốc chấp nhận thảo luận với ASEAN về vấn đề Biển Đông để chứng minh với cộng đồng quốc tế rằng ASEAN và Trung Quốc có thể hợp tác cùng nhau trong việc quản lý tranh chấp và không cần thiết có sự can dự từ bên ngoài vào vấn đề Biển Đông.<br />Cuộc đối đầu ở Bãi cạn Scarborough với Philippines cho thấy cách tiếp cận của Trung Quốc mang tính phối hợp và tập trung, nhưng theo hướng ngược lại. Để ngăn chặn Philippines, Trung Quốc cũng áp dụng một cách tiếp cận đồng bộ và toàn diện, từ việc gây áp lực về ngoại giao, tăng cường hiện diện ở khu vực tranh chấp với hàng trăm tàu cá và tàu chấp pháp từ các cơ quan khác nhau (Hải giám và Ngư chính), áp dụng việc trừng phạt kinh tế đối với các sản phẩm nông nghiệp của Philippines và tăng cường hoạt động tuyên truyền ra quốc tế. Để đáp trả việc Việt Nam thông qua Luật Biển, Trung Quốc cũng đã tiến hành đồng thời các biện pháp đa chiều như đưa ra phản đối ngoại giao; thiết lập thành phố Tam Sa để quản lý quần đảo Hoàng Sa, Bãi Macclesfield, Quần đảo Trường Sa và “các vùng nước liền kề” ở Biển Đông[30]; mời thầu quốc tế các lô dầu khí bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam[31]; triển khai một số lượng lớn các tàu tuần tra ở Biển Đông; và đồn trú lực lượng quân sự ở “thành phố Tam Sa” được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Trong quan hệ với ASEAN, để ảnh hưởng đến cuộc thảo luận nội khối ASEAN, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã thăm Campuchia trước khi khai mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 4, Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt cũng có chuyến thăm chính thức Campuchia lúc diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 6 (ADMM) vào tháng 5, một cách không chính thức biến ADMM thành ADMM+1.<br />Kết quả của việc áp dụng một cách tiếp cận toàn diện, đồng bộ và tập trung, chính sách Biển Đông của Trung Quốc là nhằm hướng tới “tranh chấp mở rộng với cường độ thấp”. Chính sách này là sự kết hợp giữa: tăng cường sự hiện diện, kiểm soát của lực lượng dân sự và bán quân sự ở tất cả các khu vực bên trong đường lưỡi bò; kiềm chế sử dụng các lực lượng quân sự; hứa hẹn đầu tư mạnh mẽ về kinh tế đối với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các nước không tranh chấp; và tích cực tăng cường áp lực ngoại giao để ngăn cản ASEAN hình thành một lập trường chung về Biển Đông. Với cách thức này, Trung Quốc tăng khả năng hạn chế Mỹ can dự vào vấn đề Biển Đông.<br />Mỹ hiện tại đang ở trong một tình thế khó xử. Việc chưa gia nhập Công ước Luật Biển đã làm hạn chế tính chính danh của Mỹ khi chỉ trích các quốc gia khác không tôn trọng luật biển. Sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng hải quân Mỹ không ảnh hưởng nhiều đến cuộc tranh giành quyền kiểm soát tài nguyên ở Biển Đông - chủ yếu diễn ra giữa tàu chấp pháp của các nước ven biển. Việc Trung Quốc thành công khi đẩy lùi Philippines và thiết lập sự hiện diện của nước này ở Bãi cạn Scarborough bất chấp các nỗ lực của Mỹ nhằm giảm bớt căng thẳng cho thấy những giới hạn trong sự can dự của Mỹ. Trên khía cạnh chính trị khu vực, các quốc gia ASEAN hiện lưu tâm nhiều đến mối quan ngại của Trung Quốc hơn là của Mỹ. Về ngoại giao đa phương, tác động từ “tuyên bố của Clinton tại ARF-17” không còn mạnh mẽ như trước, nhất là khi Mỹ không đưa ra bất kỳ quan điểm nào trong những bài phát biểu gần đây tại các diễn đàn khu vực.<br />ASEAN đang phải đối mặt với thách thức lớn nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ ngày càng gia tăng ở Đông Nam Á, liệu ASEAN sẽ bị chia rẽ hay đoàn kết hơn để duy trì tính trung tâm của khối trong cấu trúc an ninh khu vực? Vai trò của ASEAN trong việc quản lý các tranh chấp ở Biển Đông có thể bị hạn chế bởi sự chia rẽ trong nội khối và những tác động từ bên ngoài, thậm chí sau khi kết thúc năm chủ tịch của Campuchia.<br />Kết luận: Tái cân bằng tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ ở Biển Đông<br />Tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ ở Biển Đông ở thời điểm hiện tại bị thiếu cân bằng khi Trung Quốc đang chiếm ưu thế trên biển và trên các diễn đàn ngoại giao, Mỹ vẫn đang tìm kiếm cách thức tiếp cận để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy và ASEAN bị phân hóa, về mặt thể chế có thể bị thao túng bởi bất kỳ nước chủ tịch hay thậm chí là một thành viên riêng lẻ nào.<br />Tuy nhiên, có khả năng những gì Trung Quốc thu được chỉ là tạm thời; về lâu dài những gì Trung Quốc có thể mất nhiều hơn những gì mà nước này đạt được. Những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian dài được coi là “thuốc thử” đối với việc Trung Quốc sẽ theo đuổi chính sách trỗi dậy hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, hay nước này muốn “sửa lại các luật lệ”. Tuy nhiên, việc Trung Quốc cho phép Tập đoàn Dầu khí Hải dương Quốc gia (CNOOC) mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam rõ ràng là một tiền lệ của việc bất chấp luật pháp quốc tế. Đứng trước thách thức luật pháp quốc tế bị coi nhẹ và vai trò trung tâm của ASEAN bị ảnh hưởng, các quốc gia ASEAN không có lựa chọn ngoài việc nêu ra mối quan ngại chung của họ một cách thường xuyên hơn trong các diễn đàn khu vực.<br />Về phía Mỹ, Biển Đông không chỉ liên quan đến lợi ích chiến lược của nước này, mà còn là uy tín của sức mạnh Mỹ. Nhưng nếu Trung Quốc tiếp tục sử dụng các biện pháp phi quân sự trên biển và áp dụng cách thức ngoại giao và kinh tế để chi phối chính sách của các nước ASEAN, Mỹ không thể can thiệp và gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Những gì mà Mỹ có thế làm để đối phó với chiến lược của Trung Quốc là bổ sung thêm các thành tố khác vào chiến lược của mình như yếu tố bán quân sự và kinh tế, điều mà Mỹ đã xao lãng trong nhiều năm qua.<br />Do Bắc Kinh có thể đề ra một chính sách phối hợp và thống nhất trong vấn đề Biển Đông, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ đặt vấn đề này trong một bức tranh tổng thể của toàn bộ chính sách đối ngoại của mình. Khi Trung Quốc phải quan tâm đến các lợi ích khác trong quan hệ với Mỹ, ASEAN hơn lợi ích biển cụ thể ở Biển Đông, các nước khác có thể hy vọng về một cách tiếp cận ôn hòa hơn của Trung Quốc ở Biển Đông./.<br />TS. Trần Trường Thủy<br /><br />Bản dịch tham luận tại Hội thảo quốc tế lần thứ 4 "Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực" do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2012. Đọc bản gốc tại đây<br /><br /><br /><br />[1] Tham luận của Daniel Schaeffer tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần 3<br />[2] Năm 1998, các nhà địa chất Mỹ ước tính Biển Đông có khoảng 2,1 – 15,8 tỷ thùng dầu tại Trường Sa, trong khi các nguồn của Nga thì lại ước tính có khoảng 7,5 tỷ thùng. Năm 2003, Trung Quốc khẳng định khu vực quần đảo Hoàng Sa có trữ lượng 41 tỷ thùng dầu, 8 – 10 tỷ mét khối khí đốt, khoảng 3,1 tỷ tấn nguồn tài nguyên khác và trên 630 triệu kW năng lượng tái sinh.<br />[3] Báo cáo của CNAS: Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea, xem tại<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.cnas.org%2Ffiles%2Fdocuments%2Fpublications%2FCNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf&h=4AQH3C30k&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf</a><br />[4] Báo cáo của CNAS<br />[5] Phát biểu của Người phát ngôn Bộ ngoại giao Singapore trong chuyến thăm của tàu Hải tuần 31 tới Singapore.<br /><a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.mfa.gov.sg%2Fcontent%2Fmfa%2Foverseasmission%2Fphnom_penh%2Fpress_statements_speeches%2Fembassy&h=YAQGOmCJv&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.mfa.gov.sg/content/mfa/overseasmission/phnom_penh/press_statements_speeches/embassy</a><br />_news_press_releases/2011/201106/press_201106_5.html<br />[6] “China's three-point naval strategy”, Strategic Comment, Volume 16, Comment 37 – tháng 10, 2010, The International Institute For Strategic Studies (IISS),<br /><a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.iiss.org%2Fpublications%2Fstrategic-comments%2Fpast-issues%2Fvolume-16-2010%2Foctober%2Fchinas-three-point-naval-strategy%2F&h=CAQHm4k4a&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.iiss.org/publications/strategic-comments/past-issues/volume-16-2010/october/chinas-three-point-naval-strategy/</a><br />[7] “China pledges to protect maritime sovereignty”,<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.chinadaily.com.cn%2Fchina%2F2012-06%2F29%2Fcontent_15533944.htm&h=nAQG0tAJL&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.chinadaily.com.cn/china/2012-06/29/content_15533944.htm</a><br />[8] Ian Storey, “Asia’s Changing Balance of Military Power: Implications for the South China Sea Dispute “ in NBR Report Maritime Energy Resources in Asia: Energy and Geopolitics, Clive Schofield edited<br />[9] Xem thêm: Lyle J. Goldstein, Five Dragons Stirring Up the Sea: Challenge and Opportunity in China’s Improving Maritime Enforcement Capabilities, U.S. Naval War College, China Maritime Study 5, April 2010. <a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.usnwc.edu%2FResearch---Gaming%2FChina-Maritime-Studies-Institute%2FPublications%2Fdocuments%2FCMSI_No5_web1.pdf&h=RAQEAmZQa&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.usnwc.edu/Research---Gaming/China-Maritime-Studies-Institute/Publications/documents/CMSI_No5_web1.pdf</a><br />[10]Ian Storey, China’s “Charm Offensive” Loses Momentum in Southeast Asia, China Brief Volume 10 Số 9: ngày 29 tháng 4 năm 2010.<br /><a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.jamestown.org%2Fsingle%2F%3Fno_cache%3D1%26tx_ttnews%255Btt_news%255D%3D36324%26tx_ttnews%255BbackPid%255D%3D7%26cHash%3D897d20a7fa&h=JAQG3D3Kg&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.jamestown.org/single/?no_cache=1&tx_ttnews%5Btt_news%5D=36324&tx_ttnews%5BbackPid%5D=7&cHash=897d20a7fa</a><br />[11] “China flexes muscles in South China Sea”, Mainichi Shimbun, ngày 27 tháng 7 năm 2010<br />[12] Scot Marciel, “Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia” Điều trần trước Tiểu ban về vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, Ủy ban Đối ngoại, Thượng viện Mỹ, ngày 15 tháng 7 năm 2009.<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fforeign.senate.gov%2Fhearings%2Fhearing%2F20090715_2%2F&h=kAQHyB2wn&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://foreign.senate.gov/hearings/hearing/20090715_2/</a><br />Tóm tắt những bức điện ngoại giao của Mỹ bị rò rỉ do WikiLeaks công bố về việc Trung Quốc phản đối các công ty dầu khí quốc tế ký kết thỏa thuận thăm dò với Việt Nam ở Biển Đông, xem Greg Torode, “Beijing pressure intense in South China Sea row”, South China Morning Post, ngày 23 tháng 9 năm 2011.<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Ftopics.scmp.com%2Fnews%2Fchina-news-watch%2Farticle%2FBeijing-pressure-intense-in-South-China-Sea-row&h=zAQGZ23h_&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://topics.scmp.com/news/china-news-watch/article/Beijing-pressure-intense-in-South-China-Sea-row</a><br />[13] Mingjiang Li, “Reconciling Assertiveness and Cooperation? China’s Changing Approach to the South China Sea Dispute”, Security Challenges, Tập 6, Số 2 (Mùa Đông 2010), tr 51, tr 58.<br />[14] Báo cáo ICG<br />[15] UNCLOS quy định hai loại thực thể theo Điều 121 chi phối “quy chế đảo”: đảo có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, và “đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng” “sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.”<br />[16] Xem Tran Truong Thuy trong Báo cáo NBR 2011<br />[17<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.un.org%2FDepts%2Flos%2Fclcs_new%2Fsubmissions_files%2Fmysvnm33_09%2Fvnm_chn_2009re_mys_vnm_e.pdf&h=NAQGgv9Ro&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/vnm_chn_2009re_mys_vnm_e.pdf</a><br />[18]<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.un.org%2FDepts%2Flos%2Fclcs_new%2Fsubmissions_files%2Fmysvnm33_09%2Fidn_2010re_mys_vnm_e.pdf&h=YAQGOmCJv&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf</a>.<br />[19] Xem Công hàm Philippines tại<br /><a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.un.org%2FDepts%2Flos%2Fclcs_new%2Fsubmissions_files%2Fmysvnm33_09%2Fphl_re_chn_2011.pdf&h=mAQEqeDAE&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf</a><br />[20] Xem Công hàm Philippines tại<br /><a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.un.org%2FDepts%2Flos%2Fclcs_new%2Fsubmissions_files%2Fmysvnm33_09%2Fphl_re_chn_2011.pdf&h=XAQFC6ueh&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf</a><br />[21] <a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.dfa.gov.ph%2Findex.php%2Fnewsroom%2Fdfa-releases%2F7300-statement-by-secretary-of-foreign-affairs-albert-del-rosario-on-the-unclos-arbitral-proceedings-against-china-to-achieve-a-peaceful-and-durable-solution-to-the-dispute-in-the-wps&h=pAQEZvqSZ&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.dfa.gov.ph/index.php/newsroom/dfa-releases/7300-statement-by-secretary-of-foreign-affairs-albert-del-rosario-on-the-unclos-arbitral-proceedings-against-china-to-achieve-a-peaceful-and-durable-solution-to-the-dispute-in-the-wps</a><br />[22]<br />Bình luận của người phát ngôn Bộ ngoại giao Singapore về chuyến thăm của Tàu hải tuần 31 tới Singapore.<br /><a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.mfa.gov.sg%2Fcontent%2Fmfa%2Foverseasmission%2Fphnom_penh%2Fpress_statements_speeches%2Fembassy&h=OAQH45Hxg&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.mfa.gov.sg/content/mfa/overseasmission/phnom_penh/press_statements_speeches/embassy</a><br />_news_press_releases/2011/201106/press_201106_5.html<br />[23] “ASEAN’s Proposed Elements of a Regional Code of Conduct in the South China Sea (COC) between ASEAN Member States and the People’s Republic of China”<br />[24] Tlđd<br />[25] Đại diện PACOM trong trao đổi trực tiếp với tác giả<br />[26] <a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.iiss.org%2Fconferences%2Fthe-shangri-la-dialogue%2Fshangri-la-dialogue-2012%2Fspeeches%2Ffirst-plenary-session%2Fleon-panetta%2F&h=dAQE9ujvY&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.iiss.org/conferences/the-shangri-la-dialogue/shangri-la-dialogue-2012/speeches/first-plenary-session/leon-panetta/</a><br />[27] Tlđd.<br />[28] “China's Sea Claims Excessive, Says US”,<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.mb.com.ph%2Farticles%2F360386%2Fchinas-sea-claims-excessive-says-us&h=NAQGgv9Ro&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.mb.com.ph/articles/360386/chinas-sea-claims-excessive-says-us</a><br />[29] Phát biểu của Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hội nghị ARF. <a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.fmprc.gov.cn%2Feng%2Fzxxx%2Ft842183.htm&h=eAQH29p9U&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.fmprc.gov.cn/eng/zxxx/t842183.htm</a><br />[30] “Administrative status of islands raised”.<a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Feurope.chinadaily.com.cn%2Fchina%2F2012-06%2F21%2Fcontent_15517602.htm&h=qAQGZ3sE7&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://europe.chinadaily.com.cn/china/2012-06/21/content_15517602.htm</a><br />[31] CNOOC: “Notification of Part of Open Blocks in Waters under Jurisdiction of the People’s Republic of China Available for Foreign Cooperation in the Year of 2012”.<a href="http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2012-06-22/english/322127.html" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer;" target="_blank">http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2012-06-22/english/322127.html</a></span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-33487562348843042412013-06-26T08:18:00.000-07:002013-06-26T08:19:21.496-07:00Quan hệ Việt - Campuchia: lịch sử và hiện tại<b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Quan hệ Việt - Campuchia: lịch sử và hiện tại</span></b><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả, khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trong tâm cảm “Từ thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long”, chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ “phá Tống bình Chiêm”, và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suryavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suryavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trước khi đi vào giai đoạn lịch sử bi tráng của Đại Việt và đế quốc Chân Lạp thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông và Suryavarman II trị vì, thiết tưởng điểm qua bối cảnh lịch sử chính trị, ngoại giao, quân sự của vài đời vua Lý, vua Chiêm và vua Chân Lạp trước Lý Thần Tông, Suryavarman II, Jaya Harivarman VI:</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trước hết điểm qua thực lực của các nước Tống, Chiêm, Chân Lạp thuộc liên minh chống Đại Việt để thấy tư thế vững mạnh của Đại Việt lúc ấy </span><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Đến năm Bính Thìn [1076], Thái Ninh năm thứ 5, triều đình Tống Thần Tông, kinh đô Khai Phong, đang phải đối phó với nước Kim, nước Liêu ở phía Bắc và nội bộ đang chia rẽ trầm trọng, nhưng vì nước Tống là một đại quốc, đang hận chưa lấy được Đại Việt mà còn bị Đại Việt đánh vào châu Ung, châu Khâm trước đó nên họ vẫn quyết tâm đánh chiếm Đại Việt. Triều đình Tống Thần Tông từ kinh đô Khai Phong rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp ở phía tây nam Đại Việt, nhằm tiêu diệt Đại Việt đang tự cường và tự chủ.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Còn nước Chiêm Thành mặc dầu đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần trước đó, thậm chí bị đế quốc Chân Lạp cướp phá, nhưng đến năm 1074, hoàng thân Than lên ngôi xưng là Harivarman IV (1074- 1080), nước Chiêm Thành phục hưng và vua Harivarman IV cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu, cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn và xây mới nhiều đền đài tráng lệ. Ông vua Chiêm Thành này có thực tài nên vô hiệu hóa một chiến dịch quân sự của Đại Việt, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đánh vào Chiêm Thành năm 1075.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Lúc bấy giờ Chân Lạp với kinh đô Angkor đã trở thành đế quốc, nhiều lần định thôn tính Chiêm Thành nhưng Harivarman IV của Chiêm Thành cũng chống trả sự xâm lược của đế quốc Chân Lạp. Thật vậy, sau khi vua Suryavarman I tài ba của đế quốc Chân Lạp, ngự trị ở Angkor, mất vào năm 1050, thì 2 người con là Udayadityavarman II và Harshavarman III thừa kế sự nghiệp. Thời kỳ từ 1050 đến 1066 này ở Chân lạp lại loạn lạc cho đến tận năm 1066. Sau năm 1066 Harshavarman III có thực quyền, thống nhất được đất nước, liền nhiều lần thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công trọn vẹn .</span><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Tuy Tống- Chiêm- Chân Lạp liên minh đánh Đại Việt nhưng không chặt chẽ, chủ yếu vẫn là quân Tống tham chiến dưới sự chỉ huy của Chiêu thảo sứ Quách Quỳ. Khi liên minh này xâm lược Đại Việt vào tháng 3, mùa xuân năm Bính Thìn [1076] đã bị Đại Việt đánh bại, quân xâm lược Tống phải đền tội hơn 1000 binh. Vua Lý Nhân Tông anh minh đã sai Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại quân để chống quân Tống. Với tổng chỉ huy tài ba Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt đã làm nên đại thắng ở đại phòng tuyến Như Nguyệt lẫy lừng trong lịch sử. Vua Lý Nhân Tông vẫn ngự ở kinh đô Thăng Long để đọc thư báo tiệp mỗi ngày.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trên đây, chỉ điểm lại vài nét của mốc son 1076, ghi dấu Đại Việt chiến thắng oanh liệt trong cuộc xâm lược của liên minh Tống, Chiêm, Chân Lạp, xin được chuyển qua nội dung chính của bài viết.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Thế kỷ 11, 12 Chân Lạp đang trên đà mở mang lãnh thổ, chiếm nhiều đất đai của Chiêm Thành, Thái, Lào, Miến để phát triển thành đế quốc Chân Lạp. Vì các vua Chân Lạp từ 1000 đến 1128 phải giải quyết những bất ổn về nội trị, phải chống trả những cuộc xâm lược của Champa do Harivarman IV thân chinh. Và do những chiến công “phá Tống bình Chiêm” vang dội của Đại Việt dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông nên đế quốc Chân lạp luôn giữ mối bang giao hòa hiếu với Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép những năm Chân Lạp có cử sứ giả sang Đại Việt để bang giao: 1012, 1014, 1020, 1025, 1026, 1039, 1056, 1077, 1089, 1120, 1123. Thời kỳ này, chỉ một lần ngoại giao giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp có xấu đi khi đế quốc Chân Lạp liên minh với Tống trong cuộc xâm lược năm 1076, trên danh nghĩa chứ không thực sự tham chiến. Sau khi Harshavarman III tử nạn, do Harivarman IV của Champa gây ra, khi vua này thân chinh đánh phá Angkor vào 1080. Sau cái chết của Harshavarman III là thời kỳ trị vì của Jayavarman VI (1080 – 1107 ) và Dharanindravarman I (1107 – 1113), nói chung hai ông vua này không có gì nổi bật. Năm 113, người cháu trai của Dharanindravarman I làm cuộc đảo chánh dân sự, giết vua Dharanindravarman I để cướp ngôi và trở thành vị vua kiệt xuất Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp. Và kể từ khi ông vua đầy tham vọng và hiếu chiến này lên ngôi, tình hình Đông Nam Á đầy bất ổn, luôn xảy ra xây dựng lớn mà tàn phá cũng lớn. Giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp không còn hòa hiếu như xưa, vì tham vọng quá lớn của Suryavarman II.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Dưới triều đại của Suryavarman II, ở kinh đô Angkor, ngôi đền lớn nhất Angkor Wat được xây dựng trong khoảng thời gian 37 năm. Angkor Wat là nơi thờ thần Vishnu. Vương quốc Haripunjaya của dân tộc Môn (nay là miền Trung Thái Lan) bị Suryavarman II thôn tính.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Một khu vực xa hơn về phía tây của vương quốc Pagan (nay là Myanmar )cũng bị Suryavarman II xâm chiếm và nhập vào đồ bản của đế quốc Chân Lạp. Phía nam, Suryavarman II cũng lấn đến vương quốc Grahi (nay là tỉnh Nakhon Si Tham marat của Thái Lan) thuộc khu vực bán đảo Malay. Về phía đông, nhiều vùng của Chiêm cũng bị sáp nhập vào đế quốc Chân Lạp. Về phía bắc, các vùng đất song song với Đại Việt, đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay cũng bị Suryavarman II thôn tính. Như thế thời Suryavarman II đế quốc Chân Lạp có lảnh thổ với diện tích gấp 10 diện tích lãnh thổ Đại Việt.</span><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Vào năm 1080, sau khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman IV của Champa đã xua quân đánh đế quốc Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Năm 1128, Suryavarman II hòa hoãn với Harivarman V của Champa để dồn sức tấn công Đại Việt. Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà ngày 4 tháng chạp năm Đinh Mùi[1127] tại điện Vĩnh Quang, ngày 8 tháng chạp linh cửu quàng ở điện Hồ Thiên, Hoàng thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi trước linh cửu, chưa kịp táng tiên đế, chưa đầy hai tháng quốc tang thì Suryavarman II đã cử quân tướng 2 vạn sang xâm lược Đại Việt từ ngày 29 tháng giêng Mậu Thân [1128]. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mậu Thân, Thiên Thuận năm thứ 1[1128]. Mùa xuân, tháng giêng…Ngày Giáp Dần, hơn hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh”.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Quân Chân Lap hơn hai vạn, của một đế quốc với lãnh thổ rộng gấp mười Đại Việt, với sự lãnh đạo của một hoàng đế kiệt hiệt như Suryavarman II, đã từng thôn tính nhiều vương quốc, thì đây là một cuộc xâm lược đích thực, không dừng lại ở mức cướp bóc! Vua Lý Nhân Tông đã tiên liệu khi để lại di chiếu, có đoạn dặn dò : “…Mà thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ[12 tuổi], có nhiều đại độ, thông minh thành thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nghiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế…”(sdd, tr 296). “Việc không ngờ” đâu chỉ “biến động giành ngôi của các thân vương” mà còn nạn ngoại xâm của các lân bang nữa. Ngày Quí Hợi tháng hai, tướng Lý Công Bình đã đánh bại quân xâm lược Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Ngày Đinh Mão, tháng 2, khi các quan dâng biểu mừng vua lên ngôi thì cũng là ngày nhận thư báo thắng trận của Lý Công Bình gửi về kinh sư. Tháng 3, Lý Công Bình đem binh về kinh sư, dâng tù 169 người.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Bị thua đau vào cuối tháng giêng, chỉ hơn nửa năm, vào tháng 8, hoàng đế Suryavarman II lại lệnh cho một đạo quân lớn gồm 700 thuyền chiến lại đánh phá ở hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh). Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai tướng Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hóa, tướng Dương Ổ ở châu Nghệ An đem quân đánh và phá được giặc. Suryavarman II lại gửi hoàng đế Lý Thần Tông một phong quốc thư, yêu cầu Đại Việt cử sứ giả sang Chân Lạp. Vua Đại Việt không thèm trả lời.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Bốn năm sau, Nhâm Tý [1132], Thiên Thuận năm thứ 5, Suryavarman II của Chân lạp cử tướng hội quân cùng với Chiêm Thành lại đánh châu Nghệ An. Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai Thái úy Dương Anh Nhĩ huy động quân binh ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An chống trả mạnh mẽ, kết quả phá tan quân xâm lược.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Năm Ất Mão [1135], Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 3, không xâm lược được Đại Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành chuyển qua hòa hoãn đều cử sứ giả sang Đại Việt. Chỉ hai năm sau, vào năm Đinh Tỵ [1137], Thiên Chương Bảo Tượng năm thứ 5, Suryavarman II, chưa nguôi hận, lại sai tướng Phá Tô Lăng đưa quân đánh phá châu Nghệ An. Mặc dầu sử Việt không ghi chép số lượng quân Chân Lạp, nhưng có thể đoán định quân xâm lược phải có số quân lớn đáng kể, vì hoàng đế Lý Thần Tông phải xuống chiếu sai Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chỉ một tháng sau, vừa địch họa lại gặp động đất “nước sông đỏ như máu”, nhưng Thái úy Lý Công Bình cũng đánh tan được quân giặc.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Thế kỷ thứ 12, Champa vào thời vua Jaya Indravarman V [1086-1139]đã liên minh với Chân Lạp để gây chiến tranh chống lại với Ðại Việt. Sau những lần xâm lược Đại Việt không thành công, Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp quay ra nghi ngờ vương quốc Champa, dưới triều vua Jaya Indravarman III [1139-1145], đang liên minh với Ðại Việt, quyết định tuyên chiến với Chiêm vào năm 1145. Quân đội viễn chinh của đế quốc Chân Lạp xâm lược Chiêm, chiếm thành Ðồ Bàn, vua Jaya Indravarman III mất tích, và Suryavarman II đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trước tình hình nguy ngập này, vua Jaya Indravarman VI [1139-1147], thủ lĩnh một tiểu vương quốc Panduranga, quyết định nổi dậy chống cuộc xâm lăng của đế quốc Chân Lạp. Vua Jaya Harivarman VI [1147-1163] kế tục nghiệp kháng chiến và hoàn toàn thắng lợi năm 1149, giải phóng thủ đô Đồ Bàn và đưa Chiêm Thành thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Chân Lạp .</span><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Trong khoảng thời gian từ 1145 đến 1149, đế quốc Chân Lạp đã cai trị miền bắc Chiêm Thành và như thế đế quốc này tiếp giáp Đại Việt ở phía tây nam. Do Suryavarman II phải đối phó với cuộc kháng chiến mạnh mẽ của hai đời vua ở nam Chiêm Thành nên tạm hòa hoãn với Đại Việt. Năm 1149 thất bại ở Chiêm, vua Suryavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 115O.Lúc bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi [1141], Thái sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới…Nói chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Canh Ngọ [1450], Đại Định năm thứ 11…Mùa xuân, tháng 3, hạn. Mùa thu, tháng 7 hạn. Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ” (sđ d, tr 318).</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Các nhà sử học khi nghiên cứu văn khắc trên bia đá ở Angkor Wat, thừa nhận Suryavarman II từng xâm lược Chiêm, Đại Việt trong khoảng từ 1145 đến 1150. Năm 1149 bị vua Chiêm anh hùng Jaya Harivarman IV từ phía nam đánh tới, dồn quân Chân Lạp lui dần về phía bắc. Có khả năng, vào năm 1150, cuộc tháo lui của quân Chân Lạp ở thế thua đối với quân quật khởi Chiêm Thành, lại trở thành chiến dịch xâm lược Đại Việt. Quân Chân Lạp lúc này vẫn còn do Suryavarman II chỉ huy, không những dùng thủy binh mà còn dùng tượng binh, bộ binh trong trạng huống “thiên không thời” (hạn hán kéo dài từ xuân đến thu), “địa chẳng lợi”(Chiêm Thành đang hừng hực kháng chiến, Đại Việt lo phòng vệ cẩn mật), “nhân không hòa”(cả người Chiêm và người Đại Việt đều oán hận đế quốc Chân Lạp) cho nên đoàn quân xâm lược của Suryavarman II đã có một kết thúc bi thảm ở núi Vụ Thấp, còn gọi núi Vụ Ôn, tức núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn tĩnh Hà Tĩnh. Có khả năng Suryavarman II và phần nhiều binh lính của ông vua hiếu chiến đã chết thảm vì lam chướng ở tử địa Vụ Quang, quân Chân Lạp còn lại như rắn mất đầu và chỉ còn số ít nên tự tan vỡ.</span><br />
<br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Angkor Wat hoành tráng đầy kiêu hãnh do Suryavarman II khai sinh, nhưng cũng là nổi đau của linh hồn Suryavarman II đang vất vưỡng đâu đó trong mây núi Vụ Quang ; bởi không có một phiến đá nào ở Angkor Wat ghi lại ngày tháng năm tử trận của một hoàng đế đầy tham vọng. Tự hào thay, con cháu họ Lý của miền Diên Uẩn-Cổ Pháp, những hậu duệ kiệt hiệt của dòng họ Lý Lĩnh Nam, nối tiếp dòng máu bất khuất của người anh hùng Lý Nam Đế, từng trị vì đất nước Vạn Xuân vang bóng một thời độc lập tự chủ.</span><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;"><br /></span>
<img src="http://sphotos-a.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-frc1/1000898_482821571787964_1310109752_n.jpg" />Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-18452881078193972612013-06-26T08:14:00.004-07:002013-06-26T08:14:59.324-07:00Liệu Việt Nam có thể vun đắp mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ mà không giẫm lên chân Trung Quốc?<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Liệu Việt Nam có thể vun đắp mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ mà không giẫm lên chân Trung Quốc?</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Đầu năm 1833, một phái đoàn Mỹ do Edmund Roberts dẫn đầu đã tới Việt Nam </span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">trên chiếc chiến hạm nhẹ USS Peacock neo đậu tại vịnh Vũng Lắm, ngoài khơi tỉnh Phú Yên ngày nay. Với tư cách là một "điệp viên bí mật đặc biệt" của Tổng thống Andrew Jackson, Roberts đã đề xuất ký kết một hiệp định thương mại với nhà Nguyễn nhưng sứ mệnh không hoàn thành do những hiểu lầm từ rào cản ngôn ngữ và chính sách bế quan tỏa cảng lúc bấy giờ của Việt Nam gây ra.<br />Hai nước đã phải mất 166 năm sau mới có thể đi đến một hiệp định thương mại song phương. Nhiệm vụ dang dở của Roberts là một trong nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, mà ngay từ ngày đầu hai bên bắt đầu có những sự tiếp xúc, đã ngăn cản Việt Nam và Mỹ tạo dựng một mối quan hệ vững chắc hơn.<br /><br />Thế kỷ 20, việc các tương tác kinh tế nghèo nàn cùng những điều kiện bất lợi trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã càng đẩy hai nước rời xa nhau. Việt Nam đã không may mắn khi ở giữa một cuộc đối đầu chiến lược cam go giữa hai khối Đông - Tây khi Chiến tranh lạnh diễn ra mạnh mẽ hơn vào những năm 1950. Khi các chiến sĩ Cộng sản Việt Nam đánh bại quân Pháp và tiến tới thống nhất cả nước vào năm 1954, họ đã vấp phải một chính sách kiềm chế chống cộng sản của phương Tây mà Mỹ là người đứng đầu. Trong khi đó, khối Cộng sản tiếp nhận Việt Nam như một "tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc" ở Đông Nam Á. Cuối cùng, Việt Nam và Mỹ đã rơi vào một cuộc chiến khốc liệt để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử hai nước.<br /><br />Kết thúc chiến tranh, hai nước phải mất thêm hai thập niên nữa để hàn gắn và bình thường hóa quan hệ, điều mà chỉ đạt được vào năm 1995. Kể từ khi đó, mối quan hệ đã phát triển với tốc độ khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất và nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 10 của Việt Nam. Quan hệ chính trị cũng vươn tới tầm cao mà cải hai bên đều mong muốn nâng lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Trong khi đó, quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn nhưng cũng đang được thắt chặt. Chuyến thăm lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tới vịnh Cam Ranh hôm 3/6/2012 chứng minh cho mối quan hệ đang ngày một nồng ấm giữa hai nước.<br /><br />Tuy nhiên, nếu nhìn vào bối cảnh lịch sử, với bất cứ ai quan tâm đến mối quan hệ Việt - Mỹ cũng nên xem xét hai câu hỏi quan trọng. Trước hết, do vịnh Cam Ranh cách không xa vịnh Vũng Lắm, chuyến thăm của Panetta gợi lại sứ mệnh của Roberts năm 1833. Liệu Việt Nam sẽ chớp lấy cơ hội từ sự tái quan tâm của Mỹ đến mình để đảm bảo một mối quan hệ vững chắc hơn với siêu cường số một thế giới, hay sẽ lại để nó trôi qua, như những gì triều đình Huế đã làm vào năm 1833?<br /><br />Thứ hai, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, một mối quan hệ Việt-Mỹ mạnh mẽ hơn sẽ khó tránh khỏi gây tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Vậy Việt Nam sẽ rơi vào cuộc Chiến tranh lạnh 2.0 và lại trở thành nạn nhân của một cuộc chơi quyền lực mới?<br /><br />Không giống như thời nhà Nguyễn, Việt Nam ngày nay đã là một quốc gia mở cửa hơn nhiều. Cải cách kinh tế từ những năm 1980 đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Về mặt này, Việt Nam coi Mỹ là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu. Đầu tư từ các tập đoàn công nghệ cao của Mỹ như Intel đã mở đường cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn giúp Việt Nam vươn lên tầm cao mới trong chuỗi giá trị và tạo dựng một nền kinh tế sáng tạo, hiệu quả. Do vậy, Việt Nam muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế với Mỹ. Quyết định tham gia đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương là một minh chứng cho điều đó.<br /><br />Tuy nhiên, việc Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ với Mỹ là một chuyện, nhưng mối quan hệ đó sẽ tiến triển bao xa vẫn là điều chưa ai rõ. Trước hết, những khác biệt trong hệ thống chính trị giữa hai nước luôn khiến Việt Nam phải thận trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vẫn coi chiến lược "diễn biến hòa bình" là mối đe dọa lớn đối với sự an nguy của chế độ. Một bộ phận trong giới lãnh đạo ĐCSVN tin rằng chiến lược đó đang được các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, sử dụng để từng bước cản trở và làm thay đổi Đảng. Những lo ngại đó càng sâu sắc hơn bởi những chỉ trích thường xuyên của họ về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhiều chính trị gia Mỹ thậm chí còn nêu cải thiện tình hình nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương.<br /><br />Trong khi đó, Việt Nam cũng thận trọng để không để những diễn triển trong quan hệ Việt - Mỹ ảnh hưởng đến sự gắn kết với Trung Quốc. Chênh lệch sức mạnh, vị trí địa lý gần gũi, và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như sự tương đồng ý thức hệ giữa hai Đảng Cộng sản đều có xu hướng khiến cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi có bất kỳ động thái nào có thể gây khó khăn cho mối quan hệ của Việt Nam với người láng giềng phương bắc.<br /><br />Ngoài ra, một mối quan hệ xấu đi với Trung Quốc cũng không tránh khỏi gây bất ổn cho môi trường bên ngoài và phát triển kinh tế trong nước của Việt Nam. Do tăng trưởng kinh tế trở thành nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo ổn định đất nước, Việt Nam không muốn đi ngược lại con đường đã đi. Điều này chỉ ra một điểm: mặc dù muốn thúc đẩy trao đổi kinh tế với Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn do dự tăng cường quan hệ chính trị và quân sự với đất nước từng là kẻ thù này.<br /><br />Tuy nhiên, diễn biến thực tế trong mối quan hệ song phương trong vài năm qua cho thấy một hướng đi trái ngược; mối quan tâm củng cố quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ của Việt Nam dường như càng sâu sắc hơn ngay cả khi những nỗ lực như vậy có thể khiến Trung Quốc không hài lòng và gây mất tự tin cho một bộ phận lãnh đạo Đảng.<br /><br />Mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam nói mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp hơn được đặt trong khuôn khổ chính sách đối ngoại chung của Việt Nam là đa dạng hóa và đa phương hóa, hầu hết các nhà quan sát bên ngoài đều cho rằng động cơ chính đằng sau quyết định nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết hơn đó chủ yếu liên quan đến những căng thẳng đang gia tăng trên Biển Đông, nơi Trung Quốc trở nên ngày càng ngông cuồng trong cách thực thi các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ của mình.<br /><br />Với những tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các ranh giới biển, Việt Nam và Trung Quốc là hai bên đối lập chính trong tranh chấp Biển Đông. Việt Nam nhìn chung coi cuộc xâm lược chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc năm 1974, cuộc đụng độ hải quân với Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa năm 1988, và tuyên bố chủ quyền biển dựa trên đường 9 đoạn là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, thứ mà trong quá khứ Việt Nam đã từng là nạn nhân.<br /><br />Việc Trung Quốc ngày càng hung hăng trong thời gian gần đây - như thể hiện trong vụ việc của tàu Bình Minh 2 hồi tháng 5/2011 (khi tàu Trung Quốc tấn công tàu khảo sát địa chất của Việt Nam), và việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa vừa qua (một thành phố cấp tỉnh trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý các đảo và bãi đá trên Biển Đông), và việc Trung Quốc mời thầu các nhà thầu quốc tế 9 lô thăm dò dầu khí ngay trong vùng đặc quyền của Việt Nam hồi tháng 6 - càng báo động Việt Nam về ý đồ của Trung Quốc ở Biển Đông.<br /><br />.... Trước sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng ở quy mô lớn hơn nhiều của Trung Quốc, khoảng cách quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục nới rộng. Vì thế, ngay cả khi Việt Nam không ngừng nhấn mạnh chính sách quốc phòng tự lực, Việt Nam cũng vẫn cần làm sâu sắc mối quan hệ chiến lược với các cường quốc để bổ trợ cho những sự yếu thế đáng kể trong quan hệ với Trung Quốc.<br /><br />Trong kịch bản đó, Mỹ trở thành đối tác được ưu tiên hơn của Việt Nam. Trước hết, Mỹ là cường quốc duy nhất có khả năng thách thức và kiềm chế hiệu quả tham vọng quân sự của Trung Quốc. Thứ hai, trong khi mối đe dọa "diễn biến hòa bình" được cho là âm mưu của các nước phương Tây, chưa mang đến những nguy cơ thực sự đối với sự cầm quyền của Đảng, mối đe dọa mang tên Trung Quốc đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đang hiện hữu hơn nhiều. Và thứ ba, trong khi thực tế mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ có thể khiến Trung Quốc khó chịu và mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế Việt Nam, cơ sở chính cho sự cầm quyền của Đảng - chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm - cũng có nghĩa là nếu nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc và để cho sự toàn vẹn lãnh thổ gặp nguy thì nó sẽ thậm chí còn gây thiệt hại hơn nhiều cho uy tín và tính chính danh của Đảng.<br /><br />Quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ vừa qua... cũng sẽ làm diễn biến cuộc tranh chấp thay đổi theo hướng có lợi cho Việt Nam, ít nhất là trong ngắn hạn.<br /><br />Xét về chiến lược, tranh chấp Biển Đông đang được cấu thành bởi ba lớp mâu thuẫn gắn bó chặt chẽ với nhau. Lớp trong nhất là cuộc đối đầu giữa Trung Quốc với từng bên tuyên bố chủ quyền Biển Đông trong ASEAN, bao gồm Việt Nam. Lớp ở giữa là cuộc cạnh tranh giữa ASEAN với Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cuộc cạnh tranh chiến lược mới nổi lên rõ rệt trong thời gian gần đây giữa Trung Quốc và Mỹ, trong đó Biển Đông là một trong những sân khấu diễn ra. Mặc dù Mỹ không phải là một bên trong tranh chấp, nhưng tham vọng khó chấp nhận và sự gia tăng quyết liệt của Trung Quốc trên Biển Đông tạo cho Mỹ cái cớ để can dự vào. Điều mà Mỹ muốn đảm bảo thông qua tham gia vào cuộc tranh chấp không phải chỉ là hòa bình hay tự do hàng hải trên Biển Đông, mà có vẻ như tranh chấp còn đang được siêu cường này sử dụng như một công cụ tiện lợi để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc ở tầm khu vực và trên phạm vi toàn cầu.<br /><br />Động thái của Mỹ rõ ràng phù hợp với lợi ích của Việt Nam, tức là đưa tranh chấp với Trung Quốc ra lớp ngoài cùng để hóa giải sức mạnh vượt trội hơn của Trung Quốc. Sự tham gia của Mỹ dù là gián tiếp cũng có thể buộc Trung Quốc phải hành động thận trọng hơn và ít sẵn sàng sử dụng vũ lực hơn. Ngoài ra, toan tính chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc cũng sẽ làm giảm áp lực trong vấn đề nhân quyền đối với Việt Nam và tạo cơ hội thúc đẩy quan hệ song phương bước lên tầm cao mới.<br /><br />Việt Nam và Mỹ vừa có những bước đi thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Hai nước từng là kẻ thù đang tổ chức các cuộc đối thoại an ninh, quốc phòng và nhân quyền hằng năm. Trong chuyến thăm lịch sử tới vịnh Cam Ranh, Bộ trưởng Benetta được cho là đã bày tỏ rằng Mỹ sẵn sàng giúp nâng cấp cảng và kêu gọi Việt Nam cho phép tàu hải quân Mỹ, bao gồm cả tàu chiến, có quyền tiếp cận lớn hơn tới cơ sở này. Và nếu xu hướng hợp tác đó còn tiếp tục, Mỹ có thể sẽ xem xét việc dỡ bỏ lệnh cấm vận mua bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần. Bên cạnh đó, hai nước cũng có nhiều động thái xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau hơn nữa. Đơn cử, từ tháng 8/2012, một dự án do Mỹ tài trợ đã bắt đầu được triển khai để thanh trừ các chất hóa học độc hại còn sót lại từ chất độc màu da cam do Mỹ dải thảm tại một địa điểm gần sân bay Đà Nẵng. Dự án được đại sứ Mỹ David Shear miêu tả là động thái cụ thể của hai nước nhằm chôn lấp di sản của quá khứ.<br /><br />Tuy nhiên, mặc dù mang lại những lợi ích chiến lược quan trọng, việc nối lại tình hữu nghị Việt-Mỹ trong bối cảnh cuộc đối đầu địa chính trị ngày càng sâu sắc giữa Mỹ với Trung Quốc cũng mang đến cho Việt Nam những rủi ro, mà nghiêm trọng nhất là có thể kéo Việt Nam vào một cuộc chơi quyền lực mới. Khi Trung Quốc đang từng bước hướng đến trở thành một siêu cường, một cuộc chiến tranh lạnh 2.0 có thể sẽ xuất hiện trong tương lai không xa. Lý thuyết thông thường, đặc biệt từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực, sẽ dự đoán rằng nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích toàn cầu của Mỹ, Mỹ sẽ phản ứng lại bằng cách kiềm chế Trung Quốc. Thực tế, sự chuyển hướng trọng tâm quân sự từ châu Âu về châu Á, theo như tuyên bố của Panetta tại Singapore hồi tháng 6 năm nay, có thể được coi là dấu hiệu ban đầu của chính sách kiềm chế. Tương tự, ở cấp độ khu vực, sự can dự nhiều hơn của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông từ năm 2010 cho thấy Mỹ đang tìm cách ngăn cản Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng biển của mình. Tóm lại, Mỹ đang sử dụng "mối đe dọa Trung Quốc" ở Biển Đông để tập hợp lực lượng và sự ủng hộ nhằm đối phó với Trung Quốc. Việc Mỹ nối lại quan tâm đối với Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa lý quan trọng và là kẻ thù của Trung Quốc trong lịch sử, do đó được định hình trong bối cảnh này.<br /><br />Nếu cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ tiếp tục diễn triển quyết liệt hơn, Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và một bên trong tranh chấp Biển Đông, sẽ ở vào thế rất khó trong việc duy trì cân bằng giữa hai cường quốc và tránh những điều không mong muốn. Khi Mỹ tái cân bằng lực lượng về phía châu Á - Thái Bình Dương và làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước trong khu vực, Trung Quốc sẽ không thể đứng yên. Theo đó, Trung Quốc sẽ cố gắng gây áp lực lên Việt Nam, nhắc nhở Việt Nam về tâm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Đơn cử, trong mấy tháng trở lại đây, đã có những báo cáo về việc Trung Quốc ngừng hoặc trì hoãn nhập khẩu một số hàng hóa của Việt Nam vì những nguyên do còn chưa xác định rõ. Như đã nói ở trên, Trung Quốc vừa thành lập một đơn vị quân sự đồn trú tại cái gọi là thành phố Tam Sa mới thành lập để phụ trách theo dõi khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Động thái này rõ ràng nhằm vào Việt Nam và Philippine. Chưa hết, Trung Quốc cũng ngấm ngầm thực hiện chiến dịch ngoại giao gây ảnh hưởng lên Campuchia, láng giềng hữu nghị từ nhiều năm của Việt Nam. Việc Campuchia, được cho là dưới áp lực của Bắc Kinh, phản đối đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo chung kết thúc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phnom Penh năm nay có thể được coi là động thái của Trung Quốc nhằm chia rẽ Việt Nam và Campuchia. Một mối quan hệ tốt với Campuchia cũng có ý nghĩa thiết yếu đối với an ninh của Việt Nam, nên dường như Trung Quốc đã biết phải làm đau Việt Nam như thế nào nếu không dành cho Bắc Kinh sự quan tâm thích đáng.<br /><br />Tuy nhiên, khả năng Việt Nam bị lôi kéo vào một cuộc chơi quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc không nên bị phóng đại. Khả năng ấy vẫn phụ thuộc một số diễn biến khác. Quan trọng nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ trở nên khốc liệt đến mức nào. Không giống như thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự phụ thuộc lẫn nhau mạnh mẽ và phức tạp về kinh tế đang có xu hướng hạn chế các cường quốc theo đuổi kiểu đối đầu thời Chiến tranh lạnh. Diễn biến tương lại trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc, và Việt Nam cũng có vai trò nhất định. Đơn cử, nếu có được sự nhượng bộ từ Trung Quốc, và bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông được thông qua, Việt Nam sẽ thấy ít sẵn sàng làm sâu sắc quan hệ với Mỹ hơn nếu nó đồng nghĩa với việc gây tổn hại cho quan hệ với Trung Quốc.<br /><br />Việt Nam ngày nay không giống như đất nước của Triều đại nhà Nguyễn gần hai thế kỷ trước, không muốn bỏ qua cơ hội củng cố quan hệ với Washington. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ tăng nhiệt, nhân tố Trung Quốc cũng nổi lên là vấn đề thách thức nhất đối với các nhà chiến lược và hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam bị giằng xé giữa hai lựa chọn: duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ vững chắc hơn với Mỹ. Là một nước nhỏ và láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam không muốn phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Hậu quả của mỗi lựa chọn như thế ai cũng rõ, nên hiển nhiên, nếu phải quyết định thì đó sẽ là một lựa chọn đầy khó khăn cho Việt Nam.</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-826162988597870182013-06-26T08:11:00.002-07:002013-06-26T08:11:49.061-07:00quan hệ Việt - Nga<span style="background-color: white; line-height: 18px;"><span style="color: #333333; font-family: lucida grande, tahoma, verdana, arial, sans-serif;"><b>quan hệ Việt - Nga</b></span></span><br />
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;"><br /></span>
<span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Quan hệ Việt - Nga có từ lâu, vào giữa thế kỷ XIX, khi tàu thủy của Nga cập cảng Sài Gòn. Cách mạng tháng Mười thắng lợi, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người và ảnh hưởng trực tiếp đến</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">phong trào cách mạng Việt Nam. Đi theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Cách mạng tháng Mười, cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi.<br /><br /><br />Từ năm 1950, quan hệ ngoại giao chính thức giữa Liên Xô và Việt Nam được thiết lập. Từ đó, quan hệ Xô - Việt ngày càng được củng cố và phát triển về tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, quân sự… trên cơ sở nguyên tắc Mác - Lênin và cả chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chính phủ và nhân dân Liên Xô đã giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Sau khi Việt Nam thống nhất, Liên Xô tiếp tục giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại đất nước sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá.<br /><br />Năm 1991, Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết tan rã. Quan hệ Việt - Nga chuyển sang giai đoạn mới. Quan hệ Việt - Nga từ đây vừa kế thừa, tiếp nối quan hệ Xô- Việt trước đây, vừa có những thay đổi về chất, điều chỉnh một cách căn bản so với quan hệ Xô- Việt: quan hệ trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi và trải qua một số giai đoạn phát triển khác nhau.<br /><br />1. Giai đoạn 1991-1993:<br /><br />Đây là giai đoạn khó khăn nhất trong quan hệ Việt - Nga. Mối quan hệ lúc này bị ngừng trệ, suy giảm mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do cả hai bên đều xác định lại hệ thống các lợi ích quốc gia của mình, cũng như sự ưu tiên đối ngoại của từng nước đã trở nên rất khác nhau trong bối cảnh quốc tế mới sau chiến tranh lạnh. Liên bang Nga mãi theo đuổi chính sách đối ngoại "Định hướng Đại Tây Dương", đặt các nước tư bản phát triển phương Tây lên thành ưu tiên số một. Còn Việt Nam coi việc cải thiện quan hệ với các nước láng giềng, các nước Đông Nam Á lên hàng đầu. Việt Nam cũng rất khó khăn trong việc xác định đối tác mới của mình- Liên bang Nga là một đối tác như thế nào?<br /><br />Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác: sự thay đổi quá nhanh của tình hình quốc tế, mà hệ quả là trong khi cơ chế quan hệ truyền thống bị đổ vỡ, thì cơ chế quan hệ kiểu mới đã không kịp điều chỉnh và thiết lập ngay được. Hơn nữa, khoản nợ của Việt Nam đối với Liên Xô mà Nga kế thừa cũng trở thành vật cản lớn đối với quan hệ Việt - Nga.<br /><br />2. Giai đoạn 1994-1996:<br /><br />Những thất bại của chính sách đối ngoại phiến diện, chứa đầy ảo tưởng về thế giới phương Tây những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đã thức tỉnh ban lãnh đạo Nga. Từ năm 1994, Liên bang Nga đã có những điều chỉnh quan trọng, căn bản có tính chất bước ngoặt trong chính sách đối ngoại. Nội dung bao trùm của quá trình điều chỉnh đó là lấy "Định hướng Âu - Á" (cân bằng quan hệ cả hướng Tây lẫn hướng Đông) thay cho "Định hướng Đại Tây Dương", nhằm khắc phục tình trạng phiến diện trong quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, đồng thời chú trọng hơn trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước SNG, Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN.<br /><br />Sự khẳng định chính sách đối ngoại mới của Nga được Tổng thống Nga nhấn mạnh trong Thông điệp Liên bang đọc trước Đuma quốc gia ngày 24-2-1994: "Năm 1994, chúng ta phải chấm dứt những nhượng bộ đơn phương đã trở thành một thói quen xấu… Nước Nga không phải là một vị khách ở châu Âu mà là một nước tham gia đầy đủ vào cộng đồng châu Âu và có quyền được hưởng phúc lợicủa cộng đồng. Chúng ta sẽ xuất phát từ tiền đề này."<br /><br />Triển khai chính sách đối ngoại "Định hướng Âu - Á", khu vực Đông Nam Á ngày càng thu hút sự quan tâm của Liên bang Nga. Nga ngày càng nhận thức sâu sắc hơn những biến đổi to lớn và quan trọng ở khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh. Đặc biệt, sự cải thiện quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Sự phát triển năng động của khu vực đã tác động không nhỏ đến sự thay đổi cách nhìn của Liên bang Nga trong quan hệ với các nước ASEAN, đến sự điều chỉnh chính sách của Nga đối với khu vực này. Mở rộng quan hệ song phương với từng nước ASEAN, Liên bang Nga có những nỗ lực đáng kể trong việc phát triển quan hệ đa phương với ASEAN, nhất là từ khi Nga trở thành 1 trong 18 nước tham gia diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) vào tháng 4-1994 và là 1 trong 10 bên đối thoại đầy đủ của ASEAN (7-1996).<br /><br />3. Giai đoạn 1994-1996:<br /><br />Đây là giai đoạn quan hệ Việt - Nga từng bước được cải thiện và chuyển theo chiều hướng tích cực. Cơ sở của sự chuyển hướng đó là hai nước đã ký "Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa Liên bang Nga và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" vào tháng 6-1994 trong chuyến thăm hữu nghị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt thay cho Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Xô - Việt (11-1978) đã hết hiệu lực. Đây là sự kiện quan trọng, mở ra giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước, giai đoạn quan hệ theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Hiệp ước này trở thành nền tảng pháp lý để hai nước xúc tiến quan hệ kiểu mới, khác về chất so với quan hệ Xô - Việt trước đây.<br /><br />4. Giai đoạn 1997-1999:<br /><br />Đây là giai đoạn quan hệ Nga - Việt được nâng cao về chất, trước hết là trong lĩnh vực chính trị - đối ngoại. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thực hiện nhiều chuyến thăm và làm việc ở từng nước, ký kết nhiều văn kiện hợp tác quan trọng. Trong đó, đáng chú ý nhất là chuyến thăm Việt Nam tháng 11-1997 của Thủ tưởng Liên bang Nga V.Checnômưrđin. Chuyến thăm này là một mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt Việt - Nga, thể hiện mối quan tâm ngày càng tăng của Nga đối với việc phát triển quan hệ với các nước châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Nga tuyên bố quan hệ với Việt Nam là quan hệ đối tác chiến lược.<br /><br />Tháng 8-1998, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm chính thức Liên bang Nga. Tổng thống B.Eltsin nhấn mạnh: "Không ai, không có gì và không có thế lực nào có thể ngăn cấm sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước vì lợi ích của mỗi nước và hoà bình thế giới." Hai bên đã ký Tuyên bố chung Việt Nam - Liên bang Nga, Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định về hợp tác xây dựng và vận hành nhà máy lọc dầu Dung Quất, Hiệp dịnh về thanh toán giữa hai ngân hàng và thoả thuận hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp. Quan hệ thương mại từ đây có khởi sắc nhưng vẫn còn rất khiêm tốn.<br /><br />5. Giai đoạn 1999 đến nay:<br /><br />Sự phát triển ổn định của Việt Nam và nước Nga từng bước ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - chính trị - xã hội đã tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển quan hệ hai nước những năm đầu của thế kỷ XXI. Bước ngoặt trong chính sách ngoại thương Nga với các nước Đông Á và Đông Nam Á có thể được đánh dấu vào thời điểm năm 2000, khi "Quan niệm mới về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga" được thông qua. Văn kiện này thể hiện một hệ thống quan điểm về nội dung và đường lối chính của hoạt động ngoại thương Nga trong tương lai tổng quan, ưu tiên thúc đẩy sự phát triển các quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư tài chính Nga với các quốc gia châu Á.<br /><br />Chuyến thăm Liên bang Nga của Thủ tướng Phan Văn Khải vào tháng 9-2000 và việc ký Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga đối với các khoản tín dụng đã cung cấp trước đây cùng các Hiệp định, Nghị định thư khác về hợp tác văn hoá, giáo dục, đào tạo đã thúc đẩy sự phát triển toàn diện quan hệ giữa hai nước. Quan hệ thương mại bước đầu tăng trưởng. Đặc biệt, chuyến thăm chính thức đầu tiên (28/2 - 2/3/2001) của người đứng đầu Nhà nước Nga - Tổng thống V.Putin - thể hiện mối quan tâm ngày càng gia tăng của Nga trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống Nga - Việt lên tầm cao hơn. Trong chuyến thăm lịch sử này, hai nước Việt - Nga đã ký nhiều văn kiện và Hiệp định quan trọng, trong đó có Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga, thể hiện ý chí, nguyện vọng của hai nước mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác lâu dài. Từ đây, nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước đã thu được những kết quả khả quan.<br /><br />Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga:<br /><br />- Kim ngạch thương mại giai đoạn 2001-2005:<br /><br />Năm 2001: 573 triệu USD<br /><br />Năm 2002: 700 triệu USD<br /><br />Năm 2003: 650,3 triệu USD<br /><br />Năm 2004: 800 triệu USD<br /><br />Năm 2005:1.019 triệu USD<br /><br />- Đầu tư của Liên bang Nga vào Việt Nam (tính đến năm 2005):47 dự án với tổng số vốn là 278 triệu USD, đứng thứ 21/73 trong số nước và khu vực lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư vào 16 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam.<br /><br />- Đầu tư của Việt Nam vào Liên bang Nga (2005):11 dự án với tổng số vốn là 38 triệu USD, chiếm 11% dự án đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.<br /><br />Quan hệ Việt - Nga từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến nay đã kế thừa quan hệ Xô - Việt trước đây và chuyển sang một thời kỳ phát triển mới phù hợp với bối cảnh quốc tế, khu vực và của mỗi nước. Sau thời gian đầu bị ngưng trệ, các quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học, giáo dục đã có phát triển, nhưng chưa hoàn toàn phản ánh được tiềm năng to lớn của hai nước. Vì vậy, quan hệ hợp tác Việt - Nga phải được chính phủ hai nước giải quyết thúc đẩy ngang tầm với vị thế của hai nước, mang lại hiệu quả thiết thực cho cả hai quốc gia.<br /><br />Xác định tầm quan trọng của mối quan hệ Việt- Nga, trong chuyến thăm Liên bang Nga gần đây nhất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ ngày 9 - 12/9/2007, Việt Nam và Liên bang Nga đã ra Thông cáo chung nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử của Hiệp định về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ký ngày 16-6-1994 và Tuyên bố chung về đối tác chiến lược giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ký ngày 1-3-2001. Việt Nam và Nga bày tỏ quyết tâm tiếp tục tăng cường và mở rộng việc phối hợp trên cơ sở lâu dài trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế - thương mại, khoa học - kỹ thuật, kỹ thuật - quân sự, văn hoá và giáo dục trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đáp ứng lợi ích của hai dân tộc, vì sự phát triển và thịnh vượng của khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.<br /><br />Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ Liên bang Nga tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý cho quan hệ hợp tác, phù hợp với đòi hỏi thời đại và lợi ích của hai bên.<br /><br /><br />TS. Hồ Tố Lương<br />Viện Sử học [Trang Tin tức Sự kiện</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5060872437638367406.post-51283808254843001862013-06-26T08:08:00.004-07:002013-06-26T08:08:40.104-07:00Tại Sao Hoa Kỳ lại ủng hộ Israel ?<i><b><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;">Tại sao Hoa Kỳ lại ủng hộ Israel ?</span></b></i><br />
<i><b><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; line-height: 18px;" /></b></i><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Chìa khóa đích thực cho chính sách Israel của Washington là sự hậu thuẫn lâu dài và rộng lớn của công chúng Mĩ nói chung dành cho quốc gia Do Thái.</span><br style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;" /><span style="background-color: white; color: #333333; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">Ngày 12 tháng Năm năm 1948, trước nội các chia rẽ của Tổn</span><span class="text_exposed_show" style="background-color: white; color: #333333; display: inline; font-family: 'lucida grande', tahoma, verdana, arial, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 18px;">g thống Harry Truman, Clark Clifford, luật sư trưởng của Nhà Trắng, đưa ra những lí lẽ biện hộ cho việc Hoa Kì công nhận quốc gia Do Thái. Với sự chứng kiến của một George Marshall, bộ trưởng ngoại giao lườm lườm đôi mắt và một Robert Lovett, thứ trưởng của Marshall đầy vẻ hoài nghi, Clifford lí giải rằng việc công nhận quốc gia Do Thái sẽ là một hành động nhân đạo phù hợp với những giá trị truyền thống của Mĩ. Để chứng minh cho quyền đòi lãnh thổ của người Do Thái, Clifford đã trích dẫn Đệ nhị Luật của Cựu ước (Deuteronomy): “Đây, ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Đức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này.” [1]<br /><br />Marshall không được thuyết phục cho lắm và đã nói thẳng với Truman rằng ông sẽ bỏ phiếu chống lại vị tổng thống này trong kì bầu cử tới nếu đây là chính sách của ông ta. Nhưng cuối cùng, Marshall đồng ý không công bố sự chống đối của mình. Chỉ hai ngày sau đó, Hoa Kì thật sự công nhận tân quốc gia Do Thái, 11 phút sau khi Israel tuyên bố sự hiện hữu của mình như một quốc gia. Nhiều quan sát viên, trong cũng như ngoài nước Mĩ, gán ghép quyết định của Truman với quyền lực của cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì. Họ cho rằng lá phiếu và ảnh hưởng báo đài của người Do Thái, cũng như những đóng góp tài chánh của họ vào quĩ vận động tranh cử là trọng yếu trong cuộc chạy đua sát nút vào Nhà Trắng năm 1948.<br /><br />Kể từ đó về sau, lối lí giải này cứ thế mà được lặp đi lặp lại. Những chuyên gia khả kính về chính sách đối ngoại của Mĩ thường kêu gọi Washington cần phải thận trọng với vùng Trung Đông và từng cảnh báo nhiều vị tổng thống rằng sự hậu thuẫn quá đáng dành cho Israel sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Hoa Kì trên trường quốc tế. Khi các tổng thống Mĩ gạt bỏ chuyên gia tư vấn qua một bên để đi theo một lập trường thân-Israel, nhiều nhà quan sát bèn gán ghép động thái này cho nhóm vận động hành lang của Israel và cứ thế mà khen (hay chê) nhóm này vì đã lay chuyển được người đứng đầu ngành hành pháp. Tuy nhiên, còn có một yếu tố khác cần được xét đến. Như người viết tiểu sử cho Truman là David McCullough đã ghi nhận, sự hậu thuẫn mà Truman dành do quốc gia Do Thái “được nhiệt liệt hoan nghênh” trên toàn nước Mĩ. Một cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tháng Sáu năm 1948 cho thấy rằng số người Mĩ “đồng tình với người Do Thái” nhiều gấp ba lần số người Mĩ “có thiện cảm với người Ả-rập”. Hậu thuẫn này không phải là một ngọn lửa rơm. Sự ủng hộ rộng lớn của dân ngoại Do dành cho nước Israel là một trong những lực chính trị mạnh nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì, và trong 60 năm qua, chưa hề có một cuộc thăm dò nào của Gallup cho thấy số người Mĩ đồng tình với người Ả-rập hay người Pa-lét-tin đông hơn số người bênh vực cho dân Israel.<br /><br />Hơn thế nữa, qua thời gian, thiện cảm dành cho nước Israel ngày càng gia tăng tại Mĩ, đặc biệt trong các tầng lớp dân chúng phi-Do-Thái (non-Jews). Những năm Bush nắm chính quyền đánh dấu hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel đạt đến mức cao hơn bao giờ cả, và hậu thuẫn này chưa hề suy giảm suốt trong hai nhiệm kì của Bush. Sự gia tăng hậu thuẫn này đã diễn ra thậm chí vào lúc tỉ trọng dân số của người Do Thái trong xã hội Hoa Kì bị suy giảm. Vào năm 1948, người Do Thái chiếm khoảng 3,8 phần trăm dân số Hoa Kì. Cứ cho như hầu hết mọi người Do Thái tại Mĩ ủng hộ một chính sách đối ngoại thân-Israel vào năm đó, thì khoảng 10 phần trăm số người tại Mĩ ủng hộ Israel là có gốc gác Do Thái. Vào năm 2007, người Do Thái chỉ chiếm 1,8 phần trăm dân số Hoa Kì và nhiều lắm họ cũng chỉ chiếm 3 phần trăm số người ủng hộ Israel tại Mĩ.<br /><br />Những con số này, dù ấn tượng thật đấy, nhưng cũng chưa nói hết mức độ hậu thuẫn thực sự của công chúng Mĩ dành cho Israel. Khi Trung tâm Nghiên cứu Pew đặt câu hỏi trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006, liệu chính sách Mĩ ở Trung Đông có công bằng không, hay đã thiên vị Israel hoặc thiên vị người Pa-let-tin, có đến 47 phần trăm số người trả lời phỏng vấn cho rằng chính sách này công bằng, 6 phần trăm nói rằng chính sách này bênh vực người Pa-let-tin, và chỉ 27 phần trăm nghĩ rằng chính sách Mĩ đã thiên vị Israel. Cuộc thăm dò được xúc tiến trong thời gian Israel tấn công lực lượng Hồi giáo Hezbolla ở Nam Li-băng, một thời điểm mà sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel thậm chí gây nhiều tranh cãi trên khắp thế giới hơn lúc bình thường. Vì thế, chúng ta phải kết luận rằng khi trả lời cuộc phỏng vấn, nhiều người trong số những người Mĩ cho rằng Hoa Kì có chính sách công bằng đối với cả hai phía trong cuộc xung đột Trung Đông thật ra cũng chỉ là những người ủng hộ những chính sách mà hầu hết quan sát viên nước ngoài sẽ cho là thân-Israel một cách quá nồng nhiệt và thậm chí tắc trách. Ít khi công chúng Mĩ thiên về một chính sách đối ngoại nào rõ nét như thế này, sâu sắc như thế này, bền bỉ như thế này – và xung khắc với công luận của nhiều nước khác như thế này.<br /><br />Ở Hoa Kì, một chính sách đối ngoại thân-Israel không tiêu biểu cho sự thắng thế của một nhóm vận động hành lang nhỏ bé vượt lên trên lên ý chí của đại chúng. Trái lại, nó phản ánh sức mạnh công luận trong việc hình thành chính sách đối ngoại bất chấp cả những lo ngại của giới chuyên gia. Tương tự như cuộc chiến chống ma túy và hàng rào dọc theo biên giới Mê-hi-cô, sự hậu thuẫn dành cho Israel là một chính sách đối ngoại của Mĩ từng làm cho một số chuyên gia ái ngại nhưng lại chiếm được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng. Điều này không có nghĩa là “nhóm vận động hành lang cho Israel” không hiện hữu hoặc không ảnh hưởng tới việc định hướng chính sách của Mĩ tại Trung Đông. Điều này cũng không có nghĩa là người Mĩ nên duy trì những định kiến của mình. (Tôi vẫn giữ quan điểm rằng tất cả mọi người, kể cả người Mĩ và người Israel, sẽ được lợi lộc nếu người Mĩ bày tỏ một sự hiểu biết toàn diện hơn và thiện cảm hơn đối với nhu cầu của người Pa-let-tin.) Nhưng điều này thực ra có nghĩa là cội nguồn sâu xa nhất của chính sách Trung Đông của Mĩ nằm ngoài vòng đai thủ đô Washington và nằm ngoài cộng đồng Do Thái. Muốn hiểu lí do tại sao chính sách của Hoa Kì luôn thiên vị Israel hơn là trung lập hay thân với người Pa-let-tin, chúng ta phải nghiên cứu xuất xứ của sự hậu thuẫn này từ giới bình dân và phi-Do-Thái (non-Jewish) đối với quốc gia Do Thái.<br /><br />Con cái của David [2]<br /><br />Lịch sử của việc Hoa Kì hậu thuẫn cho một quốc gia Do Thái tại Trung Đông bắt đầu khá sớm. John Adams [vị tổng thống thứ hai của Hoa Kì] đã dùng những lời lẽ bộc bạch nhất của mình: “Tôi thành thật cầu chúc cho người Do Thái có lại một quốc gia độc lập trong vùng Judea.” Ông nói điều này sau khi rời ghế tổng thống. Từ đầu thế kỉ 19 trở về sau, những người dân ngoại Do [3] theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít [4] (gentile Zionists) rơi vào hai trường phái. Phái Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) dự kiến người Do Thái sẽ trở về Đất Hứa như cách thể hiện theo nghĩa đen lối giải thích lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, những điều tiên tri có liên quan tới sự trở lại trần gian của đức Ki-tô và ngày tận thế. Chẳng hạn, dựa trên lối lí giải của chính mình về Chương 18 của những lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah [Cựu ước], mục sư John McDonald thuộc giáo phái Albany Presbyterian đã tiên đoán vào năm 1814 rằng nhân dân Mĩ sẽ giúp người Do Thái phục hồi quốc gia thời cổ đại của họ. Nhiều tiếng nói trong giáo phái Mormon cũng chia sẻ quan điểm này; vào năm 1841, Kì mục Orson Hyde cho rằng việc người Do Thái trở về Đất thánh đã được khởi động: “Không còn hoài nghi gì nữa, bánh xe vĩ đại hiện đang chuyển động, lời của Đấng Toàn Năng đã tuyên bố rằng bánh xe đó sẽ lăn nhanh.”<br /><br />Những tín đồ Ki-tô giáo khác, ít bám vào nghĩa đen của Kinh Thánh và ít dựa vào ngôn sứ hơn, lại triển khai một chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiến bộ (progressive Zionism), một lí thuyết có ảnh hưởng qua nhiều thập niên đối với dân ngoại Do trong nhà thờ cũng như ngoài thế tục. Vào thế kỉ 19, những người Ki-tô giáo phóng khoáng thường tin rằng Thiên Chúa đang xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua sự tiến bộ của loài người. Họ nhận thấy nước Hoa Kì dân chủ và (tương đối) bình đẳng vừa là một gương mẫu của thế giới mới mà Thiên Chúa đang tạo dựng vừa là một công cụ vững mạnh để xúc tiến đồ án vĩ đại của ngài. Một số tín đồ Tin Lành Mĩ (American Protestants) [5] tin tưởng rằng Thượng Đế đang khởi động việc đưa những phần tử gọi là người Do Thái bị xuống cấp và đày đọa trên thế giới trở về Đất Hứa, cũng như Thượng Đế đang nâng đỡ và cải thiện cuộc đời của những người ngu si, kém tin khác xuyên qua sự phát triển những nguyên tắc đạo lí Tin Lành phóng khoáng. Họ mong muốn cho người Do Thái thành lập được một quốc gia riêng vì họ tin rằng sự nghiệp lập quốc này sẽ che chở cho người Do Thái khỏi sự bách hại và, thông qua sức mạnh cứu chuộc của tự do và sự cần lao canh tác lương thiện, sẽ nâng cao và cải thiện tình trạng mà họ cho là sự suy đồi đạo lí và sự dơ dáy đáng trách của người Do Thái đương thời ở đế quốc Ottoman và đông Âu. [Cựu tổng thống Mĩ lúc bấy giờ là] Adams đã nhận định: “Một khi có lại được một chính phủ độc lập và không còn bị bách hại, những người Do Thái này sẽ sớm rũ bỏ phần nào tính cộc cằn thô lỗ, những dị hợm trong nhân cách để có lúc trở thành người Ki-tô giáo cởi mở tin vào một Thiên Chúa Nhất thể [6] (Unitarian Christians).” Đối với những tín đồ Ki-tô giáo phóng khoáng nói trên, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Mĩ là bộ phận khắn khít của một chương trình rộng lớn hơn nhằm biến đổi thế giới bằng cách xiển dương những lí tưởng của Hoa Kì.<br /><br />Không phải tất cả mọi người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiến bộ đều gói ghém lí luận của mình bằng từ ngữ tôn giáo. Ngay từ năm 1816, tờ Niles’ Weekly Register, một báo định kì thông tin và bình luận hàng đầu của Mĩ vào nửa đầu của thế kỉ 19, đã tiên đoán và hoan nghênh sự hồi hương sắp diễn ra của người Do Thái, sự trở về một quốc gia độc lập với thủ đô là Jerusalem. Tạp chí này dự phóng rằng sự nghiệp phục quốc và phục hồi nhân cách của người Do Thái sẽ đẩy mạnh văn minh và tiến bộ – và hiển nhiên là, điều này sẽ rất tốt đẹp cho cả Hoa Kì lẫn người Do Thái.<br /><br />Về phần mình, những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) trở nên đông đảo hơn sau cuộc Nội chiến của Hoa Kì. Quan điểm của họ được triển khai cao độ về vai trò mà một quốc gia Do Thái được phục hưng có thể nắm giữ trong những biến động dẫn đến ngày tận thế. Vào giai đoạn này, những sách báo nêu bật sự phục quốc được tiên tri trong Thánh kinh của người Do Thái và suy đoán về bản sắc và tiến trình hồi hương các “bộ lạc thất tán” của dân Hêbrơ [7] cổ đại là sách bán chạy nhất từ năm này sang năm khác. Sự liên kết giữa Dwight Moody, một người rao giảng Tin Lành (evangelist) [8]hàng đầu trong nước, và Cyrus Scofield, một học giả Kinh thánh quan trọng, đã đặt lịch sử tương lai của nước Israel ở trung tâm tư duy của đạo Tin Lành bảo thủ Mĩ.<br /><br />Những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít này tìm được những đồng minh mới, dù đôi khi không như ý, vào khoảng sau năm 1880, tức thời điểm mà đợt nhập cư đông đảo người Do Thái Nga bắt đầu. Một số những di dân mới đến này và một số người Do Thái Đức vốn đã hội nhập vào xã hội Mĩ – cả hai nhóm này – nuôi hi vọng rằng Palestine sẽ thay thế Hoa Kì làm quê hương tương lai cho hạng người bị coi là một tập thể di dân bị khinh ghét khác thường lúc bấy giờ. Đối với những phần tử bài Do Thái (anti-Semites), sự thành lập một quốc gia Do Thái có thể hoặc không có thể “chữa trị” người Do Thái hết những tính chất [tiêu cực] mà nhiều dân ngoại Do gán ghép cho họ, nhưng dù sao đi nữa sự thành lập một quốc gia như thế sẽ giảm bớt làn sóng di dân của người Do Thái vào Hoa Kì.<br /><br />Năm 1891, những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít liên kết lại với nhau. William Blackstone, lãnh đạo thế tục thuộc giáo phái Methodist, trình lên Tổng thống Benjamin Harrison một kiến nghị kêu gọi Chính phủ Hoa Kì đứng ra làm trung gian triệu tập một hội nghị các cường quốc châu Âu nhằm thúc đẩy Đế quốc Ottoman giao trả Palestine lại cho người Do Thái. Bốn trăm người kí tên, mà tuyệt đại đa số là các nhân vật phi-Do-Thái, gồm có chủ tịch Tối cao Pháp viện; Chủ tịch Hạ viện; các chủ tịch Ủy ban tài chánh Hạ viện và Ủy ban ngoại vụ Hạ viện; tổng thống tương lai William McKinley; thị trưởng các thành phố Baltimore, Boston, Chicago, New York, Philadelphia và Washington; chủ bút và chủ báo các nhật báo hàng đầu trên bờ Đông và Chicago; và hàng giáo phẩm rất đáng nể của các giáo phái như Episcopal, Methodist, Presbyterian và Công giáo. Các lãnh đạo doanh nghiệp tham gia kí bản kiến nghị gồm có Cyrus McCormick, John Rockefeller, và J.P. Morgan. Vào một thời điểm mà cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì vừa không đủ lớn, vừa không đủ mạnh, và cả giới vận động hành lang cho Israel chưa hiện hữu, những thành phần nòng cốt của nhóm dân ngoại Do quyền thế trong xã hội Mĩ (the American gentile establishment) đã chính thức hậu thuẫn một nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kì nhằm lập ra một quốc gia Do Thái trên địa bàn của Kinh thánh.<br /><br />Có chung mười điều răn<br /><br />Bất cứ một thảo luận nào về thái độ của Hoa Kì đối với Israel phải bắt đầu từ Kinh thánh. Qua nhiều thế kỷ, tư duy của người Mĩ đã được thấm sâu trong Kinh điển Hêbrơ. Ảnh hưởng này có xuất xứ từ việc tái phát hiện Kinh thánh Cựu ước trong thời kì Cải cách (the Reformation), được tăng cường do việc triển khai lí thuyết thần học Calvin [9] (một tín lí nhấn mạnh sự liên lũy giữa những sự sắp đặt tiền định trong thế gian, thời xưa và ngày nay, do hồng ân Thiên Chúa), và được làm sống động hơn lên do những tương đồng lịch sử giữa những trải nghiệm hiện đại của người Mĩ và những gì mà người Hêbrơ cổ đại đã kinh qua. Do đó, ngôn ngữ, các gương anh hùng và tư tưởng Cựu ước luôn thấm sâu vào tâm thức người Mĩ.<br /><br />Qua một thời gian dài ở giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kì, việc giảng dạy tiếng Hêbrơ của kinh thánh là điều cưỡng bách ở các đại học Columbia, Dartmouth, Harvard, Princeton và Yale. James Madison hoàn tất chương trình học tại Princeton trong vòng hai năm, nhưng ở nán thêm một năm nữa để học tiếng Hêbrơ. Nhiều giáo sĩ và nhiều tác giả thời Thuộc địa không ngớt mô tả nước Mĩ là một Ca-na-an mới, “một miền đất tràn trề sữa và mật”, đồng thời nhắc nhở thính, độc giả của mình rằng cũng như người Hêbrơ đánh mất phước lành khi họ xúc phạm Thiên Chúa, người Mĩ cũng sẽ chịu khổ nạn nếu họ không chịu nghe theo vị Thượng Đế đã dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Cho đến ngày nay, những điển cố Cựu Ước vẫn còn thấm đẩm các bài viết cũng như diễn văn chính trị, và thậm chí trong cả địa lí nữa– hơn một ngàn thành phố lớn, nhỏ tại Hoa Kì có tên lấy từ Kinh thánh.<br /><br />Biểu hiện có tính tôn giáo sống động nhất nói lên tầm quan trọng của Kinh thánh Cựu ước trong văn hoá Mĩ ngày nay là sự trỗi dậy của thuyết nói về mệnh trời trước ngày tận thế (premillennial dispensationalism), đây là một lối diễn giải những điều tiên tri trong kinh thánh, một lý thuyết mang lại trọng lượng đặc biệt cho các ý niệm tôn giáo trong Cựu ước như khoa thần học giao ước (covenant theology) [10] , và dành vai trò quyết định lịch sử tương lai cho quốc gia Do Thái, một quốc gia được phục hồi (với thủ đô là Jerusalem). Khoảng chừng 7 phần trăm dân Mĩ tỏ ra có lập trường thần học này (nghĩa là nhóm này đông gần gấp 4 lần cộng đồng Do Thái tại Mĩ), đồng thời không ít thì nhiều một số đông hơn đáng kể chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Những người đề xuất quan điểm này thường (dù không luôn luôn) chia sẻ quan điểm của một số người Do Thái chính thống, rằng người Do Thái phải đòi cho bằng được một quốc gia bao gồm tất cả phần lãnh thổ mà người Hêbrơ từng được Thiên Chúa hứa hẹn; họ chống lại bất cứ một khoan nhượng lảnh thổ nào với người Pa-lét-tin và họ hậu thuẫn các khu định cư Do Thái ở bờ Tây sông Jordan. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm của thiểu số, ngay cả dưới con mắt những người ủng hộ Israel tại Mĩ.<br /><br />Trái lại, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Ki-tô giáo tiến bộ liên quan nhiều với đức lí Ki-tô giáo, hơn là dựa vào lời của các ngôn sứ. Phần lớn chủ nghĩa này có gốc rễ trong mặc cảm tội lỗi và trong ý thức rằng sự bạc đãi của người Ki-tô giáo đối với người Do Thái trong quá khứ hiện đang cản trở người Do Thái chấp nhận Ki-tô giáo. Hơn một ngàn năm, người Do Thái ở châu Âu đã chịu đựng những hành động tàn ác phi thường và lắm khi không ngôn từ nào diễn tả được do bàn tay của người Ki-tô giáo châu Âu. Mặc dù một số tín đồ Tin Lành Mĩ có thời đã kéo dài lịch sử thiếu độ lượng và bài Do Thái này, nhưng từ thế kỉ 19 trở về sau nhiều tín đồ Tin Lành phóng khoáng Mĩ đã coi việc từ bỏ quá khứ này như một trong những nhiệm vụ xác định tính chất của một giáo hội Mĩ cải cách và giác ngộ. Những tín đồ Tin Lành này có thể (và đã thoải mái) chỉ trích chủ nghĩa bài Do Thái của Công giáo La Mã, gọi đây là một hậu quả do những thối nát đáng tiếc dưới chế độ giáo hoàng; nhưng người ta cũng không dễ gì bỏ qua những hành động và những tuyên truyền bài bác Do Thái do chính những nhà cải cách tôn giáo như [người sáng lập đạo Tin Lành] Martin Luther. Nhiều thành viên trong các giáo phái Tin Lành cởi mở Mĩ đã coi mình có nhiệm vụ thiêng liêng là phải hoàn tất sự nghiệp của thời Cải cách (the Reformation) bằng cách tẩy sạch Ki-tô giáo khỏi những tàn tích “trung cổ” như mê tín, thiên kiến, và chủ nghĩa bài Do Thái. Việc sám hối những tội lỗi quá khứ bằng cách bênh vực người Do Thái đã và đang là một thể nghiệm đức tin quan trọng đối với nhiều (mặc dù hẵn nhiên không phải đối với tất cả) tín đồ Tin Lành Mĩ.<br /><br />Tương phản với thái độ thân Do Thái, đa số tín đồ Ki-tô giáo Mĩ ít khi hoặc không hề có cảm thức tội lỗi nào về những lối ứng xử trong lịch sử của cộng đoàn mình đối với thế giới Hồi giáo. Nhiều tín đồ Hồi giáo coi cuộc xung đột Ki tô giáo-Hồi giáo kéo dài hơn một ngàn năm qua là một hiện tượng liên tục và tương đối thuần nhất, nhưng tín đồ Tin Lành Mĩ lại không nhìn nhận như vậy. Chẳng hạn, họ thường chê trách những tàn bạo của các cuộc Thập tự chiến (the Crusades) và chỉ trích quan niệm thánh chiến, nhưng họ lại coi đây là những sai lầm của Công giáo La mã chứ không phải của Ki-tô giáo nói chung. Và dẫu sao, họ coi những cuộc Thập tự chiến ấy như đã lùi sâu vào dĩ vãng và âu cũng là phản ứng trả đũa sự xâm lấn trước đó của người Hồi giáo. Họ cũng thường phê phán sự bóc lột thuộc địa của các cường quốc châu Âu trong các thế kỉ vừa qua, nhưng họ lại coi những khai thác bóc lột đó là do tham vọng đế quốc của Cựu thế giới chứ không do Ki-tô giáo gây ra và vì thế đó là điều họ không chịu trách nhiệm. (Một biệt lệ quan trọng đáng được nhắc đến: Nhiều nhà truyền giáo Mĩ hoạt động tích cực ở Trung Đông đã tạo được quan hệ sâu đậm với người Ả-rập trong vùng và đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân tộc Ả-rập, vừa vì họ không ưa thích chủ nghĩa thực dân châu Âu vừa vì họ hi vọng một phong trào dân tộc có tính thế tục sẽ cải thiện vị thế của các Ki-tô hữu Ả-rập. Cộng đồng truyền giáo này vừa góp phần phát triển đội ngũ giới chức quan tâm đến quyền lợi Ả-rập trong Bộ Ngoại giao Mĩ vừa giúp tạo ra phản ứng khá dữ dội trong nhiều giáo phái Tin Lành chính mạch chống lại các chính sách của Israel trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sau cuộc chiến 1967.)<br /><br />Khoảng trước năm 1948, nhiều tín đồ Ki-tô giáo Mĩ cảm thấy một gánh nặng lương tâm về món nợ và nghĩa vụ lịch sử đối với người Do Thái, nhưng họ không hề cảm thấy điều này đối với người Á rập. Có chăng là, họ chỉ nghĩ rằng thế giới Hồi giáo phải chịu mang ơn các nhà truyền giáo Hoa Kì đã xây dựng nhiều đại học và bệnh viện hàng đầu tại Trung Đông và rằng chính sự hậu thuẫn của người Ki-tô giáo Mĩ trước và sau Thế chiến II đã góp phần thúc đẩy sự trổi dậy của các quốc gia Á rập và Hồi giáo độc lập, một phong trào đang diễn tiến lúc bấy giờ.<br /><br />Những người bà con do Chúa chọn<br /><br />Ý thức về bản sắc riêng biệt và sứ mệnh của Hoa Kì được bồi đắp qua quá trình tiếp thu sử sách và tư tưởng Hêbrơ. Nhà văn Mĩ Herman Merville đã diễn tả quan điểm này như sau: “Người Mĩ chúng ta là nhân dân đặc biệt, được Chúa chọn – là nước Israel thời đại mới; chúng ta gánh lấy chiếc thuyền Nô-ê chứa đầy các quyền tự do trên thế giới.” Từ thời đại của những người Thanh giáo (Puritans) cho đến ngày nay, nhiều giáo sĩ, nhà tư tưởng và chính khách tại Hoa Kì – thế tục cũng như tôn giáo, phóng khoáng cũng như bảo thủ – vẫn coi người Mĩ là một khối nhân dân do Chúa chọn, ràng buột với nhau theo huyết thống thì ít nhưng theo một hệ thống tín lí và một định mệnh chung thì nhiều. Nhiều người Mĩ vẫn còn tin tưởng rằng Thiên Chúa (hay lịch sử) đã đưa họ đi vào một vùng đất mới và làm cho họ trở thành vĩ đại, giàu có, và rằng sự phồn vinh bền vững của họ sẽ tùy thuộc vào việc họ chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa hay theo đúng những nguyên tắc đạo lí đã mang lại ơn phước cho họ từ trước tới nay. Nếu họ sao lãng những nguyên tắc này – như khi người Do Thái quay ra sùng bái con bò bằng vàng lúc Mô-se vắng mặt – thì tai họa sẽ giáng xuống trên đầu họ.<br /><br />Cả người Mĩ mộ đạo lẫn người Mĩ thế tục đều hướng tới Kinh thánh Hêbrơ để tìm ra một tấm gương của một dân tộc có tính đặc thù nhờ sứ mệnh riêng và được ơn kêu gọi gánh vác một định mệnh là làm thay đổi thế giới. Phải chăng đất đai người Mĩ đang cư ngụ đã có thời thuộc về người khác? Vâng đúng vậy, nhưng trong một cách thế tương tự, người Hêbrơ đã từng chiếm đất của người Ca-na-an. Phải chăng các thuộc địa bé nhỏ tại Mĩ chỉ được trang bị bằng sức mạnh công lí của chính nghĩa mà đã đánh thắng một đế quốc vĩ đại nhất thế giới? Vâng, cũng giống như David, cậu bé chăn cừu khiêm tốn, đã quật ngã người khổng lồ Goliath. [11] Phải chăng người Mĩ vào thế kỉ 19 từng bị cô lập và bị nhạo báng vì những lí tưởng dân chủ của mình? Vâng, trong hoàn cảnh tương tự, người Hêbrơ cũng bị các sắc dân thờ bái thần tượng bao vây. Phải chăng người Mĩ đã từng đánh thắng giặc trong, thù ngoài? Vâng, theo Kinh thánh, người Hêbrơ cũng từng chiến thắng như vậy. Phải chăng vì vi phạm chính những tín lí của mình khi cầm giữ hàng triệu nô lệ, người Mĩ đã bị trừng phạt và hứng chịu nhiều tai hoạ? Vâng, rất giống như người Hêbrơ, một dân tộc đã hứng chịu hậu quả của tội lỗi mình trước mặt Thiên Chúa.<br /><br />Nhận thức đầy huyền thoại này về bản chất và định mệnh nước Mĩ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ và bền bỉ nhất trong văn hóa và tư tưởng Hoa Kì. Như người Hêbrơ cổ đại từng tin tưởng, nhiều người Mĩ ngày nay cũng tin tưởng rằng họ mang một mặc khải, nhiên hậu không những cho chính họ mà cho toàn thế giới; họ thường tự coi mình là nước Israel mới của Thiên Chúa. Một trong những hậu quả của việc nhìn họ hàng (presumed kinship) này là nhiều người Mĩ cho rằng việc một dân tộc được Chúa chọn (chosen people) này hậu thuẫn cho một một dân tộc được Chúa chọn khác là điều vừa hợp lẽ phải vừa chính đáng. Họ không cảm thấy áy náy khi sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel, một dân tộc và một quốc gia thường bị nhiều nước cô lập và khai trừ, làm cho Hoa Kì bị ghét lây hoặc gây ra nhiều vấn đề khác. Việc Hoa Kì nhận lãnh vai trò của một kẻ che chở cho Israel và một người bạn của người Do Thái là một cách hợp thức hóa địa vị riêng của một quốc gia được Thiên Chúa giao cho một định mệnh độc đáo.<br /><br />Hơn thế nữa, từ thế kỉ 19, Hoa Kì đã tự coi mình là đại lí được Thiên Chúa chọn ra để bảo vệ và cứu chuộc dân tộc Do Thái. Người Mĩ từng tin rằng người Do Thái sẽ vươn lên từ thân phận đọa đày khi họ rời bỏ những khu ổ chuột trong thành phố để về sống ở các vùng thôn quê – y như những người di dân đến Mĩ từ khắp châu Âu đã xây dựng được cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân cách vững vàng hơn khi họ trở thành những nông dân theo mô hình kinh tế nông nghiệp Jefferson (Jeffersonian farmers) [12] . Những tín đồ Ki-tô giáo cởi mở như [tổng thống] Adams tin tưởng rằng tiến trình này sẽ kịp thời đưa người Do Thái đến với ánh sáng của giáo phái Tin Lành khai phóng, nằm trong nỗ lực là thăng tiến toàn thể nhân loại. Còn những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiên tri (prophetic Zionism) thì hi vọng rằng việc hàng loạt người Do Thái cải sang Ki-tô giáo hồi sinh (revivalist Christianity) sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn khải huyền [tận thế] cùng với sự trở lại thế gian của đức Ki-tô. Bằng cách này hoặc bằng cách khác, vai trò đặc biệt của Hoa Kì trong việc phục hồi nhân phẩm và chỗ đứng của người Do Thái đã thể hiện những kì vọng của dân ngoại Do Mĩ về sự chuyển động của lịch sử và khẳng định niềm tin tưởng của họ về bản sắc và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc.<br /><br />Những quốc gia thực dân<br /><br />Hiệp Chúng Quốc và Israel còn có chung một tình trạng là “quốc gia thực dân”–những nước được thành lập bởi các dân tộc đã giành quyền kiểm soát lãnh thổ cho riêng mình sau khi trục xuất các dân tộc bản địa. Cả hai quốc gia được nhào nặn mạnh mẽ bởi một lịch sử xung đột và đối đầu với những sắc dân bị họ trục xuất, và cả hai đều tìm lí lẽ biện minh cho hành vi của mình từ những nguồn đạo lí tương tự. Cả người Mĩ lẫn người Israel chủ yếu tìm sự biện minh từ Kinh thánh Cựu ước, trong đó có những trang sách thiêng liêng kể lại tích truyện về sự xung đột giữa người Hêbrơ cổ đại và người Ca-na-an, cư dân trước đó của phần lãnh thổ mà người Hêbrơ tin tưởng là Đất Hứa của họ. Người Mĩ tìm thấy nhiều hấp dẫn trong quan niệm cho rằng họ là quốc gia Israel mới của Thiên Chúa một phần cũng vì quan niệm này biện minh cho việc họ đã trục xuất và giành đất của người Mĩ bản địa [dân da đỏ]. Như Theodore Roosevelt đã viết trong cuốn lịch sử miền Tây Hoa Kì, đương thời được liệt là sách bán chạy nhất: “Nhiều người trong những công dân xuất sắc ở vùng sâu vùng xa là những người ham đọc Kinh Thánh, nhưng họ được nuôi dưỡng theo một đức tin phần lớn được rao giảng trong Cựu ước, một đức tin không coi trọng lòng thương hại, sự thật, hay từ bi. Họ nhìn kẻ thù của mình theo cách những ngôn sứ Hêbrơ đã nhìn kẻ thù của Israel. Những hành vi ghê tởm đã khiến cho người Ca-na-an bị tiêu diệt trước mắt Joshua [13] đâu có nghiã lí gì nếu đem so với những sự hèn hạ của bọn mọi da đỏ khiến người Mĩ, cũng là một giống dân Chúa chọn, đến phiên mình có bổn phận phải thừa hưởng đất đai của chúng.” (Bản thân Roosevelt, cũng như những người em họ Franklin và Eleanor, là một người Ki-tô giáo theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít. “Đối với tôi, việc khởi sự thành lập một quốc gia Xi-ôn-nit chung quanh Jerusalem là hoàn toàn thích đáng”, Roosevelt viết như thế năm 1918.)<br /><br />Ngoài một lời hứa hẹn trực tiếp từ Thiên Chúa, hai biện minh quan trọng mà người Mĩ đưa ra trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ với người Mĩ bản địa là quan niệm cho rằng họ chỉ bành trướng vào “những vùng đất hoang vu” và lí thuyết liên hệ của John Locke về “việc sử dụng tài sản công bằng hợp lí”, theo đó một tài sản không có người dùng là một sự phí phạm và là một xúc phạm đối với thiên nhiên. Những người đến lập nghiệp ở Mĩ cho rằng chỉ những ai có thể cải thiện đất đai, bằng cách thiết lập san sát trên đó nhiều nông trại rộng lớn và xây dựng trên đó nhiều phố thị, mới có thực quyền làm chủ đất đai ấy. Từ năm 1802 [tổng thống tương lai] John Quincy Adams đã bênh vực cho luận điểm này: “Liệu [người da đỏ] dám bắt cả một vùng đất bao la của địa cầu phải chịu đời đời hoang phế hay sao…? Còn Thomas Jefferson thì cảnh báo rằng những người Mĩ bản địa nào không chịu học hỏi người da trắng, không đi vào con đường canh tác sản xuất thì phải chịu số phận đen tối. Họ sẽ “thoái hoá trở lại tình trạng man rợ khốn cùng, sẽ hao hụt dân số vì chiến tranh và thiếu đói; khi đó chúng ta buột lòng phải xua đuổi họ, cùng với loài dã thú trong rừng, vào vùng núi đá.”<br /><br />Suốt phần lớn lịch sử Hoa Kì, những quan điểm như thế có âm hưởng lớn không những đối với dân vùng sâu vùng xa mà còn đối với cả những công dân lịch lãm và phóng khoáng. Những luận cứ này mang một ý nghĩa đặc biệt khi bàn đến Đất thánh. Trong khi người Mĩ mộ đạo miệt mài chiêm nghiệm những huy hoàng của thành Jerusalem cổ đại và Đền Solomon [14] , họ đã vẽ lên trong tâm trí mình một miền đất phì nhiêu hoành tráng – “một quê hương tràn trề sữa tươi và mật ngọt”, như Kinh thánh mô tả. Nhưng vào khoảng đầu thế kỉ 19, khi hàng chục người đầu tiên, rồi đến hàng trăm người, và cuối cùng hàng ngàn người đi hành hương Đất thánh – đồng thời thêm hàng triệu người đổ xô đến dự những buổi thuyết trình để nghe tường thuật những chuyến đi này – người ta mới vỡ lẽ rằng chẳng có chi đáng gọi là sửa tươi và mật ngọt; Palestine lúc bấy giờ chỉ là một trong những tỉnh nghèo nàn nhất, lạc hậu nhất, tả tơi nhất của Đế quốc Ottoman. Trước mắt người Mĩ, những sườn đồi và những cánh đồng sỏi đá của vùng Judea trông rất thê lương, trống trải – khiến nhiều người tin rằng Thiên Chúa đã rủa sả vùng đất này khi ngài đày dân Do Thái vào cuộc lưu vong thứ hai, một cuộc lưu vong mà họ cho là hình phạt người Do Thái phải gánh chịu vì không chịu nhìn nhận đức Ki-tô là đấng Cứu thế. Và vì thế, nhiều người Mĩ tin tưởng, người Do Thái thuộc về Đất thánh và Đất thánh phải thuộc về người Do Thái. Người Do Thái sẽ không bao giờ cất đầu lên được bao lâu mà họ chưa về lại quê nhà, chưa được tự do, và đất thánh sẽ không bao giờ đâm bông kết trái bao lâu mà những người chủ chân chính của nó chưa trở về.<br /><br />Ngôn sứ Isaiah đã mô tả cuộc hồi hương tương lai của dân Do Thái là hồng ân Thiên Chúa mang nước tưới lên sa mạc. Và nhiều người Mĩ đang chứng kiến mầu mỡ của vùng đất này được phục hồi dưới bàn tay canh tác của những người Xi-ôn-nít đầu tiên mới về lập nghiệp, họ chứng kiến với tất cả cảm giác ngỡ ngàng là những điều tiên tri trong kinh thánh đang trở thành hiện thực ngay trước mắt mình. “Những suối nguồn trong sức mạnh thực dân Do Thái, được nuôi dưỡng hào phóng bằng đồng tiền của cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới, đang tuôn chảy tràn trề lên sa mạc”, tạp chí Time đã viết như thế vào năm 1946, vang vọng ngôn ngữ của Tiên tri Isaiah. Hai năm sau, tiếp theo thắng lợi của Do Thái trong cuộc chiến 1948, báo Time lại mô tả dân Ả-rập bằng những từ ngữ khiến người đọc ngày nay phải giật mình nhưng vào thời đó nó tiêu biểu cho cảm thức thông thường của người Mĩ: “Thế giới phương Tây thường coi người Ả-rập như một chinh nhân có đôi mắt diều hâu ngồi trên lưng ngựa trắng. Chàng Ả-rập ấy vẫn còn lẫn khuất đâu đó, nhưng chàng thuộc về một thiểu số quá nhỏ nhoi so với hạng khốn khó, mang đủ thứ bệnh hoạn trong người, đang nằm lây lất trên những con lộ nóng, quá ốm yếu và bạc nhược tinh thần đến độ không còn sức để lăn vào bóng mát.” Người Mĩ chứng kiến một cuộc đọ sức giữa một dân tộc lạc hậu, yếu hèn và một dân tộc có khả năng lập nghiệp trên vùng đất hoang dã và làm cho nó đâm bông kết trái, đang thần kì thể hiện những lời tiên tri xa xưa về một quốc gia Do Thái.<br /><br />Trước đó, một cách khá phổ biến, người Do Thái bị coi là khối dân đáng chê trách nhất ở đông Âu: dốt nát, sa đọa, mê tín, chia bè chia phái, hay gây gỗ, và lạc hậu hết thuốc chữa. Sự thể đám dân này, sau khi chịu đựng bao nhiêu dã man chưa từng có dưới sự đàn áp của Đức quốc xã, đã thiết lập được một chế độ dân chủ ổn định đầu tiên ở Trung Đông, xây dựng được một nền kinh tế thịnh vượng trong sa mạc và liên tục đánh bại những kẻ thù có đội quân lớn mạnh hơn mình nhiều lần, đối với nhiều người Mĩ là bằng chứng lịch sử hùng hồn về những lí tưởng tôn giáo mà họ ấp ủ sâu xa nhất.<br /><br />Bước ngoặt hữu khuynh<br /><br />Mặc dù sự hậu thuẫn của dân ngoại Do Mĩ dành cho Israel vẫn còn mạnh và thậm chí gia tăng kể từ Thế chiến II, nhưng tính chất của hậu thuẫn này đã thay đổi. Mãi cho đến Cuộc Chiến Sáu Ngày, phần lớn hậu thuẫn dành cho Israel đến từ giới chính trị tả khuynh và thường thì phe Dân chủ ủng hộ Israel mạnh hơn phe Cộng hòa. Các thần tượng phóng khoáng như Eleanor Roosevelt, Paul Tillich, Reinhold Niebuhr, và Martin Luther King, Jr., đều là những tiếng nói công khai hàng đầu kêu gọi Hoa Kì ủng hộ Israel. Nhưng kể từ 1967, hậu thuẫn của cánh tả dành cho Israel dần dần suy giảm trong khi hậu thuẫn của phe bảo thủ lại gia tăng.<br /><br />Nhiều yếu tố khác nhau đã hội tụ lại trong thập niên 1940 để biến chủ nghĩa Xi-ôn-nít ngoại Do tiến bộ (progressive gentile Zionism) thành một thế lực mạnh trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì, nhất là bên cánh tả. Một là, cuộc tàn sát người Do Thái do bàn tay của Đức quốc xã trong Thế chiến II gây chấn động phi thường lên tín đồ Tin Lành Mĩ. Trước đó nước Đức đã có một thời cung ứng lãnh đạo tinh thần cho giáo hội Tin Lành Mĩ, và vì thế thái độ thụ động chấp nhận mà các hầu hết nhà thờ và mục sư Tin Lành Đức dành cho chế độ Quốc xã đã gây sốc đến tận cốt lõi cho toàn khối Tin Lành chính mạch tại Mĩ. Những tín đồ Tin Lành Đức chống chế độ Quốc xã đã trở thành những vị anh hùng đạo lí và thần học tại Hoa Kì thời hậu chiến, đồng thời thái độ chống đối chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism) trở thành một thử nghiệm then chốt mà các tín đồ Tin Lành chính mạch Mĩ dùng để đánh giá bản thân và các nhà lãnh đạo. Cơn sốc sâu đậm này đã mạnh mẽ thúc đẩy họ hưởng ứng cứu trợ nhân đạo trước những phát hiện về các lò sát sinh và các cuộc tàn sát tập thể. Nỗi thống khổ của người Do Thái tị nạn, vừa li tán vừa đói nghèo trong một châu Âu hỗn loạn thời hậu chiến, đã khiến điều sau đây trở thành tất yếu: tín đồ Tin Lành Mĩ, sau một thế kỉ vận động đòi quyền sống cho dân Do Thái, sẽ nhiệt tình hậu thuẫn những bước phát triển mà họ cho là có thể đảm bảo an toàn cho người Do Thái châu Âu.<br /><br />Yếu tố thứ hai là hậu thuẫn mạnh mẽ của người Mĩ gốc châu Phi (African Americans) dành cho người Do Thái vào một thời điểm mà dân da đen bắt đầu đóng một vai trò to lớn hơn trong sinh hoạt chính trị tuyển cử của Hoa Kì. Suốt thập niên 1930, báo chí của người Mĩ gốc châu Phi đã chăm chú theo dõi việc Hitler áp đặt những chính sách phân biệt chủng tộc. Các lãnh đạo Mĩ gốc châu Phi không để lỡ cơ hội vạch ra những điểm tương đồng giữa việc Hitler đối xử với người Do Thái và những luật phân chủng Jim Crow áp dụng tại miền nam Hoa Kì. [15] Đối với nhiều người Mĩ gốc châu Phi, bằng kinh nghiệm bản thân hằng ngày, họ cảm nhận một cách sống động, hiện thực, cảnh đàn áp mà người Do Thái phải chịu đựng. Sự đàn áp này cũng cung ứng cho họ những luận điểm quan trọng để thuyết phục người da trắng rằng kì thị chủng tộc là vi phạm những nguyên tắc đạo lí của Mĩ và vì thế sự đàn áp người Do Thái ở châu Âu đã đưa đến việc xây dựng một liên minh vững mạnh giữa người Do Thái tại Mĩ và phong trào dân quyền [của người da màu], một liên minh tồn tại từ năm 1945 đến cuối đời Martin Luther King. Ngay cả trong Thế chiến II, các nhà tranh đấu da đen W.E.B. Du Bois, Zora Neale Hurston, Langston Hughes, và Philip Randolph đã ủng hộ tiền thân (precursor) của đảng Likud trong nỗ lực thành lập một quân đội DoThái. Nhà lãnh đạo dân quyền Adam Clayton Powell, Jr., còn đi xa hơn, quyên góp đến 150.000 đôla cho tổ chức Xi-ôn-nit chủ chiến Irgun Zvai Leumi – mà ông gọi là “một tổ chức khủng bố bí mật tại Palestine” – trong một cuộc mit-ting tại Thành phố New York.<br /><br />Sự ủng hộ của Liên Xô đối với một quốc gia Israel độc lập cũng giúp phần nào. Ở Yalta, Joseph Stalin đã nói với Franklin Roosevelt rằng bản thân ông ta cũng là một người Xi-ôn-nit. Vào tháng Năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Xô-viết Andrei Gromyko tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên xô ủng hộ việc thành lập một quốc gia Do Thái. Hậu thuẫn này, dù có ngắn ngủi chăng nữa, đã củng cố quan điểm của nhiều người Mĩ bên cánh tả, rằng việc thành lập một quê hương cho người Do Thái là một phần của cuộc đấu tranh chung cho tiến bộ trên toàn thế giới. Thật ra, trong những thập niên sau thế chiến, nhiều người Mĩ phóng khoáng (American liberals) đã coi việc hậu thuẫn Israel là một phần đóng góp của họ cho chế độ tự do, cho phong trào giải thực (vì người Do Thái ở Palestine cũng đang đòi độc lập bất chấp sự phản đối của Anh Quốc), cho cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục, cho chủ nghĩa nhân đạo, và cho truyền thống tiến bộ trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì. Lúc bấy giờ trong mắt của nhiều người, nước Israel xuất hiện như một thí nghiệm thế tục đầy tính lí tưởng của chế độ dân chủ xã hội (social democracy). Cả người Do Thái Mĩ cũng như người dân ngoại Do Mĩ cùng nhau sang tận Israel để thể nghiệm cuộc sống hân hoan, tham gia lao động và sinh hoạt tập thể tại những trang trại công (kibbutz) của các khu định cư. Vì thế, vào năm 1948, khi Truman quyết định hậu thuẫn việc thành lập nước Israel, ông ta không chỉ nghĩ đến lá phiếu của người Do Thái mà thôi. Hậu thuẫn mà Hoa Kì dành cho Israel cũng được lòng người dân da đen miền Bắc, những người được thu hút đến với đảng Dân Chủ nhờ chính sách New Deal [16] và việc Truman từng bước tiến đến hậu thuẫn cho dân quyền. Sự hậu thuẫn cho nước Israel cũng giúp Truman tranh thủ được nhiều cử tri cánh tả, những người mà nếu không vì lợi ích của Israel có thể đã ủng hộ Henry Wallace và đảng Tiến bộ. Ngọn cờ hậu thuẫn Israel cũng giúp Truman giành phiếu của cử tri miền nam bảo thủ, những cử tri đi nhà thờ, đọc kinh thánh, và nhờ thế tăng cường khả năng chống lại ảnh hưởng của cánh Dân chủ miền nam (Dixiecrats) của Strom Thurmond. Quả thật, hậu thuẫn dành cho Israel là một trong những chủ điểm hiếm hoi còn lại để giữ được liên minh vốn đã bị nức rạn của đảng Dân chủ.<br /><br />Tuy nhiên, kể từ cuộc chiến 1967, cơ sở của sự ủng hộ dành cho Israel tại Hoa Kì đã chuyển dịch: hậu thuẫn cho Israel có khuynh hướng giảm dần bên cánh tả và gia tăng bên cánh hữu. Bên cánh tả, sự bất mãn đều khắp đối với những chính sách của Israel trong các vùng đất bị chiếm đóng cùng với mối quan tâm ngày một giảm đối với an ninh của nước này, theo sau thắng lợi của nó trong cuộc chiến, đã khiến nhiều người Mĩ gốc châu Phi, nhiều tín đồ Tin Lành chính mạch, nhiều trí thức phóng khoáng, những người một thời từng là đồng minh vững chắc của Israel tại Mĩ, chuyển sang ngày càng có cảm tình với quan điểm của người Pa-let-tin. Ngoài ra, sự đồng cảm ngày một gia tăng của người da đen đối với các phong trào chống thực dân khắp thế giới, sự hao mòn của liên minh da đen-Do Thái trong chính trị nội bộ Mĩ, và thanh thế đang lên của các nhân vật như Malcolm X và các lãnh đạo của tổ chức Nước Hồi Giáo (Nation of Islam) cũng dần dần làm suy giảm sự hậu thuẫn của dân Mĩ gốc châu Phi dành cho Israel. Về phần mình, những giáo phái Tin Lành cởi mở bắt đầu tiếp thu quan điểm của những nhà truyền giáo có thiện cảm với chủ nghĩa dân tộc Ả-rập; đồng thời, khi các giáo phái chính mạch càng ngày càng chỉ trích những quan niệm truyền thống Mĩ về bản sắc và định mệnh quốc gia của Hoa Kì, những tín đồ cởi mở này cũng tránh xa lối tiếp cận Cựu ước truyền thống. (Mặc khác, quan hệ giữa người Công giáo Mĩ và người Do Thái bắt đầu cải thiện sau cuộc chiến 1967, chủ yếu nhờ cách tiếp cận với người Do Thái theo quan điểm thần học mới của Giáo hội Công giáo kể từ Công đồng Va-ti-ca-nô II. [17] )<br /><br />Bên cánh hữu, thay đổi nổi bật nhất kể từ 1967 là sự gia tăng đột biến hậu thuẫn dành cho Israel trong giới Ki-tô giáo Tin Lành (evangelical Christians) [18] và, tổng quát hơn, trong hàng ngũ những thành phần mà tôi từng gọi là cử tri “có tính chất Andrew Jackson [19] ” (Jacksonians) ở vùng đại bình nguyên giữa bờ Đông và bờ Tây nước Mĩ. Jacksonians là những cử tri bình dân-quốc gia chủ nghĩa [20] (populist-nationalist), họ ủng hộ một quân đội hùng mạnh và thông thường không mấy tin tưởng các tổ chức quốc tế và viện trợ nhân đạo toàn cầu. Không phải tất cả mọi tín đồ Tin Lành đều là Jacksonians, và không phải tất cả Jacksonians đều là người Tin Lành, nhưng có một số người nhất định thuộc về cả hai nhóm cử tri này. Nhiều người da trắng miền nam là Jacksonians; nhiều cử tri không kiên định lập trường đảng phái ở miền Bắc, còn gọi là những người Dân chủ ủng hộ Reagan (Reagan Democrats), cũng là Jacksonians.<br /><br />Nhiều Jacksonians đã có định kiến tiêu cực về người Ả-rập từ thời Chiến tranh lạnh. Họ nhận thấy, dân Pa-lét-tin và các quốc gia Ả-rập thường đứng về phía Liên xô và Phong trào phi-liên kết để chống lại Hoa Kì. Người Ai-Cập đáp lại hậu thuẫn của Hoa Kì trong vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 bằng cách quay sang phía Xô-viết để mua vũ khí và tìm hậu thuẫn, đồng thời chuyên viên Xô-viết và vũ khí Xô-viết đã giúp các đội quân Á-râp chuẩn bị các cuộc chiến chống Israel. Các Jacksonianscó khuynh hướng nhìn các biến động quốc tế theo lăng kính độc đáo của mình. Cùng với các biến động diễn ra ở Trung Đông từ năm 1967, họ ngày càng có nhiều cảm tình với Israel ngay cả khi nhiều thành phần khác của xã hội Mĩ – và thêm nhiều người nữa ở những vùng khác trên thế giới – ngày càng mất đi cảm tình đối với Israel. Cuộc Chiến Sáu Ngày (the Six-Day War) đã nhen nhúm lại mối quan tâm của những người Xi-ôn-nit tiên tri đối với Israel và, theo cách nhìn của nhiềuJacksonians, cuộc chiến này đã tăng cường những quan hệ sâu sắc giữa Israel và Hoa Kì. Sau thời Chiến tranh lạnh, những người Jacksonian nhận thấy rằng những quốc gia thù nghịch của Mĩ ở trong vùng, như Iraq và Iran, đồng thời cũng là những kẻ thù hung hăng nhất của Israel.<br /><br />Những người Jacksonian chiêm ngưỡng chiến công và chiến thắng hoàn toàn là chiến công đẹp nhất. Chiến thắng hoàn toàn, với sức mạnh áp đảo của các binh chủng Israel năm 1967 trước kẻ thù có quân số lớn hơn đến từ ba nước khác nhau là điều mà Jacksonians rất mơ ước – nhất là vào một thời điểm mà khả năng chiến đấu yếu kém của Hoa Kì tại Việt Nam đã khiến nhiều Jacksonians đâm ra bi quan về tương lai của quốc gia mình. Kể từ đó, chính một số hành động quân sự đã làm tổn thương uy tín của Israel đối với hầu hết các nước trên thế giới – chẳng hạn những phản ứng quá đáng đối với quân khủng bố Pa-let-tin – lại gia tăng hậu thuẫn cho quốc gia này từ phía Jacksonians.<br /><br />Đôi khi chỉ vài đạn pháo từ dải Gaza bắn vào lãnh thổ Israel, quân đội Israel lại phản ứng bằng một hoả lực mạnh hơn, gây nhiều đổ nác và nhiều thương vong hơn. Trong con mắt của phần lớn thế giới, đây là sự trả đũa quá đáng, một vi phạm tương đương hay thậm chí nghiêm trọng hơn cuộc tấn công của kẻ gân hấn. Thế nhưng, Jacksonians coi mỗi loạt pháo kích của người Pa-lét-tin nhắm vào các mục tiêu ở Israel là một hành động khủng bố và họ cho rằng người Israel có toàn quyền, thậm chí có nghĩa vụ, trả đũa bằng tất cả sức mạnh có thể huy động được. Kể từ thập niên 1950, cứ mỗi lần quân đặc công Palestine lẻn qua đường ngưng bắn để tấn công các khu định cư của Israel, nhiều người Pa-lét-tin và người Ả-rập lại biện minh rằng những cuộc đột nhập này là hành động rất can đảm mặc dù phải đối đầu với một hoả lực dữ dội, trấn áp. Nhưng những vụ đột kích nhắm vào các mục tiêu dân sự, và nhất là các vụ tấn công dùng bom tự sát, lại vi phạm các nguyên tắcJacksonian cơ bản về phương thức tiến hành một cuộc chiến văn minh. Những người Jacksonian cho rằng chỉ có một sự trả đủa trấn ác và triệt để chống lại các chiến thuật như thế mới chận đứng việc đặc công đánh phá thêm nữa. Đây là cách người Mĩ sống ở vùng biên đã đối phó với người da đỏ, là cách mà tướng Liên bang [miền Bắc] William Sherman “đã dạy một bài học” cho quân dân miền Nam trong Nội chiến Mĩ, và cũng là cách tướng Douglas MacArthur và Truman đã trả lại cho người Nhật món nợ Pearl Harbor. Những người Jacksonian thực tình không hiểu được vì sao thế giới lại chỉ trích Israel vì đã hành sử điều mà họ cho là quyền tự vệ không khoan nhượng – vì đã làm đúng những điều mà chính họ cũng phải làm nếu ở vào vị trí của Israel.<br /><br />Theo quan điểm của người Pa-lét-tin và những người hậu thuẫn họ, người Pa-lét-tin – bị lưu vong, bị cho ra rìa, bị chiếm đóng, bị chia rẽ – là những người yếu thế nhưng anh hùng, dám đương đầu với một siêu cường trong vùng, mà siêu cường này lại được hậu thuẫn của một nước mạnh nhất thế giới. Nhưng theo quan điểm Jacksonian, Israel, dù với tất cả sức mạnh và chiến công của mình, vẫn chỉ là cậu bé David đang lâm nguy, “tứ bề thọ địch”. Sự thể người Ả-rập và toàn thể cộng đồng gồm một tỉ tín đồ Hồi giáo hậu thuẫn chính nghĩa của người Pa-lét-tin, chí ít bằng khẩu hiệu, đã khiến những người Jacksoniancàng tin thêm rằng Israel là một nước nhỏ bé và đang lâm nguy, đáng được giúp đỡ. Bẽ bàng là, một số thành công quân sự chính trị to lớn nhất của phong trào Pa-let-tin – như triển khai một cuộc kháng chiến võ trang năng động, giành được hậu thuẫn (phần lớn chỉ là khẩu khí) từ các tổ chức như Liên minh Ả-rập và ngay cả Đại hội đồng Liên hiệp quốc, chuyển dịch cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến Pa-let-tin từ chủ nghĩa dân tộc thế tục (secular nationalism) sang lãnh vực tôn giáo, và giành được hậu thuẫn của các nước mạnh trong vùng như Iraq dưới thời Saddam và Iran ngày nay – rốt cuộc mang lại hậu quả là những thành công này chỉ tăng cường cũng cố thêm sự hậu thuẫn của người dân ngoại Do Mĩ cho quốc gia Do Thái.<br /><br />Tình huynh đệ Ki-tô giáo<br /><br />Một yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc người Mĩ gia tăng hậu thuẫn cho Israel là, kể từ 1967 một loạt phong trào gây lại niềm tin tôn giáo diễn ra đều khắp nước Mĩ, mang lại những hậu quả quan trọng trong thái độ của dân chúng đối với vùng Trung Đông. Một hậu quả là, trong khi các giáo phái Tin Lành chính mạch cởi mở chỉ trích Israel nhiều hơn, họ đánh mất luôn ảnh hưởng chính trị và xã hội của chính mình. Một hậu quả khác là, vai trò của chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionism) tăng lên đáng kể, với sự kiện tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống [21] Mĩ hiện nay quan tâm hơn bao giờ cả về những lời tiên tri trong kinh thánh và về vai trò của Israel trên quá trình dẫn đến sự khải huyền [tận thế].<br /><br />Nhiều tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống đã không mấy quan tâm đến Israel sau cuộc chiến giành độc lập của nước này. Theo chỗ họ hiểu, những lời tiên tri trong kinh thánh rõ ràng dự kiến người Do Thái sẽ xây lại Ngôi đền trên vị trí cũ của nó; vì thế họ suy diễn, khi những vị trí thiêng liêng của Jerusalem vẫn còn nằm trong tay người Ả-rập, thì tiến trình dẫn đến ngày tận thế có vẻ đã chậm lại. Trong khi đó, nước Israel thế tục và gần như xã hội chủ nghĩa trong thập niên 1950 ít lôi cuốn người Ki-tô giáo bảo thủ hơn lôi cuốn người Ki-tô giáo cởi mở. Vì phải để mắt vào mối đe dọa cộng sản trong những năm cao điểm của Chiến tranh lạnh, tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống ít tích cực tham gia vào chính sách Mĩ ở Trung Đông như họ đã từng tham gia vào thế kỉ 19.<br /><br />Cuộc chiến Sáu ngày đã thay đổi thái độ đó; nó là lực xúc tác cho phong trào phục hoạt phúc âm và tiếp sức cho chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri. Tính chớp nhoáng và tính quyết định của thắng lợi mà Israel đạt được là một phép lạ trong mắt của nhiều người Mĩ; Israel chiếm được Thành cổ (the Old City), điều này có nghĩa là vị trí của Ngôi đền đã về tay người Do Thái. Cảm thức ngày tận thế đang tới gần là một lực tác động mạnh mẽ cho làn sóng phục hoạt tôn giáo tại Mĩ, một phong trào được khởi động trong giai đoạn này. Kể từ đó đến nay, một loạt sách truyện thuộc loại bán chạy nhất, hư cấu cũng như phi-hư cấu, đã nhắm vào sở thích của hàng triệu người Mĩ trong khả năng là ngày tận thế đang triển khai tại Trung Đông, như đã được các ngôn sứ tiên tri trong Cựu ước và Tân ước.<br /><br />Từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, thêm một lực tác động nữa đã tăng cường những quan hệ giữa quốc gia Israel và nhiều người Ki tô giáo bảo thủ của Mĩ. Khi cuộc phục hưng tôn giáo mang lại sức mạnh và sinh lực mới cho các giáo hội Tin Lành và chính thống, họ lại càng quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài. Trong quá khứ những cuộc phục hưng tôn giáo như thế đã dẫn đến các cao trào truyền giáo đầy nhiệt tình và rất năng động; cuộc phục hưng tôn giáo hiện nay không khác bao nhiêu. Và khi người Ki-tô giáo Mĩ đã quan tâm nhiều hơn đến an sinh của Ki-tô hữu khắp thế giới, họ đã gặp phải địch thủ quan trọng nhất của Ki-tô giáo toàn cầu, đó là Hồi giáo, và họ bắt đầu nhận chân rằng tình cảnh của người Ki-tô giáo tại một số nước có đa số theo Hồi giáo không được khả quan cho lắm.<br /><br />Mối quan tâm về người Ki-tô giáo bị bách hại khắp thế giới là nét đặc trưng trường kì của Ki-tô giáo, và điều này không phải chỉ riêng ở Mĩ mới có. Trong quá khứ, chính những nhà lãnh đạo các giáo hội từng tham gia các nỗ lực bảo vệ người Do Thái ở châu Âu và Đế quốc Ottoman thường cũng là những người tham gia các chiến dịch bảo vệ các tín đồ Ki-tô giáo tại Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, và Đế quốc Ottaman cùng các nơi khác trên thế giới. Phong trào cộng sản, được coi như kẻ thù hung bạo nhất của tôn giáo trong thế kỉ 20, nhiên hậu đã thúc đẩy tín đồ Ki-tô giáo Mĩ xây dựng những tổ chức nhằm hậu thuẫn các tín hữu ở sau Bức màn sắt. Từ năm 1989, sự bách hại tín đồ Ki-tô giáo do bàn tay cộng sản đã giảm nhiều (mặc dù chưa biến mất), và nhờ vậy càng ngày trọng tâm của mối quan ngại càng chuyển qua Trung Đông, nơi nhiều tín đồ Ki-tố giáo và tín đồ của các đức tin khác hay người không theo tôn giáo nào hiện bị phân biệt đối xử về mặt xã hội và pháp lí – và cũng là nơi, lắm khi tín đồ Ki-tô giáo bị đánh đập và sát hại vì đức tin của mình. Luật pháp của nhiều nước Hồi giáo còn cấm truyền đạo và cải đạo – những vấn đề chiếm được quan tâm sâu sắc nhất của người Ki-tô rao giảng Phúc âm (evangelical Christians), những người tin rằng kẻ nào đến phút lâm chung mà chưa tiếp nhận Đức Ki-tô vào lòng thì sẽ chịu cực hình trong hoả ngục và rằng sự nghiệp truyền bá đức tin Ki-tô giáo là một trong những nghĩa vụ đạo lí trung tâm. Những cơ quan truyền thông chính mạch của Mĩ thường không coi nạn bách hại các tín đồ Ki-tô giáo ở nước ngoài là trọng tâm chính cho việc đưa tin của họ, nhưng sự thờ ơ này không ngăn cản được vấn đề tôn giáo ảnh hưởng lên quan điểm của nhiều người Mĩ đối với Hồi giáo và, nói rộng ra, đối với cuộc xung đột giữa Israel với một số nước láng giềng.<br /><br />Dư luận tại Hoa Kì về vấn đề Trung Đông không phải là một khối thuần nhất, cũng không phải bất di bất dịch qua thời gian. Từ 1967 đến nay, nó đã kinh qua nhiều chuyển dịch, một số tổ chức hoặc nhóm cử tri trở nên thiện cảm hơn với Israel và một số khác thì ngược lại. Càng ngày người Mĩ gốc châu Phi càng ít ủng hộ đảng Likud hiện nay hơn họ đã từng hậu thuẫn quân đội Do Thái trong Thế chiến II. Thêm nhiều thay đổi có thể xảy ra. Một giới lãnh đạo Pa-let-tin và Ả-rập nhạy cảm hơn đối với những giá trị và những ưu tiên chính trị của nền văn hóa chính trị Mĩ có thể đã phát triển được những chiến thuật mới mẻ và hiệu quả hơn nhằm làm suy yếu, thay vì tăng cường, hậu thuẫn của Mĩ dành cho quốc gia Do Thái. Chẳng hạn, nếu chịu chấm dứt những cuộc tấn công khủng bố để tiến hành một cuộc đấu tranh dân sự bất bạo động có kĩ luật và có tổ chức, họ có thể đã thay đổi được cách nhìn của những người Jacksonian về cuộc tranh đấu của người Pa-let-tin. Một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra là, dần dà qua thời gian những tín đồ Tin Lành-chính thống Mĩ sẽ theo bước chân của Jimmy Carter, khi ông ta đi từ một chủ nghĩa Xi-ôn-nít trẻ trung đến một lập trường mà ông cho là quân bình hơn như hiện nay. Nhưng nếu Israel phải đối đầu với bất cứ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nào, dư luận Mĩ sẽ chuyển hướng ngược lại, và đây có vẻ là một khả năng còn lớn hơn. Nhiều thành phần trong số những người Mĩ ngày nay kêu gọi một chính sách quân bình hơn đối với người Pa-lét-tin, sở dĩ làm như vậy, là vì họ tin rằng trên cơ bản Israel đã được an ninh. Nếu một lúc nào đó thẩm định này thay đổi, những cuộc thăm dò dư luận quần chúng rất có thể sẽ chứng tỏ mức độ hậu thuẫn của Mĩ dành cho Israel còn cao hơn hiện nay.<br /><br />Chí ít có một điều gần như hiển nhiên. Trong tương lai cũng như trong quá khứ, dù có tốt hơn hoặc xấu hơn, chính sách ngoại giao của Hoa Kì đối với Trung Đông vẫn tiếp tục được hình thành bởi ý chí của đại đa số dân Mĩ, chứ không bởi những thủ thuật hay mưu mô của bất cứ nhóm thiểu số nào, dù một số thành viên của nhóm này có giàu có hay tích cực tham gia vào tiến trình chính trị đến thế mấy đi nữa.<br /><br />Walter Russell Mead là chuyên viên cấp cao trong chương trình Henry A. Kissinger về Chính sách đối ngoại Hoa Kì ở Hội đồng nghiên cứu Quan hệ đối ngoại và, gần đây nhất, là tác giả của cuốn God and Gold: Britain, America, and the Making of the Modern World (Chúa và Vàng: Anh, Mĩ và Sự hình thành của Thế giới Ngày nay).<br /><br />[1]Lời dịch trích từ website: <a href="http://www.facebook.com/l.php?u=http%3A%2F%2Fwww.tinlanh.de%2Fcuuuoc.html&h=cAQGA-cJD&s=1" rel="nofollow nofollow" style="color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;" target="_blank">http://www.tinlanh.de/cuuuoc.html</a>. (Trừ chú thích số 3, các chú thích là của người dịch)<br />[2]Theo Cựu ước, David là vị vua thứ hai của Vương quốc thống nhất Israel. Kinh thánh mô tả ông là một người công chính, một thi sĩ, nhạc sĩ, một danh tướng. Theo biên niên dựa vào kinh thánh, David ra đời khoảng 1037 và mất khoảng 967 trước Công nguyên. Tiểu sử của David có ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Do Thái và Ki-tô giáo.<br />[3]‘ngoại Do’: lựa chọn dịch thuật cho tính từ gentile, có ý nghĩa là ‘không phải là người Do Thái’ (về huyết thống và tôn giáo). Để tránh trùng lặp đơn điệu, ở những chỗ khác nhau trong bản dịch này tính từ gentile còn được dịch là ‘phi-Do-Thái’ hoặc ‘ngoại Xi-ô-nít’. (Chú thích của người biên tập)<br />[4]Chủ nghĩa Xi-ôn-nit (Zionism) là một phong trào chính trị quốc tế, một chủ trương thoạt đầu ủng hộ việc tái lập một quê hương cho người Do Thái tại Palestine và ngày nay vẫn còn tiếp tục hậu thuẫn quốc gia Israel hiện đại.<br />[5]Protestants còn được dịch là tín đồ “Thệ phản giáo” hoặc “Kháng Cách giáo” để nhấn mạnh chủ trương li khai với Giáo hội Công giáo La Mã, một sự kiện lịch sử diễn ra vào thế kỉ 16. Người dịch chọn từ Tin Lành vì tính phổ biến của từ này trong tiếng Việt, nhất là trong hầu hết các tự điển Anh-Việt thông dụng, và nhất là vì nó không làm thương tổn nội dung nguyên bản. Có lẽ vì tinh thần “đại kết” (ecumenism), một nỗ lực đoàn kết giữa các truyền thống Ki-tô giáo khác nhau, chúng ta không thấy các giáo hội Công giáo hay Tin Lành Việt Nam dùng các từ “Thệ phản giáo” hay “Kháng Cách giáo” trong văn chương của họ.<br />[6]Những tín đồ Ki-tô giáo theo truyền thống này tin tưởng Thiên Chúa là một ngôi duy nhất, tương phản với quan niệm Chúa Ba ngôi (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần). Đối với họ, đức Ki-tô là một gương sáng, một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, thậm chí là một đấng siêu nhiên, nhưng bản thân ngài không phải là Thiên Chúa.<br />[7]Người Hêbrơ (dân Do Thái cổ đại) là sắc dân mà Kinh thánh Cựu ước mô tả là hậu duệ của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Xem thêm chú thích 2.<br />[8]Người rao giảng Tin Lành (evangelist, evangelical) tin rằng họ có sứ mệnh truyền bá những điều đức Ki-tô đã dạy và được ghi lại trong các sách Phúc âm (tin mừng) của Tân ước (theo Mat-thêu, Mac-cô, Lu-ca và Gio-an).<br />[9]Lý thuyết tôn giáo của John Calvin, một nhà thần học Pháp thế kỉ 16, nhấn mạnh sự toàn năng của Thiên Chúa và sự cứu rỗi có tính cách tiền định mà Thiên Chúa chỉ dành cho một số người được ngài tuyển chọn (xuyên qua hồng ân của ngài mà thôi). Thuyết này phù hợp với quan niệm “tuyển dân” (chosen people) của một số nhà tư tưởng tôn giáo Mĩ.<br />[10]Giao ước (convenant) là một tín lí theo đó một cộng đồng tôn giáo tin rằng Thiên Chúa đã liên minh hay hiệp thông với họ. Một ví dụ về quan hệ giao ước trong Do Thái giáo và Ki-tô giáo là quan hệ giữa Áp-ra-ham và Thiên Chúa, theo đó Thiên Chúa giao ước với Áp-ra-ham là ngài sẽ ban phép lành cho con cháu của ông sinh sôi nhiều hơn cả sao trên trời. Theo đức tin Ki-tô giáo, Thiên Chúa làm thêm một giao ước nữa, còn gọi là “giao ước mới”, theo đó đức Giê-su Ki-tô chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho tất cả loài người.<br />[11]David và Goliath là hai nhân vật trong một truyện tích nổi tiếng của Cựu ước, trong đó David là một cậu bé chăn cừu và là vua tương lai của Israel (xem chú thich 3). David chỉ dùng chiếc ná bắn một hòn đá và giết chết Goliath. Goliath là chiến sĩ khổng lồ của quân Philistines, được cử ra để thách thức vua quan Israel. Đây là một truyện minh họa sức mạnh của đức tin: David bước ra chấp nhận thách thức, không một manh giáp trên người, nhưng đã làm cho kẻ địch được trang bị đầy đủ binh giáp phải hoảng sợ rút quân.<br />[12]Phái nông gia theo mô hình kinh tế Jefferson [tổng thống thứ ba của Mĩ] chủ trương rằng kinh tế Hoa Kì phải chủ yếu dựa trên nông nghiệp để sản xuất những hàng hoá chiến lược, hơn là dựa vào công nghiệp. Jefferson khẳng định tin tưởng rằng: “Những người đổ mồ hôi canh tác đất đai… là tuyển dân (chosen people) của Thiên Chúa, nếu có bao giờ ngài có một tuyển dân.”<br />[13]Theo Cựu ước, Joshua là nhà lãnh đạo Israel tiếp theo sau Mô-se.<br />[14]Theo Cựu ước, vua Solomon đã xây một ngôi đền để thờ phượng Thiên Chúa tại Jerusalem. Người Do Thái cho rằng ngôi đền mái vòm của Hồi giáo (the Dome of Rock, xây vào thế kỉ 7) hiện đang tọa lạc ngay trên địa điểm của Đền Solomon, còn gọi là Ngôi đền đầu tiên mà họ tin rằng quân Ba-by-lon san bằng vào năm 585 trước Công nguyên.<br />[15]Theo luật phân chủng Jim Crow, người da trắng và da đen phải sử dụng những phương tiện công cọng riêng rẽ, như xe buýt, công viên, trường học… Jim Crow là tên gọi của của một hệ thống phân chia giai cấp, theo đó người da đen bị dìm xuống thành một loại công dân thứ cấp (secon-class citizens) trong khi người da trắng được đề cao là một chủng tộc ưu việt, thậm chí là một dân tộc được Chúa chọn, theo quan điểm của nhiều người miền Nam trước và sau Nội chiến Mĩ.<br />[16]Những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy việc phục hồi kinh tế và cải tổ xã hội do tổng thống Franklin Roosevelt đề xuất vào thập niên 1930 với mục đích khắc phục hậu quả của cuộc Khủng hoảng kinh tế. Có nghĩa đen là “chia lại ván bài”, tạo cơ hội mới, New Deal mở ra một bước ngoặt quan trọng, thu hút ngày càng nhiều hậu thuẫn của người da đen. Trước giai đoạn này, đại đa số dân da đen hậu thuẫn đảng Cộng hòa, đảng của tổng thống Abraham Lincoln, người có công giải phóng nô lệ.<br />[17]Một trong những tuyên bố của Công đồng Vaticanô II, nhan đề Nostra Aetate hay “Trong thời đại của chúng ta”, xúy xoá trách nhiệm của dân Do Thái về cái chết của đức Ki-tô đồng thời lên án việc bách hại và kì thị người Do Thái “vào bất cứ thời nào do bất cứ ai”.<br />[18]Evangelical có nghĩa là “phúc âm, tin mừng, tin lành” (good news). Những người theo đạo Tin Lành (evangelicals) tin vào thẩm quyền tuyệt đối của các sách Phúc âm Tân ước ( theo Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an). Người Tin Lành không những triệt để thay đổi chính bản thân (born again) dựa trên những nguyên tắc của sách Phúc âm, mà còn coi mình có sứ mệnh đi truyền đạo, thuyết phục người của các đức tin khác chấp nhận đức Ki-tô là con đường duy nhất đi đến “sự sống đời đời”.<br />[19]Andrew Jackson, tổng thống thứ 7 của Hoa Kì (1829-37). Trước khi trở thành tổng thống, Jackson là một nhà quân sự lập được nhiều chiến công lẫy lừng trong các trận đánh chống lại người Anh và các bộ lạc da đỏ liên minh với đế quốc Anh trong Chiến tranh 1812. Ông được coi là một vị anh hùng có công chống ngoại xâm và nới rộng biên cương của Mĩ. Jackson rất được lòng binh sĩ và giới bình dân. Trên cương vị tổng thống, Jackson nới rộng quyền lực của chính phủ liên bang.<br />[20]Trong bối cảnh của một nước đa chủng như nước Mĩ, từ nationalism nên được dịch là “chủ nghĩa quốc gia”, đối trọng với chủ nghiã quốc tế hay những xâm lấn từ nước ngoài vào. Sự nghiệp nhà binh của Andrew Jackson gắn liền với việc chống sự can thiệp và xâm lấn của đế quốc Anh. Vì thế từ Jacksonian mà tác giả dùng trong bài viết còn có nghĩa là “chống lại sự can thiệp của nước ngoài” kể cả các tổ chức quốc tế như LHQ.<br />[21]Triệt để tin vào lối giải thích theo nghĩa đen của Kinh thánh (fundamentalist). Các tín đồ Tin Lành-chính thống sống trong một văn hóa bảo thủ, lấy Kinh thánh làm khuôn thước đạo lí, sống đông đảo ở các tiểu bang miền Nam [của Nội chiến Mĩ], những tiểu bang thường được mệnh danh là “Vòng đai thánh kinh” (the Bible Belt).<br />Nguồn: Walter Russell Mead, “The New Israel and the Old. Why Gentile Americans Back the Jewish State?”, Foreign Affairs, July/August 2008.</span>Anonymoushttp://www.blogger.com/profile/12525788448675371856noreply@blogger.com0