Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN TẠI CHÂU Á


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN TẠI CHÂU Á


Trước khi xảy ra vụ khủng bố ngày 11/9 ở Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Irăc và các diễn biến tại Apganixtan, các sách báo nói về chính sách Châu Á của Nhật Bản hầu như chỉ đề cập đến quan hệ giữa Nhật Bản  với Trung Quốc, Bán đảo Triều Tiên và Đông Nam Á. Nhưng các sự kiện nói trên cho thấy, tình hình thế giới đã thay đổi nhanh chóng, chính sách Châu Á của nước Nhật phải chú ý tới nhiều khu vực hơn nữa, như Tây Á và Nam Á. Dưới con mắt người Nhật, tầm quan trọng của Ấn Độ ở Nam Á ngày càng tăng khi họ thấy quốc gia này có thể trở thành đối trọng với tầm cỡ to lớn của Trung Quốc. Còn ở Tây Á thì nước Nhật không có nhiều lợi ích, nhưng phải phụ thuộc khu vực này về năng lượng.
Hơn 85% nhu cầu về dầu lửa của Nhật Bản là do các nước Tây Á cung cấp,  nền kinh tế Nhật Bản phải trông chờ ở tàu chở dầu qua lại an toàn trên các đường biển Nam và Đông Nam Á. Từ những năm giữa thập kỷ 1990, những con đường đó trở thành thiếu an toàn do nạn cướp biển. Số trường hợp tàu chở hàng bị cướp ở khu vực này ngày càng tăng một cách đáng sợ. Theo Cục Hàng hải Quốc tế thì trong sáu tháng đầu năm 2003, số vụ cướp trong lãnh hải Inđônêxia rất lớn so với tổng số các trường hợp trên toàn thế giới.
Ở vùng biển Châu Á, bọn cướp không những tấn công tàu qua lại trên một eo biển, mà nhằm cả tàu neo đậu trong hải cảng. Trong mấy năm qua, nhiều tàu chở hàng của Nhật Bản đã bị tấn công, thí dụ như năm 1999, một tàu hàng Nhật Bản bị cướp nhưng sau nhờ hải quân Ấn Độ lấy lại được. Năm 2001, một tàu nữa được hải quân Inđônêxia và Malaixia cứu thoát. Những trường hợp đó càng làm tăng tầm quan trọng chiến lược của các nước Nam Á và Đông Nam Á. Tuy nhiên, thái độ thay đổi của Nhật Bản đối với những nước này cũng chịu ảnh hưởng quan hệ mật thiết giữa nước Nhật với Hoa Kỳ, vì quan hệ với nước Mỹ vẫn là nền tảng chính sách đối ngoại Nhật Bản. Ngoài ra, chính sách Châu Á của Nhật Bản còn chịu tác động của nước Trung Hoa ngày càng lớn mạnh.
Từ xa xưa, Nhật Bản đã có quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc và Bán đảo Triều Tiên, nhưng mối liên hệ gắn bó trong nhiều thế kỷ đã bị hồi ức đau buồn của thời kỳ từ năm 1895 đến 1945 làm lu mờ, khi Trung Quốc và Triều Tiên là trọng tâm chính sách bành trướng của Nhật Bản. Sau khi chiến thắng trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật năm 1894 -1895, nước Nhật dần dần mở rộng ảnh hưởng ở Trung Quốc, ký ức về sự tàn bạo của quân phiệt Nhật ngày nay còn đậm nét, thí dụ vụ “tàn sát Nam Kinh” năm 1937 vẫn còn được nhớ là hành động dã man nhất của binh lính Nhật tại Trung Quốc.
Đối với Triều Tiên, nước này bị Nhật Bản sát nhập năm 1910 và nằm dưới sự thống trị của Nhật cho đến năm 1945, trong thời gian đó Nhật Bản âm mưu xóa bỏ nền văn hóa Triều Tiên và thay thế bằng văn hóa Nhật Bản. Thanh niên Triều Tiên bị bắt vào lính trong quân đội Thiên hoàng, một số đông bị đưa sang Nhật Bản làm việc ở các nhà máy. Dân Triều Tiên bị bắt buộc nói tiếng Nhật, lấy tên Nhật, và phải đến viếng đền thờ Thần đạo.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai lan rộng, nhiều nước Đông Nam Á cũng bị quân đội Nhật xâm chiếm thời kỳ 1942-1945 và phải chịu đựng ách thống trị hà khắc, trừ Thái Lan không bị trực tiếp chiếm đóng. Điều trải nghiệm cay đắng về ách thống trị thuộc địa trở thành nhân tố quan trọng ngăn cản sự phát triển quan hệ thân thiện giữa Nhật Bản và các nước Đông Nam Á.
Sau khi thất bại trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng từ năm 1945 đến 1952 để giải giáp vũ khí quân đội Nhật và biến nước này thành một nước dân chủ. Tuy nhiên, các diễn biến to lớn ở khu vực Đông Á đã tác động đến chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản, trong đó có sự thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, và cuộc Chiến tranh Triều Tiên thời gian 1950-1953 khiến bán đảo này bị chia cắt thành hai miền Nam và Bắc. Hai diễn biến này đã đẩy nước Nhật vào phạm vi ảnh hưởng của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Lạnh Nhật Bản trở thành đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ tại Châu Á, đáng chú ý là Hiệp ước An ninh ký giữa hai nước năm 1952.
Trung Quốc, Liên Xô và Ấn Độ không tham gia Hiệp ước San Francisco năm đó, thế là Nhật Bản thuộc “thế giới tự do” phải ký hòa ước với Trung Hoa Dân quốc (tức Đài Loan) chứ không phải với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Như vậy, không gian vận động của chính sách đối ngoại Nhật Bản rất hạn chế trong thời gian Chiến tranh Lạnh, do gắn bó chặt chẽ với Hoa Kỳ. Tuy vậy, Nhật Bản chủ trương nhấn mạnh ba khía cạnh: duy trì quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ, cộng tác chặt chẽ với Liên hợp quốc, và phát triển quan hệ với các nước Châu Á.
Chẳng bao lâu sau khi giành lại được chủ quyền năm 1952, Nhật Bản cố gắng lập lại quan hệ bình thường với các láng giềng Châu Á. Những nước mà Nhật Bản quan tâm là Trung Quốc, hai miền Triều Tiên, và một số quốc gia từng bị Nhật Bản chiếm làm thuộc địa. Nhật Bản bồi thường chiến tranh cho những nước bị thiệt hại để bình thường hóa quan hệ, nhưng không đạt nhiều kết quả trong một thời gian do cơ cấu Chiến tranh Lạnh ép buộc.
Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn phải xem xét lại chính sách đối ngoại của mình trong những năm 1970, do chủ trương mà Tổng thống Nixon của Mỹ thi hành năm 1971-1972 và  cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973. Nhật Bản hoàn toàn bị bất ngờ khi ông Nixon quyết định sang thăm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mà không tham khảo ý kiến mình. Thế là đã tới lúc thay đổi đường lối đối ngoại từ chỗ “lấy nước Mỹ làm trung tâm” chuyển sang xu thế “theo mọi hướng”. Nhật Bản thấy rõ không phải lúc nào cũng dựa vào Hoa Kỳ trước khi thi hành những quyết định lớn đối với các nước Châu Á.
Nhật Bản bình thường hóa quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1972, và ký hòa ước với nước đó năm 1978. Một ưu tiên nữa của chính sách đối ngoại Nhật Bản là cải thiện quan hệ với các nước khác ở Châu Á. Nước Nhật bình thường hóa quan hệ với Hàn Quốc năm 1965, và Thủ tướng Nhật là Takeo Fukuda đã đi một vòng Châu Á năm 1977. Trong  bài nói chuyện tại thủ đô Manila của Philippines, Thủ tướng Nhật đã trình bày “học thuyết Fukuda”, nêu rõ mục tiêu của nước ông là tích cực tham gia việc ổn định hóa khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Mục tiêu này cũng được các chính phủ kế tiếp theo đuổi, thí dụ năm 1979-1980, Thủ tướng Masayoshi Ohira đã lập một nhóm nghiên cứu nhằm tìm những cách hợp tác của các nước trong khu vực để đạt tới hòa bình và hợp tác kinh tế.
Nỗ lực chủ yếu của chính sách đối ngoại Nhật Bản là phát triển quan hệ kinh tế nhiều quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc trở thành những nước chủ yếu nhận được viện trợ phát triển chính thức (ODA). Hai phần ba ODA của Nhật Bản dành cho các nước Châu Á, và về kinh tế, tầm quan trọng của các nước Đông Nam Á đã tăng thêm sau khi Hiệp ước Plaza được ký năm 1985. Với sự tăng giá đồng yên so với đồng đôla, Nhật Bản thấy cần phải di chuyển cơ sở sản xuất sang nước khác, và sự lựa chọn đầu tiên dĩ nhiên là các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. Vì thế, các khoản đầu tư trực tiếp quy mô lớn của Nhật Bản được đổ vào các nước này trong những năm cuối 1980.
Cho tới nay, các nước Đông Á và Đông Nam Á là nơi chủ yếu thu hút vốn đầu tư của Nhật Bản, nhưng điều đó không bảo đảm nước Nhật có một vai trò chính trị quan trọng ở khu vực. Động thái của Nhật Bản vẫn bị các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ngờ vực, thí dụ như một số cuộc phản đối rầm rộ nổ ra ở Trung Quốc trong những năm 1980 chống lại sự hiện diện kinh tế ngày càng tăng của Nhật Bản mà nhiều người coi là cuộc xâm lược thứ hai. Nhật Bản phải cố gắng thuyết phục các láng giềng rằng mình có ý định đóng một vai trò tích cực trong khu vực, có lợi cho tất cả.
Nhật Bản hăng hái giữ vai trò tích cực đó còn do nhiều nhân tố thúc đẩy. Theo dự báo thì đến năm 2025, hơn một nửa dân số Nhật Bản sẽ quá 65 tuổi, bộ phận lớn dân chúng già đi đó sẽ gây sức ép cho nền kinh tế và cấu trúc xã hội của đất nước. Hiện nay, nước Nhật đã thiếu tiền trả hưu bổng và chăm sóc y tế cho công dân nhiều tuổi. Dân chúng đang già đi và tỉ lệ sinh đẻ thấp có nghĩa là nước Nhật cần ngày càng nhiều nhân công nước ngoài, và đến một mức độ nào đó, tình trạng thiếu nhân công là một trong những lý do khiến Nhật Bản mở rộng cơ sở công nghiệp ở nước ngoài.
Một lý do không kém quan trọng là Nhật Bản nhận thức được những hạn chế của mình khi muốn có một vị thế cường quốc lớn ở Châu Á và trên thế giới. Nước Nhật hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, cần nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm. Trong những năm đầu 1990, Nhật Bản phải đối phó với những vấn đề kinh tế lớn, nhiều cuộc cải cách hành chính, xã hội và chính trị được thi hành để phục hồi nền kinh tế. Đây cũng là thời gian thế giới chứng kiến những thay đổi đáng kể lúc Liên Xô tan rã. Chiến tranh Lạnh kết thúc tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản.
Theo các điều khoản của “Hiến pháp Hòa bình”, được thảo ra trong thời gian Mỹ chiếm đóng, nước Nhật từ bỏ việc coi chiến tranh là phương tiện giải quyết tranh chấp quốc tế, và đổi lại, Hoa Kỳ bảo đảm an ninh cho Nhật Bản. Nhưng khi nước Nhật nổi lên thành một siêu cường kinh tế, thì Hoa Kỳ ngày càng gây sức ép đòi Nhật “chia sẻ gánh nặng” quốc phòng. Chiến tranh vùng Vịnh (1990-1991) là chất xúc tác lớn để nước Nhật thay đổi mục tiêu đối ngoại cũng như nền chính trị trong nước. Mặc dầu Nhật Bản đóng góp cho cuộc chiến tranh này 13 tỉ đôla, nhưng điều đó chẳng được Hoa Kỳ đánh giá cao. Nhật Bản bị các nước đồng minh của Mỹ chỉ trích gay gắt là chỉ đóng góp tiền bạc chứ không đóng góp người.
Điều đó gây ra tranh luận sôi nổi ở Nhật Bản về vai trò nước này nên giữ trong “Trật tự thế giới mới” với tư cách một cường quốc kinh tế lớn. Ngày 15/6/1992, Quốc hội Nhật Bản thông qua đạo luật về “Hợp tác trong các hoạt động gìn giữ hòa bình và các hoạt động khác của Liên hợp quốc”, đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại Nhật Bản. Nước này nhận thấy ngoài cải cách ra, cần phải gắn bó với Châu Á hơn nữa, và muốn đóng một vai trò hữu hiệu ở Châu Á, nước Nhật phải vứt bỏ hình ảnh mình chỉ là “cái đuôi” trong các chính sách  của Hoa Kỳ đối với khu vực.
Bước khởi đầu quan trọng theo chiều hướng này ở những năm đầu 1990 là vai trò nước Nhật trong việc giảm nhẹ sự căng thẳng giữa Trung Quốc với các nước khác sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Nhật Bản lập luận rằng sự kiện đó là công việc nội bộ của Trung Quốc. Đối với Nhật Bản thì Trung Quốc chẳng những là một láng giềng gần gũi, mà còn là một nước có khả năng gây ra cho Nhật Bản những vấn đề lớn về an ninh và kinh tế trong khu vực. Sự kiện Thiên An Môn là một cơ hội để Tokyo chứng tỏ với Bắc Kinh rằng mình là một người bạn đáng tin cậy.
Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và giới kinh doanh Nhật Bản đã sang thăm Trung Quốc, trong đó  Thủ tướng Toshiki Kaifu là nhà lãnh đạo đầu tiên của một nước công nghiệp lớn đến Bắc Kinh tháng 8/1991. Ở nhiều diễn đàn như cuộc họp của nhóm G-7, Nhật Bản cố gắng thuyết phục các nước phương Tây nên chấm dứt việc cô lập Trung Quốc. Một phần nhờ cố gắng của Nhật Bản mà hầu hết các nước, kể cả Mỹ, đều nhận thấy trừng phạt Trung Quốc là vô ích, và chẳng bao lâu, các nước đó khôi phục lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.
Chính sách Châu Á của Nhật Bản một phần đáng kể bị tầm cỡ ngày càng lớn của Trung Quốc trong khu vực tác động, duy trì quan hệ với Trung Quốc hệ trọng không kém quan hệ với Hoa Kỳ. Trong một bài diễn văn tháng 5/2005, nguyên Thủ tướng Kiichi Miyazawa đã nói: “Quan hệ với Hoa Kỳ dĩ nhiên quan trọng. Nhưng không kém quan trọng là nhìn Trung Quốc như thế nào”. Ở thập kỷ qua, Trung Quốc đã tăng cường quan hệ với các nước Đông Á và Đông Nam Á, tạo ra cơ chế để hợp tác kinh tế khu vực và ký hiệp định mậu dịch tự do với một số nước.
Năm 1997, lập trường Nhật Bản cũng khác lập trường của Hoa Kỳ đối với Myanmar. Nước Nhật không ủng hộ chính sách của Mỹ định cô lập Myanmar, mà tán thành chủ trương của ASEAN muốn đối thoại với nước này. Cũng phải nói rằng, quyết định của Nhật Bản, ở một mức độ nào đó, chịu ảnh hưởng lợi ích ngày càng to lớn của Trung Quốc trong khu vực. Tháng 3/1977, Trung Quốc thông báo cho Myanmar vay một khoản lớn, và ký với nước này một hiệp ước hợp tác kinh tế. Nhật Bản gắn mối quan tâm của Trung Quốc đến Myanmar với tham vọng của Bắc Kinh muốn vươn tới Ấn Độ Dương.
Trong trường hợp Việt Nam, Chính phủ Tokyo cũng đi đầu thiết lập quan hệ với Hà Nội, mặc dầu Mỹ cấm vận Việt Nam về kinh tế. Tại Campuchia, nước Nhật giữ một vai trò chủ chốt trong tiến trình hòa bình, nêu bật sự cam kết của Tokyo muốn đóng góp vào hòa bình và ổn định của khu vực. Như vậy, tầm quan trọng ngày càng tăng của Đông Nam Á là một nhân tố ảnh hưởng đến quyết định của Nhật Bản.
Mặc dầu nước Nhật ủng hộ cuộc chiến tranh do Mỹ cầm đầu ở Irăc năm 2003, nhưng cũng nhận thức được vai trò hạn chế của mình trong toàn bộ hoạt động, không giống như Anh và Úc, những nước chẳng những lớn tiếng ủng hộ chính sách của Hoa Kỳ, mà còn chia sẻ phí tổn và tham gia những cuộc hành quân thật sự. Trong một số trường hợp tương tự, Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng có cách giải quyết khác nhau, thí dụ không có cách nhìn giống nhau về vấn đề Iran.
Trong khi Mỹ ép Iran từ bỏ chương trình hạt nhân, và gọi Iran là một nước trong “trục ma quỷ”, thì Nhật Bản giúp Iran phát triển trữ lượng dầu lửa Azadegan. Nguyên bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản là Takeo Hiranuma dứt khoát tuyên bố rằng, dự án phát triển Adazegan là “một hiệp ước chính thức giữa thủ tướng lúc đó là Yoshiro Mori và Tổng thống Hatami, người dành cho Nhật Bản ưu tiên hàng đầu”. Tháng 2/2004, một thỏa thuận trị giá 2 triệu đôla ký kết với Iran được thông qua để Nhật Bản tiếp cận một trong những trữ lượng dầu lửa lớn nhất thế giới. Như vậy Nhật Bản có khả năng thắng sức ép ngoại giao của Mỹ trong trường hợp Iran.
Tuy nhiên, cố gắng của nước Nhật nhằm mở cho mình một đường lối ngoại giao độc lập không có nghĩa là nước đó có ý định phá hoại quan hệ với Hoa Kỳ. Năm 1977, hai nước đã nâng cấp các thỏa thuận về an ninh, mặc dầu Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác phản đối. Mục đích của người Nhật là làm cho nước Mỹ nhận thấy họ muốn đóng một vai trò lãnh đạo ở Châu Á, và Hoa Kỳ phải thừa nhận lợi ích và tầm quan trọng của họ trong khu vực này.
Đối thoại với Trung Quốc
Ở thập kỷ qua, Trung Quốc đã tăng cường quan hệ với các nước Đông Á và Đông Nam Á, đồng thời tìm cách vươn tới vịnh Bengal bằng cách tham gia kế hoạch xây dựng các phương tiện dò tìm hàng hải bằng điện tử của Myanmar ở vùng tiếp giáp quần đảo Andaman của Ấn Độ.
Giống như trường hợp Nhật Bản, 80%  dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua eo biển Malacca nên Trung Quốc muốn hợp tác với các nước khác để giữ gìn an ninh trong khu vực này, nhưng vai trò tích cực của Trung Quốc là mối lo âu lớn cho nước Nhật. Nguyên Tổng giám đốc Cục Phòng vệ Nhật Bản là Shigeru Ishiba đã nói rằng “Sự có mặt hải quân Trung Quốc tại Ấn Độ Dương là điều Nhật Bản rất không mong muốn, vì thế điều quan trọng đối với Nhật Bản là tăng cường quan hệ với Ấn Độ”. Trong chuyến thăm Ấn Độ, ông Shigeru Ishiba tuyên bố “Nhật Bản và Ấn Độ, hai láng giềng của Trung Quốc ở phía đông và phía tây, nên chú ý hơn đến các động thái của nước đó”.
Vì thế có nhiều điểm gai góc trong quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc có thể cản trở sự phát triển mối bang giao thân thiện. Một trở ngại là Nhật Bản chưa xin lỗi thích đáng về những hành động tàn ác mà quân đội nước đó đã phạm trong thời gian trước Đại chiến thứ hai. Thậm chí gần đây, giữa hai nước vẫn chưa có quan hệ hữu nghị, thí dụ như các cuộc biểu tình chống Nhật rầm rộ nổ ra khắp Trung Quốc trong gần hai tuần lễ tháng 4/2005 một lần nữa cho thấy mối ác cảm của người Trung Quốc đối với Nhật Bản. Những cuộc biểu tình đó được tổ chức chẳng những để lên án sự tàn bạo của Nhật Bản thời chiến, mà còn để phản kháng nỗ lực của nước này nhằm có một ghế trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Trước đấy, tháng 8/2004, sự thù ghét của nhiều người Trung Quốc đối với Nhật Bản đã bộc lộ khi đội bóng đá Trung Quốc thua đội Nhật Bản ở trận chung kết cúp Châu Á tại Bắc Kinh. Trong khi đó, một điểm gây tranh cãi giữa hai nước là vấn đề sách giáo khoa lịch sử dạy ở các trường học Nhật Bản. Phía Trung Quốc luôn luôn chỉ trích Nhật Bản không nhìn nhận đúng các sự kiện lịch sử trong sách này. Ngoài ra, Trung Quốc còn phản kháng Nhật Bản và Hoa Kỳ duy trì quan hệ mật thiết với Đài Loan mặc dầu đã công nhận Bắc Kinh là chính phủ duy nhất hợp pháp. Trung Quốc tin chắc rằng cả Nhật Bản và Hoa Kỳ đều muốn ngăn cản sự thống nhất của đất nước mình. Cộng thêm với những điểm xung đột đó là việc tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước, vì cả Nhật Bản và Trung Quốc đều khẳng định quần đảo Senkaku là của mình.
Trong không khí nghi kỵ đó, cuộc viếng thăm đền Yakasuni hàng năm các nhà lãnh đạo Nhật Bản trong những năm trước đây là một vấn đề nhạy cảm có xu hướng gây căng thẳng giữa hai nước, vì trong số binh sĩ chết trận được thờ ở đây có cả 14 tội phạm chiến tranh loại A đã bị hành quyết. Ông Junichiro Koizumi tới thăm đền này đều đặn từ lúc ông được bầu làm thủ tướng năm 2001. Trong khi đó, nhiều sự kiện được tổ chức để kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, nhưng Thủ tướng Koizumi không đến Trung Quốc dự một cuộc họp thượng đỉnh, hình như ông không hề thay đổi quan điểm ngay cả sau khi nổ ra các cuộc biểu tình lớn ở nhiều nơi tại Trung Quốc.
Tại cuộc họp của Ủy ban Ngân sách Hạ viện ngày 16/4/2005, ông đề nghị các láng giềng Châu Á “chớ can thiệp” vào công việc nội bộ Nhật Bản bằng cách chỉ trích ông đến thăm đền Yasukuni. Ông khẳng định rằng “mọi nước đều thương xót những người tử nạn trong chiến tranh, các nước khác không nên can thiệp vào cách thương xót”. Thế là ngày 23/5/2005, Phó thủ tướng Trung Quốc là bà Ngô Nghi hủy bỏ cuộc hẹn gặp Thủ tướng Koizumi và trở về Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc xác nhận rằng sở dĩ bà Ngô Nghi làm như vậy là do những lời tuyên bố của Thủ tướng Koizumi về các cuộc viếng thăm Yasukuni.
Một lần nữa, cuộc tranh cãi lại diễn ra về các chuyến thăm đền của ông Koizumi. Lần ấy, ông lập luận rằng trách nhiệm của tội phạm chiến tranh là một vấn đề đã được các tòa án chiến tranh giải quyết, và phụ họa với Koizumi, một quan chức cao cấp là Masahiro Morioka tuyên bố rằng 14 người lãnh đạo chiến tranh sẽ không bị đối xử là tội phạm ở nước Nhật. Bằng cách giữ một lập trường cứng rắn về vấn đề này, cựu Thủ tướng Koizumi muốn truyền đạt một thông điệp rằng, Nhật Bản sẽ không khuất phục ý muốn của nước khác. Như vậy, giống như ở trường hợp quan hệ với Hoa Kỳ, nước Nhật muốn củng cố quan hệ với Trung Quốc nhưng đồng thời lại muốn tự khẳng định mình khi nào cần. Hình như những điểm gai góc đó ngày càng làm cho Nhật Bản thấy cần phải thiết lập quan hệ với những quốc gia Châu Á khác như Ấn Độ.
Mâu thuẫn giữa Tokyo và Bắc Kinh có thể tăng thêm trong tương lai, trong đó có cuộc cạnh tranh tìm kiếm nguồn cung cấp dầu lửa. Một số kết quả ước tính cho thấy dầu lửa nhập khẩu có thể chiếm hơn một nửa số dầu thô Trung Quốc tiêu thụ năm 2007, và vượt con số của Nhật Bản năm 2008. Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế năm 2003, thì Trung Quốc đã tiêu thụ số dầu lửa gần bằng Nhật Bản. Nhiều thỏa thuận quan trọng đã được ký kết giữa Trung Quốc với Nga và một số nước Trung Á như Kazakhstan, và Trung Quốc thấy cần phải bảo đảm nguồn cung cấp dầu lửa đều đặn cho nền kinh tế ngày càng lớn của mình.
Do chính mình cũng có nhu cầu ngày càng tăng về dầu lửa, nên Trung Quốc gần đây đã ngừng xuất khẩu dầu sang Nhật Bản từ các giếng dầu ở tỉnh Hắc Long Giang sau khi Nhật Bản không đồng ý tăng giá. Cuộc cạnh tranh về nguồn cung cấp năng lượng có thể mạnh thêm trong tương lai, và như vậy, một điểm lớn trong chiến lược đối ngoại của Nhật Bản là tăng cường quan hệ với các láng giềng khác, kể cả Nga và các nước cộng hòa Trung Á.
Trái với sự “thiếu tin cậy và hữu nghị” trong quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Trung Quốc ngày càng sâu sắc. Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên viện trợ cho Trung Quốc sau khi nước này thông qua chương trình hiện đại hóa kinh tế năm 1978. Các khoản cho vay mà Trung Quốc nhận được của Nhật Bản trong thời kỳ 1976-1996 tổng cộng lên tới 1.851.384 tỉ yên. Nhật Bản còn giúp Trung Quốc xây dựng một nhà máy luyện thép, hai dự án hóa dầu, và hoàn thành nhiều dự án cơ sở hạ tầng khác. Ngoài ra, Trung Quốc nhận được sự hợp tác kỹ thuật trị giá 2.028.397 tỉ yên từ năm 1972 tới 1995. Sự giúp đỡ tài chính cũng được thực hiện dưới dạng cho vay dài hạn và ngắn hạn thông qua các ngân hàng thương mại.
Tuy sự giúp đỡ kinh tế của Nhật Bản cho Trung Quốc còn bé nhỏ so với toàn bộ nhu cầu của Trung Quốc, nhưng đó vẫn là một đóng góp mà Trung Quốc thừa nhận. Sự giúp đỡ tài chính của Nhật Bản chẳng những góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế của Trung Quốc, mà còn giúp tiếp tục một cuộc đối thoại đều đặn và thiết lập “quan hệ xây dựng”. Nhưng từ mấy năm gần đây, Nhật Bản đã xem xét lại ODA cho Trung Quốc, vì có một cảm giác ở Nhật Bản là nước Trung Hoa, với đà tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sức mạnh quân sự, không cần đến viện trợ của Nhật Bản nữa. Kết quả là, Nhật Bản trù tính giảm viện trợ cho Trung Quốc từng giai đoạn và kết thúc hoàn toàn năm 2008. Ấn Độ nhanh chóng thế chân Trung Quốc là nước được Nhật Bản viện trợ nhiều nhất. Năm 2004, Ấn Độ trở thành nước nhận ODA lớn nhất của Nhật Bản. So với Trung Quốc, quan hệ kinh tế của Nhật Bản với Ấn Độ không đáng kể, nhưng rõ ràng Ấn Độ được coi trọng hơn vì lý do chiến lược và chính trị.
Cuối những năm 1980, đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc tăng lên nhiều. Trước đấy, đã có sự chống đối mạnh mẽ việc Nhật Bản đầu tư vào nước này, nhưng dần dần Trung Quốc nhận thức được những cái lợi của việc thu hút đầu tư, và thay đổi luật lệ. Các nhà đầu tư Nhật Bản được đối xử đặc biệt, nhưng cũng phải thấy rằng, so với các nước khác, thì phần của Nhật Bản trong tổng số vốn đầu tư vào Trung Quốc chưa nhiều. Trung Quốc chỉ chiếm 6 hoặc 7% tổng số vốn đầu tư của Nhật Bản trên toàn thế giới. Từ năm 1985 đến 2002, đầu tư của Nhật Bản ở các nước ASEAN lớn hơn tại Trung Quốc 3,5 lần.
Thương mại có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của quan hệ kinh tế giữa hai nước. Năm 2001, thương mại giữa hai nước lên đến khoảng 89 tỉ đôla, và năm 2005, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản, thay thế Hoa Kỳ. Theo số liệu của Bộ Tài chính Nhật Bản, thì hàng hóa của Nhật Bản xuất khẩu sang Trung Quốc và nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá 22,48 nghìn tỉ yên năm 2004. Đối với Trung Quốc, thì Nhật Bản cũng là đối tác buôn bán hàng đầu. Cả hai nước đều lập những cơ chế để mở rộng buôn bán cũng như để giải quyết những tranh chấp liên quan đến thương mại một cách thân thiện.
Cả hai bên đều cố gắng duy trì quan hệ tốt và thăm dò những lĩnh vực hợp tác mới. Các mối ràng buộc kinh tế góp phần thắt chặt quan hệ đến một mức độ mà cả hai đều phụ thuộc nhau. Nhưng một số thay đổi trong nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản đã biểu hiện sau các cuộc biểu tình chống Nhật tháng 4/2005, họ bắt đầu tìm những đối tác khác để thay thế Trung Quốc, trong đó một quốc gia họ nhắm tới là Ấn Độ. Nước này nhanh chóng trở thành trọng tâm chú ý của cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản từ lúc diễn đàn doanh nghiệp Nhật Bản-Ấn Độ được tổ chức ở Tokyo cuối tháng 4/2005. Một đại biểu Nhật Bản tại diễn đàn nói rằng, các cuộc biểu tình chống Nhật ở Trung Quốc đã cung cấp một cơ hội để thúc đẩy quan hệ đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Ấn Độ. Mối quan tâm này được đẩy mạnh thêm khi có những tiên đoán rằng Ấn Độ sẽ nổi lên thành một cường quốc kinh tế lớn trong một hai thập kỷ.
Quan hệ giữa Nhật Bản với Đông Nam Á và Bán đảo Triều Tiên
Trong thập kỷ qua, Nhật Bản không phải chỉ quan tâm đến Đông Nam Á trong lĩnh vực kinh tế. Ở khu vực này, ký ức về sự tàn bạo của quân phiệt Nhật vẫn chưa phai mờ, nhưng nó không ngăn cản quan hệ phát triển. Đầu những năm 1970, thái độ chống Nhật đã lên đến đỉnh điểm, năm 1974 lúc phong trào chống Nhật sôi nổi bao trùm khu vực, nhưng sau đấy, ý thức chống Nhật trong khu vực không mạnh như ở Trung Quốc và Hàn Quốc.
Sau khi học thuyết Fukuda được công bố năm 1977, quan hệ tích cực giữa Nhật Bản với các nước Đông Nam Á, cụ thể là với khối ASEAN, đã có đà phát triển. Nhật Bản vừa muốn đóng một vai trò chính trị, vừa quan tâm đến khu vực này về kinh tế, đồng thời chú ý tới tham vọng ngày càng lớn của Trung Quốc tại Đông Nam Á. Quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với các nước Đông Nam Á phát triển nhanh chóng trong hai thập kỷ qua. Năm 2002, khối lượng buôn bán của Nhật Bản với ASEAN đạt mức 13,4 nghìn tỉ yên, ASEAN cũng là khu vực nhận được viện trợ và đầu tư nhiều nhất. Tổng vốn đầu tư của Nhật Bản ở Đông Á và Đông Nam Á là 6,8 nghìn tỉ yên, trong đó 3,9 nghìn tỉ hay 57,1% ở các nước ASEAN và khoảng 21,5%  ở Trung Quốc.
Về  ODA, trong tổng số 7,5 tỉ đôla ở năm tài chính 2001, các nước ASEAN nhận được 2,1 tỉ đôla, trở thành khu vực được ưu tiên hàng đầu. Như vậy, ASEAN có tầm quan trọng lớn đối với Nhật Bản, cũng như Nhật Bản quan trọng đối với ASEAN. Nhưng đồng thời, quan hệ kinh tế giữa ASEAN với Trung Quốc cũng tăng đáng kể trong thập kỷ qua. ASEAN hiểu rõ là Trung Quốc, với đà tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và là thành viên WTO, thế nào cũng nổi lên thành một siêu cường kinh tế trong tương lai gần, do đấy ASEAN chú trọng duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc. Và trong khi giữ quan hệ tốt với Trung Quốc, ASEAN cũng muốn phát triển mối liên hệ mật thiết với những nước khác như Nhật Bản để đối trọng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Bắc Kinh tại Đông Nam Á.
Năm 1997-1998, cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra ở Đông Nam Á, nước Nhật có cơ hội để đóng một vai trò chính trị tích cực. Để giải quyết những hậu quả của khủng hoảng một sự  kiện đã khiến tầm cỡ của Nhật Bản được nâng cao, là sự thành lập nhóm ASEAN+3. Ngày 14/12/1997, Chủ tịch Giang Trạch Dân của Trung Quốc, Thủ tướng Nhật Bản là Keizo Obuchi và Tổng thống Kim Young Sam của Hàn Quốc được mời dự cuộc họp thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo ASEAN. Tuy lý do cuộc họp là để kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ASEAN, nhưng thực ra để bàn những vấn đề mà khu vực phải đương đầu sau cuộc khủng hoảng tài chính, yêu cầu khu vực phải hợp tác mạnh hơn.
ASEAN+3 chứng tỏ rằng các nước Đông Á và Đông Nam Á chẳng những sẵn sàng chấp nhận Nhật Bản làm đối tác, mà còn công nhận nước này đã có một vai trò trong việc ổn định hóa môi trường kinh tế, chính trị và chiến lược ở khu vực. Nhật Bản đồng ý thương lượng về mậu dịch tự do với tất cả các nước ASEAN vào năm 2005 và thực hiện thỏa thuận vào năm 2012. Nhật Bản còn góp khoảng 80 tỉ đôla để giải quyết khủng hoảng tài chính, và đề nghị lập Quỹ Tiền Tệ Châu Á để chống lại những dao động quá mạnh của tiền tệ. Nhật Bản cũng sẵn sàng cung cấp một nửa quỹ dự trữ 100 tỉ đôla trong tương lai, còn một nửa do các nước Châu Á khác đóng góp. Tuy đề nghị đó không thể thực hiện vì không được Hoa Kỳ và Quỹ Tiền tệ Quốc tế ủng hộ, nhưng nó chứng tỏ Nhật Bản nhiệt tình đóng một vai trò tích cực ở khu vực.
Điều quan trọng hơn là, ASEAN giúp các nước trong khu vực phát  triển một cơ chế đối thoại và hợp tác đa phương ở một số lớn lĩnh vực. Như vậy, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998, các nước nhận thấy rằng, họ có thể dựa vào nhau trong cơn khủng hoảng tài chính nhiều hơn trông cậy ở các thiết chế quốc tế như Ngân hàng Thế giới hoặc Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Nhật Bản hiện giờ cố gắng duy trì và nâng cao vai trò xuất sắc mà mình giành được ở Đông Nam Á.
Ý định của Nhật Bản là sử dụng ASEAN+3 để thực hiện mục tiêu đóng một vai trò lãnh đạo trong tương lai. Ý định đó đã bộc lộ rõ trong chuyến công du của Thủ tướng Koizumi ở năm nước ASEAN là Philippines, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, và Singapore tháng 1/2002. Trong một bài diễn văn quan trọng về chính sách đọc tại Singapore, ông nói rõ các lĩnh vực hợp tác không phải chỉ giới hạn ở tự do hóa thương mại và đầu tư. Đề nghị của ông bao gồm giáo dục, hợp tác phát triển nguồn nhân lực, sáng kiến về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản-ASEAN nhằm tăng cường hợp tác trong nhiều lĩnh vực.
Kết luận
Tuy trọng tâm chính sách Châu Á của Nhật Bản là tăng cường quan hệ với các nước Đông Á và Đông Nam Á, nhưng tình hình quốc tế thay đổi sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc buộc Nhật Bản phải xác định lại chính sách đối với Nam Á và Trung Á. Ngoài Ấn Độ là nước mà Nhật Bản nhiệt tình phát triển quan hệ, người Nhật còn từng bước khôi phục quan hệ với Trung Á và các quốc gia Châu Á khác phong phú dầu lửa và tài nguyên thiên nhiên. Người Nhật Bản nhận thấy rằng, chính sách Châu Á của họ phải bao gồm nhiều nước hơn để họ có thể cân bằng quan hệ dễ thay đổi của mình với các láng giềng Châu Á và Hoa Kỳ, như thế họ có thể gây ảnh hưởng lớn trong những năm tới ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

ĐỖ TRỌNG QUANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Asahi Shimbun, 8/1/2004.
2. Asahi Shimbu, 18/4/2005.
3. The Journal Pacific Asia, vol.1.
4.International Herald Shimbun, 6/4/2005.
5.Far Eastern Economic Review, 4/4/2005.

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐÔNG NAM Á CỦA NHẬT BẢN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI BA NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG GIAI ĐOẠN SAU CHIẾN TRANH LẠNH


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐÔNG NAM Á CỦA NHẬT BẢN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI BA NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG GIAI ĐOẠN SAU CHIẾN TRANH LẠNH


Chiến tranh Lạnh kết thúc, thế giới có những biến động sâu sắc, tất cả các quốc gia, dân tộc, nhất là các cường quốc lớn, trong đó có Nhật Bản đã điều chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại của mình phù hợp với tình hình mới của quốc tế và khu vực, đáp ứng lợi ích cao nhất của mỗi nước. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Châu Á nói chung, Đông Nam Á nói riêng có nhiều tầng, nấc, tầng bậc theo những thời điểm lịch sử khác nhau, có tác động lớn đến các nước Đông Nam Á, nhất là các nước Đông Dương. Bài viết nghiên cứu sự thay đổi chính sách đối ngoại Châu Á - Đông Nam Á của Nhật Bản từ chú trọng kinh tế là chủ yếu sang quan tâm cả kinh tế lẫn chính trị. Mục tiêu của Nhật Bản là mở rộng từ cường quốc kinh tế sang cường quốc chính trị, tìm kiếm cho mình một vị thế mới trong hàng ngũ các cường quốc hàng đầu trên chính trường quốc tế trên cơ sở phát huy có hiệu quả chính sách đối ngoại ở khu vực.
Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh Lạnh đã thể hiện sự quan tâm nhiều hơn của quốc gia này đối với Châu Á, nhất là Đông Nam Á. Cùng với nhiều nhân tố khác nữa đã tác động mạnh đến khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia trên các lĩnh vực hoà bình, an ninh chính trị, phát triển kinh tế, thương mại... mang lại lợi ích to lớn cho  ba nước ở Đông Dương.
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực sau khi Chiến  tranh Lạnh kết thúc
Chiến tranh Lạnh kết thúc, trật tự hai cực của Ianta sụp đổ, một trật tự thế giới mới đang được hình thành. Ảnh hưởng của Mỹ đối với các nước đồng minh cũng bị suy giảm. Các nước lớn đều muốn khẳng định vai trò, độc lập trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Sau những biến đổi sâu sắc của cục diện thế giới, tất cả các quốc gia, nhất là các nước lớn, trong đó có Nhật Bản đều điều chỉnh lại chính sách  đối ngoại của mình cho phù hợp với xu thế mới. Trong xu thế phát triển mới hiện nay, kinh tế đóng vai trò hàng đầu, thì một cường quốc kinh tế như Nhật Bản cũng có điều kiện thuận lợi để thể hiện vai trò chính trị của mình trên thế giới. Chủ trương của Nhật Bản là dùng kinh tế để vươn lên về chính trị và từ vị thế chính trị mới sẽ tạo điều kiện hơn nữa đẩy mạnh tiềm lực kinh tế quốc gia. "Nhật Bản có thể sử dụng sức mạnh kinh tế - khoa học kỹ thuật như là công cụ để giành lấy vai trò chính trị an ninh rộng mở  hơn. Đó là yếu tố thúc đẩy Nhật Bản điều chỉnh chính sách an ninh để đảm bảo lợi ích kinh tế ngày càng tăng ở khu vực và trên thế giới".(1)
Trước những biến cố lớn quốc tế của thế giới như đã trình bày ở trên, vào những năm 90, Châu Á - Thái Bình Dương đã nổi lên như một khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Các nước Đông Nam Á, trong đó có các nước Đông Dương vẫn duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao, có những biến đổi lớn lao trong phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, trong ổn định an ninh chính trị, trở thành trọng điểm trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản mặc dù vẫn được coi là cường quốc kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ nhưng đất nước gặp nhiều khó khăn cả về kinh tế lẫn chính trị. Địa vị của Nhật Bản ở khu vực tuy có cao hơn trước nhưng đang bị thách thức bởi nhiều yếu tố, trong đó đáng chú ý nhất là Nhật Bản đang tiến hành cải cách kinh tế và phải đối mặt với Trung Quốc, Ấn Độ là những cường quốc lớn đang phát triển mạnh về kinh tế, vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên và nước Nga đang có tiềm lực rất lớn về mọi mặt. Trong bối cảnh như vậy, Nhật Bản sẽ không thể thay đổi được lập trường thân Mỹ của mình. Nhật Bản đang thực hiện chính sách ngoại giao đa phương song nền tảng trụ cột của chính sách đối ngoại Nhật Bản vẫn tiếp tục là chính sách thân Mỹ. Tuy nhiên, trong bối cảnh  quốc tế đầy biến động, Nhật Bản cũng đang tìm kiếm cho mình một vị thế mới tích cực mở rộng từ cường quốc kinh tế sang cường quốc chính trị và đứng vào hàng ngũ các cường quốc hàng đầu giải quyết các vấn đề chính trị toàn cầu và khu vực. Nhật Bản muốn tăng cường hơn nữa vai trò của mình ở Đông Nam Á (vốn là thị trường truyền thống của Nhật Bản), trong đó quan tâm đến Đông Dương và Châu Á nói chung, cạnh tranh với Mỹ, Châu Âu và Trung Quốc tại thị trường này. Nhật Bản cũng muốn giành vai trò chủ đạo trong đối thoại an ninh và xây dựng cơ chế an ninh khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế kinh tế mở của khu vực ngày càng phát triển.(2)
2. Điều chỉnh chính sách đối ngoại Đông Nam Á của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh
Dựa vào nền tảng kinh tế mạnh của mình, sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản đã từng bước điều chỉnh chính sách đối ngoại hết sức khôn khéo, mềm dẻo, nhằm xây dựng một vị thế vững mạnh, độc lập và toàn diện hơn trên trường quốc tế.
Về cơ bản, nội dung điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc, bao gồm các điểm sau đây:
- Tăng cường vai trò của Nhật Bản trong quan hệ với Mỹ, tìm kiếm vị thế độc lập hơn trong giải quyết các vấn đề quốc tế nhưng vẫn coi liên minh chiến lược Mỹ - Nhật là trụ cột trong chính sách an ninh của mỗi bên. Hợp tác chặt chẽ hơn trong liên minh Mỹ - Nhật đã được cả phía Mỹ và Nhật Bản tái khẳng định qua nhiều hiệp ước với mốc lịch sử khác nhau như vào tháng 1/1992, tháng 7/1996, năm 1997... Đặc biệt, hai bên đã phải thực hiện mục đích của "Tuyên bố về đảm bảo an ninh thế kỷ XXI" (tháng 7/1996). Bản “Tuyên bố chung” một lần nữa tiếp tục khẳng định quan hệ an ninh Mỹ - Nhật vẫn là trụ cột trong chính sách  an ninh của mỗi bên ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhằm đạt được những mục đích an ninh chung và đã đưa quan hệ song phương Mỹ - Nhật bước vào một giai đoạn mới. Những hiệp ước trong quan hệ hai nước được điều chỉnh sau Chiến tranh Lạnh đều thừa nhận Nhật Bản ở tư thế bình đẳng hơn "cùng với Mỹ có trách nhiệm lãnh đạo thế giới"(3). Hai bên còn khẳng định cần tham khảo ý kiến một cách chặt chẽ trong chính sách phòng thủ quân sự và cả các vấn đề chung của toàn cầu. Đây chính là cơ sở để Nhật Bản mở rộng phạm vi, chức năng phát triển lực lượng quân sự lên một bước mới, là cơ sở để Nhật Bản đưa quân đội ra nước ngoài.
Sau sự kiện 11/09/2001, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua những đạo luật mới liên quan đến việc sửa đổi Điều 9 của Hiến pháp hoà bình và cải tổ Cục phòng vệ thành Bộ Quốc phòng. Đây là những cơ hội cho Nhật Bản độc lập hơn trong giải quyết các vấn đề an ninh thế giới và là cơ sở để Nhật Bản nâng cao tiềm lực quân sự, chuyển từ "phòng thủ" sang "tấn công và phòng thủ". Sự có đi có lại trong quan hệ Nhật - Mỹ là rất rõ ràng. Nhật Bản ngày càng chứng tỏ là đồng minh tin cậy của Mỹ thông qua các hoạt động chống khủng bố của Mỹ và hàng loạt các bước đi đã nói ở trên. Còn Mỹ thì tuyên bố ủng hộ Nhật Bản trở thành uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Tạo ra khu vực kinh tế mở, năng động trên cơ sở phát triển kinh tế là cơ sở cho ổn định chính trị xã hội, mở rộng hợp tác và liên kết kinh tế của khu vực.
Trong xu thế quốc tế mới, nhân tố kinh tế được các nước đưa lên hàng đầu, lợi ích kinh tế trở thành nhân tố chi phối có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước, đồng thời phát triển kinh tế sẽ tạo ra sự ổn định chính trị, mở rộng hợp tác quốc tế. Nhân tố kinh tế ngày càng chiếm vị thế quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia. Chính sách đối ngoại của mỗi bên đều nhằm phục vụ cho đường lối phát triển kinh tế trong điều kiện ngày càng phụ thuộc vào nhau trong kỷ nguyên khoa học và công nghệ hiện đại.
Cùng với nhu cầu phát triển kinh tế mạnh mẽ, xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá, phát triển kinh tế thị trường cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, có tác động to lớn đến tất cả các cộng đồng quốc gia. Sự xuất hiện của các hình thức liên kết kinh tế mở, của các khu vực mậu dịch tự do thương mại như NAFTA (North America Free Trade Area), AFTA (ASEAN Free Trade Area)... ngày càng nhiều, tất yếu  dẫn đến tự do hoá toàn cầu. Ở Đông Nam Á, các tổ chức liên kết kinh tế mở xuất hiện ngày càng nhiều như ASEAN+3, ASEAN+6, liên kết kinh tế Đông Á, khu vực tiểu vùng sông Mê Kông... đã mở ra khả năng phát triển nền kinh tế năng động, mang lại lợi ích cho khu vực và các nước đối tác.
Bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh Lạnh đã có tác động mạnh mẽ đến các cường quốc lớn trong khu vực (trong đó có Nhật Bản), cũng như các quốc gia khác ở Đông Nam Á. Cả Nhật Bản (quốc gia có thị trường truyền thống ở Đông Nam Á) lẫn các nước trong khu vực đều nhận thức được việc cần thiết phải xây dựng Đông Nam Á, nhất là các nước Đông Dương thành khu vực hoà bình, ổn định vững chắc. Với sự hợp tác chặt chẽ trong mọi lĩnh vực nhằm tạo dựng một Đông Nam Á mới với tiếng nói trọng lượng trên trường quốc tế. Thực hiện những mục tiêu trên, Nhật Bản đã thực thi chính sách quay trở lại Châu Á là đối tác kinh tế quan trọng của Nhật Bản. Điều này được thể hiện rõ trong đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào châu Á. Từ tháng 3/1994 đến tháng 3/1995 đã tăng tốc độ kỷ lục 47% so với 11%  tổng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ra nước ngoài trong cùng năm đó(4). Vì vậy, việc điều chỉnh  chính sách đối ngoại đối với khu vực Đông Nam Á, trong đó có các nước Đông Dương nhằm tạo ra sự phát triển kinh tế, ổn định khu vực, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước Đông Dương cũng nằm trong chiến lược chung nhằm đáp ứng lợi ích cao nhất của Nhật Bản.
Nhật Bản đang cố gắng nỗ lực trên mọi lĩnh vực như là một nước đứng đầu đang có ảnh hưởng lớn trong khu vực. Khi mà Mỹ đã giảm sút vai trò của mình ở Châu Á, nước Nga gặp nhiều vấn đề cần giải quyết thì đây là cơ hội cho các nước lớn như Nhật Bản và Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của mình. Việc cạnh tranh khốc liệt vị trí dẫn đầu sẽ là của nước nào? Đây vẫn còn là một vấn đề chưa được ngã ngũ. Vì thế việc mở rộng quan hệ Đông Nam Á, trong đó có ba nước Đông Dương cũng chính là yêu cầu cần thiết để tìm kiếm lợi ích và vị thế nói trên.
Thực ra Nhật Bản đã quan tâm tới Đông Nam Á ngay từ những năm sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc. Đặc biệt với học thuyết Fukuda (1977), lần đầu tiên Nhật Bản đã thể hiện chính sách đối ngoại của mình ở khu vực Đông Nam Á. Đây có thể xem là một cố gắng của Nhật Bản để làm rõ ý đồ và vai trò của mình ở Đông Nam Á. Học thuyết Fukuda và khoản cho vay bằng đồng Yên(5) thể hiện sự cam kết của Nhật Bản đối với sự phồn vinh và ổn định của Đông Nam Á. Tuyên bố này đã tạo nên khuôn khổ để Nhật Bản can dự vào nền chính trị khu vực Đông Nam Á và Nhật Bản muốn làm chất xúc tác tạo cầu nối giữa Đông Dương và các nước ASEAN, mở đường cho việc tăng cường các mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau với các nước Đông Dương góp phần vào việc xây dựng hoà bình và thịnh vượng trên toàn khu vực Đông Nam Á. Với sự xuất hiện thuyết Fukuda đã cho thấy Nhật Bản sớm nhận ra vị trí quan trọng của Đông Nam Á và muốn quay trở lại vị thế của mình tại miền đất có nhiều hứa hẹn. Học thuyết Fukuda là nhân tố cơ bản của chính sách đối ngoại của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á. Nhiều đời thủ tướng sau đó như: Anbe, Kuramarisi, Kaifu … cơ bản đều thực hiện tư tưởng của học thuyết Fukuda về Đông Nam Á.
Trước những biến đổi sâu sắc của tình hình quốc tế và khu vực sau Chiến tranh Lạnh, lần đầu tiên cho phép Nhật Bản điều chỉnh chính sách đối ngoại Đông Nam Á của mình nhằm thích ứng với những đổi thay của tình hình mới và bảo vệ lợi ích sống còn của Nhật Bản. Trong chuyến thăm các nước ASEAN, tháng 4/1991 của Thủ tướng Kaifu tại Singapore đã phát biểu: "Cam kết không trở thành cường quốc quân sự, Nhật Bản sẽ đóng góp tích cực hơn trong các vấn đề chính trị Châu Á - Thái Bình Dương, tham gia giải quyết các vấn đề Cămpuchia, tăng cường sự hợp tác khu vực thông qua đầu tư chuyển giao công nghệ, chương trình viện trợ chính thức ODA đóng vai trò thúc đẩy hợp tác để các  nước  ASEAN và  Đông Dương cùng phát triển và trở thành bạn hàng tốt của nhau"(6). Thủ tướng Kichi Miyazawa cũng tiếp tục phát triển hơn nữa đường lối đối ngoại chú trọng đến Đông Dương  và cũng đã khẳng định "Nhật Bản sẽ triển khai chính sách  ngoại giao kinh tế với các nước Châu Á và đặt trọng tâm vào Châu Á - Thái Bình Dương, coi Đông Nam Á có vị trí đặc biệt". Trên cơ sở đó Thủ tướng Nhật Bản Miyazawa trong chuyến thăm chính thức các nước ASEAN tháng 1/1993 đã tuyên bố:
- "Thứ nhất, trên cơ sở một tầm nhìn lâu dài về an ninh Đông Nam Á, Nhật Bản chủ trương cùng các nước khu vực tập trung hợp tác ổn định tình hình khu vực, thiết lập trật tự an ninh và bảo vệ hoà bình ở khu vực.
- Thứ hai, Nhật Bản kêu gọi hợp tác, phối hợp chặt chẽ với ASEAN để tái thiết Đông Dương, xác lập diễn đàn toàn diện Đông Dương".(7)
Nội dung cơ bản của sự điều chỉnh trên chứng tỏ Nhật Bản muốn đẩy cao thêm một bước nữa trong quan hệ với thị trường truyền thống Đông Nam Á, nhất là Đông Dương. Đặc biệt chú trọng đến nhân tố đảm bảo an ninh, ổn định chính trị trong khu vực là yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế. Để thực hiện mục đích trên, Nhật Bản sẽ đóng vai trò cầu nối trong việc giải quyết các vấn đề giữa ASEAN và Đông Dương.
Nhằm chủ động trong cuộc chạy đua mở rộng ảnh hưởng về quyền lực kinh tế và chính trị tại Đông Nam Á với các cường quốc khác, Nhật Bản lại điều chỉnh chính sách đối ngoại của họ ở khu vực này. Trong bài diễn văn đọc tại Singapore ngày 14/01/1997, Thủ tướng Hashimoto điều chỉnh thêm một bước chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam Á với những đường nét mới, cụ thể có ba vấn đề sau:
- Thúc đẩy, nỗ lực mạnh mẽ hơn các quan hệ hợp tác với các nước ASEAN về kinh tế, thương mại và đầu tư phát triển.
- Xúc tiến, tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực an ninh chính trị và văn hoá.
- Thể hiện rõ nét một đường lối đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam Á trong tình hình mới. "Kế thừa chính sách ngoại giao trước đây của Nhật Bản, phát triển hơn nữa với các nước trong khu vực Đông Nam Á theo quan điểm học thuyết Fukuda".(8)
Nội dung điều chỉnh lần này cho thấy Nhật Bản muốn thông qua hợp tác ASEAN để nâng cao hơn nữa vai trò chính trị của mình. Mặt khác, Nhật Bản khẳng định và nâng cao hơn một bước việc coi trọng Đông Nam Á như là một đối tác quan trọng về chính trị ở khu vực. Mặc dù còn khó khăn  do phải đối mặt với suy thoái kinh tế nhưng Nhật Bản vẫn tích cực đóng góp và hỗ trợ lớn cho các nền kinh tế khu vực Đông Nam Á và khắc phục được cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Tháng 12/1998, Thủ tướng Nhật Bản Kobuchi đã tuyên bố đường lối đối ngoại Đông Nam Á mới của mình với sự quan tâm toàn diện và sâu sắc hơn. Học thuyết của Kobuchi không chỉ đặt vấn đề quan trọng trong lĩnh vực quan hệ kinh tế mà còn đề cập đến mối quan tâm với Đông Nam Á cả về yếu tố văn hoá, xã hội và an ninh con người.
Đặc biệt sau sự kiện nước Mỹ bị khủng bố 11/09/2001, Nhật Bản cũng đẩy mạnh và giành ưu tiên cho khu vực Châu Á, nhất là Đông Á, trong đó có các nước ASEAN. Vì Nhật Bản thấy rõ nếu mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với Đông Á thì thị trường này sẽ là nơi tạo ra nguồn cung và nguồn cầu to lớn cho Nhật Bản đối với các loại hàng hoá và công nghệ cao. Mặt khác, Đông Á có nền kinh tế năng động sẽ góp phần tác động với ASEAN tạo thị trường rộng lớn quan trọng cho Nhật Bản, giúp Nhật Bản thực hiện có hiệu quả, thành công nhất tư tưởng của học thuyết Fukuda. Trong chuyến đi thăm các nước ASEAN tháng 1/2002, Thủ tướng Nhật Bản Koizumi đã đưa ra 5 sáng kiến nhằm mở rộng phạm vi hợp tác ở Đông Á. Một trong những sáng kiến đó là việc tổ chức Hội nghị Bộ trưởng ASEAN+3 (về sáng kiến phát triển Đông Á) (Initiative for Development in East Asia - IDEA) đã được thực hiện ở Tokyo vào tháng 8/2002. Tại cuộc gặp này, Thủ tướng Nhật Bản đã nhấn mạnh đến vai trò của viện trợ phát triển chính thức ODA như là một cơ sở để tăng trưởng kinh tế thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện phát triển "tập trung vào con người" bắt đầu từ giáo dục. Mặc dù đang gặp khó khăn về  kinh tế nhưng chính phủ Nhật Bản vẫn cam kết sẽ tiếp tục tích cực giúp đỡ các nước Đông Á thông qua viện trợ. Như vậy, có thể thấy Nhật Bản đang đóng vai trò tích cực trong tiến trình phát triển ASEAN+3 và thể hiện ý muốn trở thành đầu tàu về hợp tác khu vực Đông Nam Á.
3. Ảnh hưởng của việc điều chỉnh chính sách đối ngoại Châu Á, Đông Nam Á của Nhật Bản đối với ba nước Đông Dương
Sự thay đổi chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam Á như đã trình bày ở trên có ảnh hưởng lớn đến các nước ASEAN nhất là các nước Đông Dương. Cụ thể trong các vấn đề sau đây:
Tạo ra một môi trường hoà bình, an ninh ở Đông Nam Á thông qua việc giải quyết các vấn đề bằng đối thoại, hợp tác, hoà bình là cơ sở cho các quốc gia, dân tộc phát triển.
Theo quan niệm của các nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Nhật Bản thì việc Nhật Bản thực thi chính sách củng cố quan hệ với Mỹ là họ muốn cùng Mỹ và dựa vào ảnh hưởng của Mỹ để duy trì và giữ lại sự cân bằng về chiến lược an ninh khu vực. Tuy nhiên, Nhật Bản đã thể hiện tính độc lập hơn trong quan hệ với Mỹ để giải quyết các vấn đề của khu vực và Đông Dương, tạo nên một môi trường hoà bình ổn định để phát triển. Nhật Bản muốn thể hiện quyết tâm thực hiện vai trò chính trị nước lớn của mình trong vấn đề an ninh Đông Nam Á. Ba  nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia đã được hưởng lợi thế từ chiến lược ưu tiên phát triển Đông Nam Á và Đông Dương của Nhật Bản từ sau Chiến tranh Lạnh để đề ra chiến lược phát triển quan trọng nhằm khai thác có hiệu quả chính sách này. Điều này được thể hiện rõ trong việc giải quyết vấn đề Cămpuchia. Tháng 6/1990, Nhật Bản đã phối hợp với Thái Lan đứng ra triệu tập cuộc họp tại Tokyo của các phái chính trị ở Cămpuchia để bàn về giải pháp nỗ lực cho tiến trình lập lại hoà bình ở nước này. Nhật Bản đã thuyết phục ba nhóm ở Cămpuchia đồng ý với hình thức hai nhóm thay vì bốn nhóm. Đây là mô hình khả thi nhất cho việc mở đường xúc tiến hoà bình ở Cămpuchia. Ngay sau việc ký kết hiệp định hoà bình ở Cămpuchia năm 1991, xu hướng trong khu vực Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng đã được thay đổi. Hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương đã chấm dứt đối đầu, mở ra một thời kỳ mới cho khu vực phát triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị.
Tiếp sau đó Nhật Bản đã đơn phương vượt qua sự phản đối của Mỹ và các nước ASEAN quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam năm 1992 trong khi Mỹ vẫn chưa dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, đã ảnh hưởng lớn đến việc cải thiện các mối quan hệ trong khu vực. Kết quả dễ nhận thấy nhất trong những thay đổi trong khu vực là quyết định của ASEAN kết nạp Việt Nam (1995), Lào, Myanma (1997),  Cămpuchia (1999) trở thành những thành viên đầy đủ trong tổ chức này. Giấc mơ ASEAN 10 trở thành hiện thực và phát triển ngày càng cao trên trường quốc tế.
Tạo điều kiện cho các nước Đông Nam Á trong đó có các nước Đông Dương khôi phục và phát triển kinh tế.
Trong quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản đã rất chú trọng đến việc phục hồi và phát triển kinh tế Đông Dương. "Nhật Bản kêu gọi hợp tác phối hợp chặt chẽ với ASEAN để tái thiết Đông Dương và xác định diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương"(9). Nhật Bản muốn mở rộng vai trò của mình sang các nước Đông Dương, muốn làm vai trò cầu nối giữa ASEAN với Đông Dương.
Với  sự ủng hộ và giúp đỡ của Nhật Bản trong một môi trường quốc tế mới thuận lợi, năm 1992 Ngân hàng phát triển Châu Á đã bắt đầu chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông. Từ năm 1993, chính phủ Nhật Bản đưa ra sáng kiến tổ chức diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương được các nước Đông Dương rất ủng hộ. Năm 1994, với sự tác động của Nhật Bản, các Bộ trưởng kinh tế ASEAN, Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại quốc tế đã đồng ý thành lập nhóm làm việc, hợp tác kinh tế Đông Dương và Myanma. Tại Băng Kốc năm 1995, các nhà lãnh đạo ASEAN cũng đã đồng ý tổ chức Uỷ ban Mêkông, bắt đầu những dự án riêng về tổ chức, hợp tác và phát triển kinh tế lưu vực sông Mêkông.
Những hoạt động trên của Nhật Bản và các nước Đông Dương đã thể hiện mong muốn của các nước Đông Dương phát triển khu vực kinh tế năng động, biến thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như tuyên bố của Việt Nam, Lào (vào những năm 1980) và Cămpuchia là kinh tế thị trường (vào những năm 1990). Các hoạt động trên đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hội nhập của các nước Đông Dương vào khu vực, tiến kịp các nước láng giềng về mặt công nghệ, trình độ phát triển kinh tế, mở rộng mạng lưới thông tin liên lạc … trong các nước trên bán đảo Đông Dương.
Chính sách đối ngoại Đông Nam Á của Nhật Bản sau Chiến tranh Lạnh, trong đó đặc biệt chú ý đến các nước Đông Dương, tháng 5/1995, tại cuộc họp cấp Bộ trưởng lần đầu tiên của Diễn đàn ba nước Đông Dương tại Tokyo đã bàn về việc tái thiết và phát triển hơn nữa kinh tế ba nước: Việt Nam, Lào, Cămpuchia. Tại cuộc họp này, ba vấn đề chính được đưa ra nhằm xem xét, xây dựng cơ sở pháp lý và thể chế hoá để phát triển kinh tế 3 nước Đông Dương:
(1) Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng,
(2) Phát triển nguồn nhân lực,
(3) Buôn bán và đầu tư chủ yếu cho ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia. Đây là những cơ sở pháp lý cần thiết để phát triển ngoại thương và đầu tư phát triển của ba nước Đông Dương.
Từ sau 1995 với sự giúp đỡ của nhiều tổ chức kinh tế của Nhật Bản và những tổ chức kinh tế khác, Nhật Bản đã bắt đầu các chương trình giúp đỡ Cămpuchia, Lào, Việt Nam trong việc hiểu biết hơn nữa về hệ thống ASEAN, AFTA và cơ chế thị trường tạo điều kiện cho các nước này tham gia vào tổ chức ASEAN.
Bên cạnh đó, Nhật Bản còn tham gia tích cực trong tiến trình thúc đẩy sáng kiến và hợp tác, phát triển ba nước Đông Dương, đặc biệt là đối tác Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực ODA và FDI. Chỉ trong hơn 10 năm kể từ năm 1992  - 2002, Nhật Bản đã cung cấp cho  khoảng gần 8 tỉ USD chiếm vị trí hàng đầu trong các nhà tài trợ cho Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam với 369 dự án với 4 tỉ USD, đứng thứ ba trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, không những thế, Nhật Bản còn là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam(10). Lào và Cămpuchia cũng là những đối tác quan trọng trong chính sách phát triển toàn diện Đông Dương của Nhật Bản. Dưới ảnh hưởng của chính sách Đông Á, trong đó coi trọng Đông Nam Á của Nhật Bản đã tạo ra ở khu vực nhiều mối quan hệ phát triển các tiểu vùng kinh tế, quan tâm đặc biệt đến nhiều hình thức hợp tác kinh tế năng động: ASEAN+3,  ASEAN+6, các dự án tiểu vùng sông Mêkông, khu vực liên kết Đông Á... Các quan hệ này cùng với sự tham gia của nhiều cường quốc lớn, các tổ chức kinh tế, ngân hàng lớn của khu vực và quốc tế là cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế Đông Dương và các nước Đông Nam Á đáp ứng lợi ích to lớn của Nhật Bản ở khu vực.
Chính Thủ tướng Nhật Bản Tomiichi Myrazama cũng đã nhận định: "ASEAN và các quốc gia Đông Dương đang tìm kiếm sự ổn định và thịnh vượng trong toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Các quốc gia Đông Nam Á đang cố gắng nắm giữ một vai trò chủ yếu trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Nhân dân các nước Đông Nam Á đang nỗ lực phấn đấu vì lợi ích của chính mình và hướng tới sự ổn định và thịnh vượng của toàn thế giới. Trong bối cảnh đó, có thể nói Đông Nam Á đã bước vào một kỷ nguyên mới. Trong kỷ nguyên mới này, Nhật Bản sẽ tiếp tục xây dựng các quan hệ chặt chẽ với Đông Nam Á, thúc đẩy hợp tác song phương theo nhiều cách khác nhau, trước hết Nhật Bản sẽ tiếp tục giúp đỡ các quốc gia này thông qua chương trình ODA, đầu tư tư nhân, thúc đẩy mậu dịch và tạo nguồn nhân lực"(11).
Tạo điều kiện thiết lập khu vực kinh tế mở toàn diện năng động ở Đông Dương.
Trong xu hướng đối thoại hợp tác và phát triển kinh tế hiện nay dưới tác động của toàn cầu hoá thế giới có hai xu hướng phát triển kinh tế chủ yếu là khu vực hoá chia lẻ thế giới và xu hướng duy trì hệ thống kinh tế khu vực mở. Châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động và mạnh mẽ là do hệ thống kinh tế toàn cầu mở và tự do. Nhật Bản tích cực tham gia vào Tổ chức kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương vì mục tiêu của APEC (Asian Pacific Economic) là hợp tác mở. Để giữ được kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương mở thì khu vực này phải tiếp tục giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và viện trợ ODA của Nhật Bản vẫn phải giữ một vai trò rất quan trọng. Hiến chương "ODA của Nhật Bản đã trở thành một trụ cột quan trọng trong nhiệm vụ đóng góp quốc tế và là một phương sách có ý nghĩa trong chính sách ngoại giao"(12). Châu Á, nhất là Đông Nam Á vẫn là khu vực ưu tiên nhận ODA của Nhật Bản.
Dưới ảnh hưởng của chính sách đối ngoại mới mà Nhật Bản thực thi sau Chiến tranh Lạnh, vai trò của Nhật Bản ngày càng tăng lên ở khu vực này và Nhật Bản rất quan tâm đến ba nước Đông Dương. Mặc dù Việt Nam, Lào, Cămpuchia là những nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp nhưng lại có nhiều tiềm năng phát triển trong so sánh về lao động, tài nguyên và về vị trí chính trị, địa kinh tế quan trọng nên được nhiều nước trong khu vực rất quan tâm. Lợi thế ba nước Đông Dương kết hợp lại sẽ tạo ra thế mạnh để khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước cũng như chủ động tận dụng các mối quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực mở. Việc tiếp nhận ODA của Nhật Bản bước đầu tạo cơ sở xây dựng khu vực Đông Dương thành khu kinh tế mở năng động thông qua hàng loạt các sáng kiến kinh nghiệm của cả Nhật Bản và của cả các nước ASEAN và Đông Dương vì lợi ích của các đối tác. Đó là dự án phát triển Tiểu vùng sông Mêkông bao gồm sáu nước: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma, Vân Nam (Trung Quốc). Đây là một hợp tác quan trọng của ASEAN vì đây là thị trường đầy tiềm năng của thế kỷ XXI. Mục tiêu nhằm tạo ra sự phát triển đồng đều bền vững ở tiểu khu vực có sông Mêkông chảy qua, phát triển mạnh mẽ hơn sự hợp tác giữa ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản. Hàng trăm các tổ chức tài chính, ngân hàng lớn đã tham gia vào diễn đàn đầu tư vào khu vực này. Liên kết Đông Á cũng là sáng kiến của Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto năm 1996, sau đó được Thủ tướng Obuchi đưa ra kế hoạch toàn diện để tăng cường trao đổi nhân lực Đông Á. Theo đó, Nhật Bản sẽ giúp 80 tỉ USD cho các nước này, nhằm phát triển hơn nữa . Tư  tưởng học thuyết Fukuda cũng đã tạo cho khu vực này sự liên kết mở giữa ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, New Zealand. Nhằm thông qua sự liên kết kinh tế Đông Á để thể hiện tư tưởng của Nhật Bản muốn gắn kết và thuyết phục ASEAN  tạo dựng con đường hội nhập Đông Á, mà trong đó Nhật Bản là người lãnh đạo tích cực, ASEAN là trụ cột kết dính các đối tác(13) với phương châm "Hành động cùng nhau, cùng nhau tiến bước tạo ra sự hợp tác thực sự... Nhật Bản và ASEAN đạt tới sự thịnh vượng hơn, hoà bình hơn", hiểu biết, tin cậy lẫn nhau hơn. Sự hợp tác này đòi hỏi sự trao đổi tư tưởng, ý kiến và con người". Như vậy, có thể thấy Nhật Bản đóng vai trò tích cực trong ASEAN+3 và thể hiện ngày càng rõ rệt ý muốn trở thành một đầu tàu về hợp tác khu vực Đông Á.
Vào những năm 1990 trở đi, cùng với sự ủng hộ tích cực của Nhật Bản và các nước lớn trên cơ sở sự phát triển kinh tế thương mại của ba nước Đông Dương, các sáng kiến về "Hành lang Đông Tây", về tam giác phát triển Việt Nam, Lào, Cămpuchia... đã được xúc tiến mạnh mẽ. Đây là những cơ hội thuận lợi cho nhiều nhà đầu tư, nhiều tổ chức tài chính thế giới tham gia, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế mở ở Đông Dương bắt đầu phát triển. Trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh sẵn có của Việt Nam, Lào, Cămpuchia để xây dựng hệ thống giao thông vận tải, đảm bảo an ninh quốc phòng biên giới, đẩy mạnh hợp tác thương mại du lịch, nâng cao mức sống và văn hoá cho nhân dân biên giới ba nước Đông Dương và các nước khác ở khu vực, tạo cơ hội thuận lợi nhất cho các nước ở Đông Nam Á hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

HOÀNG THỊ MINH HOA
(PGS, TS, Đại học Sư phạm Huế)
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Ngô Xuân Bình (2000), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Ngô Xuân Bình, Trần Quang Minh chủ biên, (2005), Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản: Quá khứ, hiện tại, tương lai, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Diplomatic Blue Book for 1976, Review of Recent Development in Japan's Foreign Press Centure -  Japan 1976.
4. Đỗ Đức Định (1996), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản và tác động của nó đến quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4/2007.
6. Diễn văn của Thủ tướng Koizumi  đọc tại Diễn đàn Hợp tác Nhật Bản và ASEAN về Đông Á tại Singapore ngày 14/1/2002.
7. Diễn văn của Thủ tướng Junichiro Koizumi 14/1/1992,Website, Bộ Ngoại giao Nhật Bản.
8. Hoàng Thị Minh Hoa (1993), Từ thuyết Đại Đông Á đến học thuyết Fukuda của Nhật Bản, Thông báo KH Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
9. Hoàng Thị Minh Hoa (2005), Hợp tác an ninh quân sự Mỹ - Nhật giai đoạn 1975 -  1991 trong quan hệ với chính sách đối ngoại Châu Á của Nhật Bản, Thông báo Khoa học -  ĐHSP.
10. Keesing (1993), Record World Events - Tokyo - 39.
11. Khai mạc Hội nghị tiểu khu vực 3 nước Cămpuchia, Việt Nam và Lào về lĩnh vực viễn thông theo http://www.VNpost gov, VN bao 2002/so 47/Thoisu/Thong20cao.htm
12. Liên kết kinh tế Đông Á trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản -  Tạp chí NVĐKTCT, số 4/2007
13. Masaya Shiraishi (1997), Hợp tác Đông Dương và đóng góp của Nhật Bản, Hội thảo quốc tế ASEAN hôm nay và ngày mai, Hà Nội.
14. Hồng Minh, Hợp tác Uỷ ban Sông Mêkông khởi động, Tuần báo Quốc tế số 33, 8/1995.
15. Nhật Bản với tiến trình liên kết kinh tế Đông Á hiện nay, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6/2006.
16. Quan hệ ASEAN - Nhật Bản tình hình và triển vọng, 1989, Nxb khoa học, Hà Nội
17. Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á số 6/2006.
19. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 5/2007.
20. Japan Review International Affairs Special Issue, 1991.
21. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 4/2006.
22. Viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật Bản với các nước Đông Nam Á, số 3 - 1996.

Quan hệ Việt Nam - Asean và những vấn đề đặt ra trong tương lai


Quan hệ Việt Nam - Asean và những vấn đề đặt ra trong tương lai
Nguyễn Phương Bình, Học viện Ngoại giao.
28 năm sau khi "Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á" (ASEAN) được thành lập (1967 - 1995), và 20 năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975 - 1995), nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất đã trở thành thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN. Ngoài 5 thành viên sáng lập của ASEAN là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, thành viên thứ 6 của tổ chức là Brunei đã được kết nạp ngay sau khi nước này được trao trả độc lập từ phía Anh (1984). Tất nhiên Việt Nam và Brunei là hai nước rất khác nhau về diện tích, dân số, văn hoá, tôn giáo, chế độ chính trị, kinh tế... nhưng những khoảng thời gian dài nêu trên cũng cho thấy phần nào những khó khăn, những bước thăng trầm trong quan hệ giữa hai phía để có thể đến với nhau và cùng hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn của đại gia đình Đông Nam A' (ĐNA).
Tuy vậy, ngay cả sau khi Việt Nam đã là thành viên của ASEAN (tháng 7 năm 1995) vẫn còn những thắc mắc từ bên ngoài như: tại sao Việt Nam lại đi nhanh như vậy trong quan hệ với ASEAN, và một sự chuyển biến nhanh như vậy phải chăng nhằm phục vụ cho ý đồ chiến lược của Việt Nam nhằm chống một bên nào đó ?
Mỗi người có thể tự rút ra lời giải đáp cho những câu hỏi trên qua việc tìm hiểu quá trình phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN.
Những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Indonesia).
Vào những năm 1970, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã dần được thiết lập và phát triển cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, và đặc biệt qua chuyến thăm các nước ASEAN của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng năm 1978, sau khi Việt Nam thống nhất và trở thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các bên đã bàn đến các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh chính trị như khả năng ký hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Tuy nhiên các sự kiện tiếp theo liên quan đến Campuchia đã làm quan hệ hai bên trở nên xấu đi, thậm chí đối đầu vào những năm 80. Cùng với những cố gắng trong việc tìm giải pháp hoà bình cho cuộc xung đột Campuchia, quan hệ Việt Nam - ASEAN được cải thiện trở lại và khả năng Việt Nam có thể tham gia tổ chức hợp tác khu vực của các quốc gia ĐNA này đã được đề cập đến từ năm 1989 tại cuộc gặp không chính thức lần thứ hai về vấn đề campuchia ở Jakarta (JIM 2). Ba năm sau đó, Việt Nam trở thành quan sát viên của ASEAN (7/1992), và lại ba năm tiếp nữa đã trở thành viên chính thức của ASEAN (7/1995).
Bên cạnh những thay đổi sâu sắc diễn ra trên thế giới và ở khu vực từ năm 1989, nhận thức về lợi ích chung của ĐNA, về sự liên kết cùng nhau phát triển đã đưa đến sự thông cảm hơn giữa Việt Nam và ASEAN về lợi ích an ninh của nhau, để tiến tới cùng chia xẻ một số phận chung của các dân tộc ĐNA.
Đường lối đổi mới được đề ra từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) và được phát triển thêm qua các Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996), đã thúc đẩy những cải cách kinh tế theo hướng thị trường nhằm đưa đất nước phát triển, hội nhập với khu vực và thế giới, với mục tiêu xây dựng một đất nước giàu mạnh, một xã hội công bằng và văn minh sống theo pháp luật.
Cách nhìn mới về phát triển kinh tế - xã hội: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh sống theo pháp luật", và đường lối đối ngoại "là bạn với tất cả" thể hiện quan niệm mới về an ninh của Việt Nam, là những nhân tố tích cực thúc đẩy việc Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Và cũng từ đây quan hệ Việt Nam - ASEAN đã lật sang một trang mới.
Ngoài những thắc mắc từ bên ngoài ASEAN, ngay trong một số nước ASEAN cũng còn những ý kiến e ngại về khả năng của Việt Nam - một nước có trình độ kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN có chế độ chính trị và kinh tế khác biệt - tham gia vào hợp tác ASEAN, và việc Việt Nam với những bất hoà và tranh chấp lãnh thổ vốn có với Trung Quốc có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc.
Hai năm đã qua kể từ khi Việt Nam là một thành viên ASEAN, kinh tế đất nước và hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN vẫn tiếp tục phát triển và đã có những kết quả đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 9% của Việt Nam vẫn được giữ vững và có thể hy vọng còn tiếp tục trong một vài năm tới, lạm phát được kiềm chế, sản lượng công nghiệp tăng trung bình 14 - 15%. Dòng đầu tư từ các nước ASEAN vẫn tiếp tục tăng và buôn bán Việt Nam - ASEAN đã vượt xa con số 2 năm trước đây. Đầu năm 1996, Việt Nam đã công bố 857 mặt hàng ở diện giảm thuế 5 - 0% khi tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), và đang dần từng bước thực hiện tiến trình tham gia AFTA. Với 60% các mặt hàng đã có sẵn mức thuế 5% hoặc thấp hơn 5%, Việt Nam theo đánh giá của ông Tổng thư ký ASEAN Ajit Singh, sẽ không gặp mấy khó khăn trong việc thực hiện yêu cầu của AFTA về giảm thuế quan. Ngoài những cố gắng cụ thể tham gia vào hợp tác kinh tế ASEAN, AFTA, Việt Nam còn tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác khác của ASEAN, vào diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao A' - Âu... Nhiều nhà lãnh đạo các nước ASEAN, trong đó có ngoại trưởng Indonesia Ali Alatas, đã đánh giá sự thành công của Việt Nam trong việc tham gia ASEAN là vượt quá sự trông đợi.
Hai năm qua, mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc, Việt Nam - Trung Quốc cũng được củng cố và phát triển hơn. Tuy đôi lúc, những va chạm, tranh chấp từ khu vực, tranh chấp ở Trường Sa và Biển Đông có phủ bóng đen lên những mối quan hệ này, nhưng sự nâng cấp quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc vẫn thể hiện rõ nét qua việc Trung Quốc trở thành bên đối thoại đầy đủ của ASEAN từ năm 1996, qua những cuộc đối thoại an ninh chính trị hàng năm ngày càng đi vào thảo luận những vấn đề liên quan thiết thực đến lợi ích hợp tác của hai bên như vấn đề liên quan đến tranh chấp ở Trường Sa và Biển Đông mà trước đây phía Trung Quốc không muốn đưa vào chương trình nghị sự, ở cuộc gặp gỡ cấp cao ASEAN - Trung Quốc sắp tới... Trong khi đó, quan hệ song phương về kinh tế, buôn bán, đầu tư, văn hoá... của Trung Quốc với Việt Nam và các nước ASEAN khác cũng đều được tăng cường và phát triển.
Tuy vậy, không có nghĩa là việc Việt Nam tham gia vào hợp tác ASEAN về các mặt đều diễn ra suôn sẻ, và Việt Nam đã không gặp mấy khó khăn và thách thức. Bên cạnh những kết quả tốt đẹp của hai năm tham gia hợp tác ASEAN, một số vấn đề vẫn còn tồn tại, và một số vấn đề mới nảy sinh sẽ tiếp tục thách thức sự tham gia và hội nhập của Việt Nam trong ASEAN.
Về kinh tế, việc thực hiện AFTA, vốn đã không dễ dàng giữa các nước thành viên là cựu của ASEAN, sẽ càng khó khăn thêm với các nước thành viên mới, trong đó có Việt Nam. Hội nghị Bộ trưởng thương mại các nước ASEAN họ ở Singapore tháng 4 năm 1996 đã đi đến sự nhất trí chung là phần lớn hàng hoá của khu vực sẽ có mức thuế từ 0 đến 5% vào thời điểm hoàn tất AFTA, và có "nương nhẹ" hơn đối với một số mặt hàng nông sản nhạy cảm như gạo mà thời hạn cuối cùng thực hiện giảm thuế có thể kéo dài đến năm 2010. Nhưng cũng không phải tất cả các nước thành viên đều sẵn sàng chấp nhận thời hạn đó. Indonesia, với sự ủng hộ của Philippines sau đó đã đề nghị kéo dài thời hạn cho các mặt hàng nông sản đến năm 2020. ASEAN đã phải tiến hành đàm phán, thương lượng một số vòng để đạt được sự nhất trí trong nội bộ, và cuối cùng cả hai nước (Indonesia và Philippines) đều đồng ý trở lại thời hạn ban đầu là 2010 với điều kiện có sự linh hoạt đối với vấn đề mức thuế cuối cùng(2). Điều đó cũng cho thấy trong các nước ASEAN vẫn còn những ý kiến khác nhau cề thời hạn thực hiện AFTA. Một số nước muốn thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện AFTA vào năm 2000 chứ không phải 2003 nữa, trong khi một số nước còn ngần ngại, muốn bảo lưu một số mặt hàng... chưa nói đến khả năng rút ngắn thời hạn thực hiện AFTA, thì việc thực hiện đúng tiến trình đã là thách thức đối với Việt Nam, vì chính trong việc thực hiện AFTA của Việt Nam cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế. Đánh giá tiến trình thực hiện AFTA đó ông Trần Xuân Thắng, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế cho biết: "Về mặt tổ chức và triển khai thực hiện CEPT của Việt Nam thời gian quan có thể nói rằng việc hợp tác thực hiện chưa được hiệu quả, còn mang tính bị động, đối phó... Cho đến nay mới chỉ có các cơ quan cấp Bộ, ngành tham gia vào các lĩnh vực liên quan đến AFTA, còn các doanh nghiệp hầu như vẫn đứng ngoài cuộc". Bên cạnh đó, "để thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan của Việt Nam bắt đầu từ năm 1998, thì thời gian còn lại cho các doang nghiệp Việt Nam đổi mới công nghệ, làm quan dần với mô trường cạnh tranh... là quá ngắn ngủi"(3).
Một cơ hội cho việc mở rộng hợp tác kinh tế của Việt Nam trong khu vực, đồng thời cũng lại là một thách thức mới đối với Việt Nam là trong chiến lược phát triển của ASEAN "tầm nhìn ASEAN 2020", điểm quan trọng là mục tiêu tiến tới khu vực mậu dịch tự do ASEAN mở rộng hay khu vực kinh tế ASEAN (AER), theo đó sau năm 2003, các loại thuế và những biện pháp bảo hộ khác sẽ được xoá bỏ hoàn toàn.
Qua hai năm tham gia trực tiếp vào các hoạt động hợp tác khác nhau của ASEAN, đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn của Việt Nam đã có những bước tiến bộ vượt bậc về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, làm quen dần với phương thức hợp tác trong ASEAN. Tuy nhiên, việc đào tạo đội ngũ cán bộ và nguồn lực nói chung vẫn đòi hỏi phải có nhiều cố gắng để có thể đáp ứng những bước đi tiếp theo khó khăn và phức tạp hơn trong hợp tác ASEAN.
Về an ninh khu vực, ASEAN vốn được biết đến với những nguyên tắc hoạt động đã trở thành tượng trưng cho tổ chức như nguyên tắc nhất trí, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng... Với ASEAN - 10 và những diễn biến gần đây ở Campuchia, những nguyên tắc trên dường như đang bị thử thách. Với 10 nước thành viên rất khác nhau về diện tích, dân số, trình độ phát triển, thể chế chính trị, tôn giáo... tính đa dạng của ASEAN về các mặt kinh tế chính trị, văn hoá và lợi ích an ninh... càng lớn và điều đó không khỏi tác động đến quá trình phát triển tiếp theo của ASEAN như: sự phức tạp hơn để đạt được sự nhất trí ASEAN về những vấn đề kinh tế, an ninh, sự dung hoà giữa các lợi ích quốc gia và lợi ích chung của khu vực, những thời hạn khác nhau về thực hiện AFTA, những khả năng khác nhau trong tham gia vào các hoạt động chung của ASEAN... Sự phức tạp đó cũng chính là điều mà Việt Nam cần phải lưu ý xử lý trong tương lai liên quan đến việc giải quyết các vấn đề trong khuôn khổ ASEAN.
Sau khi những sự kiện xảy ra đầy tháng bảy vừa qua ở Campuchia, có thể nói nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của ASEAN đang bị thử thách mạnh mẽ nhất. Ngoài sự theo dõi, chờ đợi phản ứng của ASEAN từ bên ngoài, trong nội bộ ASEAN, những cuộc tranh luận cũng đã mở ra. Khá nhiều quan chức và các nhà học giả ASEAN đặt ra vấn đề ASEAN cần phải có "chính sách can thiệp xây dựng" hay "can thiệp với đặc điểm ASEAN, với cách của ASEAN" ở Campuchia, và đó là điều cần phải làm vì những gì xảy ra hôm nay ở Campuchia có thể xảy ra tương tự trong tương lai ở một nước thành viên hay láng giềng khác của ASEAN. Tuy nhiên, dù là "can thiệp xây dựng" hay "can thiệp với cách của ASEAN, với đặc điểm ASEAN" thì vẫn không tránh được những từ "can thiệp" hay "dính líu". vấn đề đặt ra ở đây là cách tiếp cận của ASEAN và thái độ của các nước thành viên, trong đó có Việt Nam, sẽ như thế nào đối với những nguyên tắc hoạt động của ASEAN trong tương lai ? Liệu có phải ASEAN đang chuyển mình để có những bước đi có tính quyết định hơn, có tổ chức hơn và đóng vai trò lớn hơn ?
Tóm lại, có thể nói rằng với ASEAN - 10, ASEAN sẽ bước sang một giai đoạn phát triển mới. Một bước chuyển mới bao giờ cũng kèm theo những thay đổi, những trăn trở để tự hoàn thiện, để đáp ứng được với những đòi hỏi của tình hình thế giới, khu vực, và với vị trí và vai trò mới của ASEAN trong khu vực và trên thế giới. Và điều đó chỉ có thể có được với sự đóng góp và hợp tác của các nước thành viên. Xử lý tốt những vấn đề trong quan hệ của mình với ASEAN, Việt Nam đang làm cho sự tham gia của mình trong ASEAN ngày càng có hiệu quả hơn, và thiết thực hơn, thực hiện mục tiêu lâu dài là xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Bangkok Post 22 Aug, 1996, p.2 FBIS - EAS, 22 Aug, 1996, p.78;
2. Mainichi Daily News, September 13, 1996;
3. Nguyễn Hữu Đạt, "AFTA và ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, N - 224, 1/1997, tr.76./

quan hệ EU - Asean


Quan hệ EU - Asean


Đối thoại ASEAN - Ấn Độ



Đối thoại ASEAN - Ấn Độ

Trong giai đoạn 1993-2003, thương mại song phương giữa ASEAN và Ấn Độ đã tăng trưởng với tốc độ trung bình 11,22% mỗi năm, từ 2,9 tỷ USD năm 1993 lên 12,1 tỷ USD năm 2003.
Năm 2007, tổng kim ngạch thương mại của ASEAN và Ấn Độ đạt 37,077 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của ASEAN sang Ấn Độ đạt 24,658 tỷ USD – tăng 30,3% so với năm 2006. Kim ngạch nhập khẩu vào ASEAN từ Ấn Độ đạt 12,419 tỷ USD – tăng 27,1% so với năm trước. Về đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, dòng vốn từ Ấn Độ sang các quốc gia thành viên ASEAN đạt 681,6 tỷ USD trong năm 2007, chiếm 1,12% tổng lượng FDI của khu vực. Tổng lượng vốn đầu tư FDI từ Ấn Độ vào ASEAN trong giai đoạn 1995-2007 là 1,577 tỷ USD.
Nắm được xu hướng này và tiềm năng kinh tế của việc hợp tác chặt chẽ hơn, hai bên đã nhận ra các cơ hội để tăng cường các mối quan hệ thương mại và đầu tư, và đã ký kết một hiệp định khung mở đường cho việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Ấn Độ.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Ấn Độ lần thứ hai năm 2003, Hiệp định khung giữa ASEAN và Ấn Độ về Hợp tác kinh tế toàn diện đã được ký kết bởi các lãnh đạo của hai bên. Hiệp định khung này đã tạo nền móng vững chắc cho sự thành lập khu vực Thương mại và Đầu tư ASEAN-Ấn Độ (RTIA), bao gồm các hiệp định thương mại tự do về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. 
ASEAN và Ấn Độ đã ký kết Hiệp định về Thương mại hàng hóa (TIG) tại Bangkok ngày 13/8/2009 sau sáu năm đàm phán. Việc ký kết thỏa thuận này đã mở đường cho việc thành lập một trong những khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới – một thị trường với gần 1,8 tỷ dân với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 2,75 nghìn tỷ USD. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Ấn Độ sẽ xóa bỏ cam kết thuế quan cho trên 90% các mặt hàng được buôn bán giữa hai khu vực, bao gồm cả những “mặt hàng đặc biệt” như dầu cọ (thô và tinh chế), cà phê, trà đen và hạt tiêu. Thuế quan đối với trên 4000 dòng sản phẩm sẽ được dỡ bỏ trong thời hạn sớm nhất là 2016. Hiệp định về thương mại hàng hóa giữa ASEAN và Ấn Độ sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 với điều kiện Ấn Độ và ít nhất một nước thành viên ASEAN thông báo hoàn thành quá trình thông qua hiệp định này trong nước.
ASEAN và Ấn Độ đang chuẩn bị cho việc hoàn thành sớm các hiệp định về Thương mại dịch vụ và Đầu tư giữa hai bên.
Văn bản liên quan:

Khu vực thương mại tự do ASEAN-HÀN QUỐC và tác động tới quan hệ thương mại Việt Nam


Khu vực thương mại tự do ASEAN-HÀN QUỐC và tác động tới quan hệ thương mại Việt Nam

Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai mà ASEAN đàm phán Hiệp định thương mại tự do (sau Trung Quốc). Tiến trình này được bắt đầu vào năm 2004 khi các nhà Lãnh đạo ASEAN và Hàn Quốc ký Tuyên bố chung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc, khẳng định mong muốn thiết lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) bao gồm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và đầu tư.
 Năm 2005, ASEAN và Hàn Quốc ký Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện (Hiệp định khung), và sau đó là các hiệp định cụ thể trong từng lĩnh vực, tạo nền tảng pháp lý hình thành Khu vực Thương mại Tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA).
Thương mại hàng hóa
Hiệp định cụ thể đầu tiên được hai bên thống nhất là Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc (AKTIG), ký kết ngày 24 tháng 8 năm 2006. Hiệp định này quy định các thỏa thuận thương mại hàng hóa ưu đãi giữa 10 Quốc gia Thành viên ASEAN và Hàn Quốc, trong đó quan trọng nhất là cam kết cắt giảm và xóa bỏ thuế suất đối với tất cả các dòng thuế trong một giai đoạn nhất định. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2010, Hàn Quốc và ASEAN-5 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin và Xinh-ga-po) đã xóa bỏ thuế của gần 90% các mặt hàng trong Lộ trình Thông thường. Các thành viên mới hơn của ASEAN là Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, sẽ có thời gian dài hơn để cắt giảm và xóa bỏ thuế quan. Đối với Việt Nam, ít nhất 50% các dòng thuế trong Lộ trình Thông thường sẽ có thuế suất từ 0-5% trước ngày 1 tháng 1 năm 2013 và đối với Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma là trước ngày 1 tháng 1 năm 2015. Đến năm 2016, Việt Nam sẽ phải đưa 90% số dòng thuế về mức 0-5% và đạt mức tự do hóa hoàn toàn vào năm 2017. Thời hạn tương tự cho Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma sẽ là 90% vào năm 2018 và tự do hóa hoàn toàn vào năm 2020. Thái Lan, do tham gia Hiệp định AKTIG muộn hơn – năm 2007, sẽ có lộ trình cắt giảm thuế khác. Thuế suất đối với các sản phẩm trong Lộ trình Thông thường sẽ được cắt giảm theo từng giai đoạn và xóa bỏ vào nâm 2016 hoặc 2017.
Với việc ký kết và thực hiện Hiệp định AKTIG, quan hệ thương mại giữa ASEAN và Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng. Năm 2009, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ năm của ASEAN với tổng giá trị thương mại lên tới 74,7 tỷ đô la Mỹ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hàn Quốc vào ASEAN là 1,4 tỷ đô la Mỹ.

Thương mại Dịch vụ
Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN – Hàn Quốc (AKTIS) được ký ngày 21 tháng 11 năm 2007, tạo nền tảng để tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà cung cấp dịch vụ của ASEAN và Hàn Quốc. Xây dựng trên cơ sở các cam kết theo Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) của WTO, trong Hiệp định AKTIS, cả ASEAN và Hàn Quốc đều cam kết sâu rộng hơn thông qua việc bổ sung các ngành/phân ngành mới như kinh doanh, xây dựng, giáo dục, dịch vụ viễn thông, môi trường, dịch vụ du lịch và dịch vụ giao thông vận tải.

Đầu tư
Hiệp định Đầu tư ASEAN – Hàn Quốc (AK-AI) được ký kết ngày 2 tháng 6 năm 2009 nhằm tạo lập một môi trường minh bạch, thuận lợi và ổn định hơn cho các nhà đầu tư và nguồn vốn từ ASEAN và Hàn Quốc. Nội dung chính của Hiệp định AK-AI tập trung vào các yếu tố bảo hộ đầu tư như điều khoản về đối xử công bằng, bảo vệ đầy đủ và an toàn cho nguồn đầu tư; chuyển giao quỹ liên quan đến nguồn đầu tư; và đền bù trong trường hợp quốc hữu hóa đối với nguồn đầu tư. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2009. Tuy nhiên, hiện nay, ASEAN và Hàn Quốc vẫn tiếp tục thảo luận nhằm hoàn thiện các nội dung hợp tác dự kiến, trong đó có vấn đề xây dựng các cam kết mở cửa thị trường hoặc lộ trình loại bỏ các bảo lưu. Trong vòng năm năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, ASEAN và Hàn Quốc sẽ thảo luận và hoàn thành những nội dung này.

Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
Hiệp định về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp ASEAN – Hàn Quốc, ký ngày 13 tháng 12 năm 2005, đưa ra cơ chế giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh giữa các Bên trong quá trình triển khai hoặc áp dụng các Hiệp định nói trên, kể cả Hiệp định khung.

Tác động của Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc tới quan hệ thương mại Việt Nam-Hàn Quốc
Trong nhiều năm qua Hàn Quốc luôn là đối tác th­ương mại quan trọng của Việt Nam. Hàn Quốc là 4 trong 10 đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Hàn Quốc trong 10 năm qua (2001~2010) là rất cao, đạt trên 23%. Năm 2009, mặc dù chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng kim ngạch thương mại hai chiều vẫn giữ được mức tăng trưởng 2,1%. Đặc biệt trong năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã vượt mức 2 tỷ USD với mức tăng trưởng là 15,7%. Trong năm 2010, kim ngạch thương mại hai chiều có sự phục hồi rõ rệt với kim ngạch thương mại hai chiều đạt trên 12,85 tỷ đô la, tăng 42,2% so với năm 2009. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 3,1 tỷ đô la, tăng 49,8%, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc đạt 9,75 tỷ đô la, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng xuất khẩu chính của ta sang Hàn Quốc là dầu thô, dệt may, thủy sản, than đá, gỗ và sản phẩm gỗ, v.v. 
Một đặc điểm nổi bật trong quan hệ thương mại Việt Nam-Hàn Quốc là việc ta liên tục nhập siêu từ nước này. Trong năm 2010, Việt Nam chịu thâm hụt thương mại lên đến gần 6,7 tỷ đô la, tăng 57,8% so với cùng kỳ năm trước.Tỷ trọng nhập siêu/xuất khẩu là 216%, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu chung.Mặc dù vậy, nhập siêu từ Hàn Quốc được đánh giá là tương đối tích cực vì cơ cấu nhập khẩu từ Hàn Quốc chủ yếu là các mặt hàng nguyên nhiên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất công nghiệp và sản xuất hàng xuất khẩu (chiếm hơn 70% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc). Sắt thép các loại là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất (12,3%) tiếp đến là vải các loại (11,7%), máy móc thiết bị (11,2%), máy vi tính sản phẩm điện tử (8,6%), xăng dầu các loại (8,3%), chất dẻo nguyên liệu (7,3%), nguyên phụ liệu dệt may và da giầy (4,9%).
Theo đánh giá chung, Khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc đã đem lại những lợi ích đáng kể cho các nền kinh tế ASEAN, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác hạn ngạch thuế quan với thuỷ sản, mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch hàng đầu của ta vào Hàn Quốc. Hàn Quốc cam kết dành cho ASEAN lượng hạn ngạch thuế quan như sau: (i) Tôm đông lạnh: 5000 tấn miễn thuế; (ii) Tôm tươi: 300 tấn miễn thuế; (iii) Mực nang: 2000 tấn miễn thuế; (iv)Tôm luộc: 2000 tấn miễn thuế; (iiv) Sắn: 25000 tấn với thuế suất 20%; (iiiv) Tinh bột sắn: 9600 tấn với thuế suất 9%. Với mức thuế trong hạn ngạch 0% (so với mức trung bình 15% ngoài hạn ngạch) là lợi thế cho các doanh nghiệp ASEAN và Việt Nam. Bên cạnh đó, thuế suất mà Hàn Quốc dành cho các sản phẩm mà ta có thế mạnh như dệt may, giày da, sản phẩm chế biến cũng rất thấp, góp phần tạo cơ hội xuất khẩu quan trọng cho các mặt hàng này.
Một điểm đáng lưu ý là Hàn Quốc đã có nhượng bộ trong vấn đề kiểm dịch động thực vật (SPS), chấp nhận đưa nội dung hợp tác đối với các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về SPS vào Phụ lục của Hiệp định khung; có điều khoản về TBT và SPS trong Hiệp định về Thương mại Hàng hóa; thành lập Tổ công tác về TBT và SPS để xem xét các vấn đề thực thi.
Với những lợi thế như trên, cho tới nay AKFTA đã tác động rất tích cực tới quan hệ thương mại ASEAN-Hàn Quốc. Có thể nói đây là Khu vực thương mại tự do đem lại lợi ích lớn nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam xét trên khía cạnh tận dụng các ưu đãi của Hiệp định. Tỷ lệ tận dụng ưu đãi theo AKFTA thông qua việc áp dụng mẫu quy tắc xuất xứ (mẫu AK) của các doanh nghiệp Việt Nam là rất cao, lên tới 58,6% ngay trong năm đầu tiên thực hiện Hiệp định      AKTIG (2007) và tăng lên  66,5% vào năm 2008, 64,6% năm 2009. Như vậy, có thể nói đa số hàng hóa xuất khẩu của ta sang Hàn Quốc đã tận dụng được ưu đãi từ Hiệp định AKFTA. Tỷ lệ này đặc biệt cao đối với các nhóm hàng hóa như nguyên liệu (gần 100%), khoáng sản chế biến (trên 95%), sản phẩm da (trên 70%), dệt may (88%). Ngược lại, hàng xuất khẩu từ Hàn Quốc sang Việt Nam không tận dụng được nhiều các ưu đãi trong Hiệp định AKFTA, với tỷ lệ sử dụng mẫu quy tắc xuất xứ chỉ đạt khoảng 3%. Đây cũng là minh chứng rõ ràng để kết luận Hiệp định AKFTA không làm tăng nhập siêu của ta trong quan hệ thương mại với Hàn Quốc.