Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

Đoàn kết ASEAN được kiểm chứng tại Campuchia


Đoàn kết ASEAN được kiểm chứng tại Campuchia


Lại một lần nữa, lợi dụng chức Chủ tịch ASEAN, Campuchia đã khoét sâu thêm sự đoàn kết vốn mong manh của khối này khi cố tình diễn giải sai ý định của các quốc gia ASEAN trong vấn đề Biển Đông. 


Thời gian CPC làm Chủ tịch đã khiến khối ASEAN ít đoàn kết hơn bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử 45 năm. Khi kết thúc tuần Hội nghị ASEAN, CPC đã thất bại trong vai trò chèo lái cả khối 10 nước giải quyết tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các nước thành viên ASEAN với TQ. Nhà nghiên cứu Pavin Chachavalpongpun thuộc Trung tâm ĐNÁ, Đại học Kyoto đánh giá: “Đường lối đối ngoại của CPC bị cầm giữ như con tin bởi quan hệ mật thiết riêng tư với TQ, làm hạn chế lựa chọn chính sách đối ngoại và gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh CPC trên trường quốc tế”.
Hội nghị ASEAN tại Phnom Penh vào tháng 4 và tháng 7/2012, CPC bị buộc tội là đại diện cho lợi ích TQ tại Biển Đông nhiều hơn là cho các đồng nghiệp khu vực trong ASEAN. Mặc dù Phnom Penh không có tranh chấp chủ quyền, nhưng là Chủ tịch, CPC nên hành động như một quan tòa độc lập thay vì thiên về quan điểm của Bắc Kinh. Quan điểm khác biệt này một lần nữa lại được phơi bày tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-21 và Thượng đỉnh Đông Á -7, khi QVK/BNG/CPC Kao Kim Huorn nói rằng, 10 nước ASEAN đã đồng ý giải quyết tranh chấp trên Biển Đông thông qua khuôn khổ hợp tác ASEAN - TQ. Ngày hôm sau, TTh/PLP Aquino tuyên bố bác bỏ, xác nhận rằng Manila không nhất trí cái gọi là sự đồng thuận này, VN cũng không có tín hiệu đồng thuận với tuyên bố này.
Jim Dellta Giacoma, Giám đốc dự án Nhóm nghiên cứu khủng hoảng ĐNÁ nói: “Thất bại không ra Tuyên bố chung tại AMM lần đầu tiên trong 45 năm lịch sử có thể làm sụp đổ hình ảnh ASEAN, đẩy lùi tiến trình COC và sẽ còn được nhớ mãi sau bất cứ thành tựu nào của 12 tháng qua...”. COC là khuôn khổ có tính pháp lý quy định các nước ASEAN làm thế nào để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông - một vấn đề gây sức ép trong khu vực. Nhưng CPC đồng lòng với mong muốn của Bắc Kinh là giải quyết tranh chấp song phương với 4 nước thành viên ASEAN. Là 1 bên tranh chấp, cả PLP và VN đều đồng thanh kêu gọi ASEAN giải quyết tranh chấp này với tư cách là 1 khối và không phản đối “quốc tế hóa”.
Các phương tiện truyền thông tập trung theo dõi Hội nghị cho rằng, có rạn nứt trong nội bộ ASEAN. TờNew York Times viết: “Do dự và đấu đá nội bộ - đó là phương cách của ASEAN, và tại Hội nghị, CPC hành động như người thừa ủy nhiệm của TQ”. Tờ Al Jazeera đăng bài: “Chấm dứt phương cách ASEAN” của Nhà báo lâu năm Marga Ortiga nêu: “Không lâu nữa, ASEAN sẽ thay đổi, đó là nhờ CPC”.
CPC, nước có quan hệ mật thiết với TQ, đã cố gắng kiềm chế vấn đề Biển Đông nhưng mọi việc không diễn ra như kế hoạch. Một chủ đề tưởng chừng như không được nhắc đến lại chiếm diễn đàn thảo luận. Những sự việc này đều diễn ra bên trong cánh cửa kín của phòng hội nghị nhưng chắc chắc chúng sẽ không dừng ở đó... dù ASEAN có muốn hay không. Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia ĐNÁ thuộc Học viện Quốc phòng Úc nhận xét, Chủ tịch ASEAN sử dụng quyền tại hại nhất chưa từng có, “Đưa ra lưu ý gây mất đoàn kết, CPC đóng vai trò như là khách hàng của TQ. CPC đã tạo ra rạn nứt trong ASEAN”. Ông Lao Mong Hay, nhà phân tích độc lập CPC nói: “Là Chủ tịch, CPC nên đóng vai trò một nhà hòa giải”.
NFN/HĐBT/CPC Phay Siphan lại đưa ra quan điểm khác về quyền Chủ tịch ASEAN. CPC đã thành công trong nỗ lực cung cấp diễn đàn thảo luận giữa ASEAN với các đoàn quốc tế. Ông nói: “Chúng tôi mở đối thoại nhằm duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông. CPC duy trì khoảng thời gian cho mọi người có đối thoại cùng nhau”. Về quan hệ “đặc biệt” của CPC với TQ, Ông Phay Siphan cho rằng, vai trò CPC trong ASEAN là không đại diện cho lợi ích của TQ nhưng phần nào làm đơn giản hóa đối thoại TQ - ASEAN.
Giáo sư Kinh tế ĐNÁ thuộc Đại học Quốc gia Úc Hal Hill nhận xét TQ đã bơm hàng tỷ USD vào CPC nên rất khó để TTg/CPC Hun Sen lựa chọn lợi ích ASEAN hơn Bắc Kinh, nhưng vào một ngày nào đó, CPC có thể cần đến những người bạn ASEAN - những người ít độc đoán hơn TQ. Nhìn chung, ĐNÁ là khu vực ảnh hưởng của TQ và các nước trong khu vực ít nhiều phải chấp nhận hành xử trong khuôn khổ đó. Chính vì vậy ASEAN là một tổ chức rất quan trọng đối với CPC, và CPC không nên làm phiền lòng các thành viên khác bởi đây là những đồng minh khu vực tốt nhất của CPC.
Trần Quang (gt)

Vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông


Vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông


Tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á vẫn đang diễn ra ngày càng căng thẳng. Hi vọng về vai trò dàn xếp của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong vấn đề này cho đến nay vẫn khá mờ nhạt do sự chia rẽ của các nước thành viên trước những biện pháp và các miềng mồi mà Trung Quốc đưa ra. 
Một thỏa thuận của hy vọng không tưởng đã được đề ra dựa trên quan điểm rằng ASEAN sẽ thành lập một “con đê chắn sóng” đối phó với sự bành trướng của Trung Quốc tại các vùng biển của Đông Nam Á. Điều này càng được củng cố bởi tuyên bố của Trung Quốc về “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với “các vùng biển liên quan” gần như là vươn tận tới Xinhgapo. Các quốc gia ASEAN rõ ràng có một lợi ích chung và vạch ra một ranh giới mà các cường quốc ngoài khu vực như Nhật Bản, Ôxtrâylia, Ấn Độ và đặc biệt là Mỹ có thể ủng hộ. 
Tuy nhiên, các hoạt động của ASEAN trên nguyên tắc đồng thuận và thương lượng không đối đầu lại là một điểm yếu chết người. 4 trong số 10 nước thành viên ASEAN là Mianma, Campuchia, Lào và Thái Lan khăng khăng đặt ưu tiên bảo vệ mối quan hệ song phương êm thấm với Trung Quốc hơn là bảo vệ sự đoàn kết của ASEAN. Vì sự chia rẽ này, các nước thành viên ASEAN đã vướng mắc trong việc tìm kiếm một khuôn khổ để thỏa mãn tối thiểu các tham vọng của Trung Quốc. 
Về vấn đề này, họ nhận được ít sự giúp đỡ từ Bắc Kinh. Trung Quốc trốn tránh từng đề xuất đối với mỗi nước ASEAN để xây dựng được một kế hoạch quản lý mâu thuẫn, trong đó cái gọi là Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông. Bắc Kinh sẽ không đồng ý phân xử về tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn hay thậm chí là thảo luận với nhiều hơn một quốc gia trong cùng một thời điểm. Mà Trung Quốc cũng không có ý định làm rõ về những gì nước này tuyên bố tại Biển Đông. Và vì vậy, trong hai thập kỷ qua, vô số cuộc họp của ASEAN đã không thể đi đến việc giải quyết được vấn đề.
4 trong 10 nước ASEAN là những nước chính trong vấn đề tranh cãi tại Biển Đông. Malaixia, Brunây, Philíppin và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hoặc một phần của quần đảo Trường Sa, kiểm soát các hòn đảo và tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển xung quanh. Việt Nam và Philíppin còn tuyên bố chủ quyền đối các hòn đảo và bãi đá ngầm ở phía Bắc gần Trung Quốc. 
Việt Nam tuyên bố chủ quyền cả quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa duyên hải miền Trung Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Quần đảo này đã bị Trung Quốc chiếm giữ từ khi chế độ miền Nam Việt Nam sụp đổ năm 1974 và hồi đầu năm nay Bắc Kinh đã thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa để hợp nhất mọi tuyên bố mở rộng của nước này tại Biển Đông. Philíppin, tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, khu đánh cá giàu sản lượng chỉ cách 200km từ bờ biển Luzon nơi đã xảy ra vụ chạm trán với tàu hải giám của Trung Quốc hồi tháng 4.
Không ngạc nhiên khi Philíppin và Việt Nam đã có phản ứng mạnh mẽ nhất bằng một câu trả lời dứt khoát đối với tham vọng của Trung Quốc nhằm thống trị vùng biển kéo dài gần 2.000 km về phía Nam từ đảo Hải Nam . Sự háo hức của Manila và Hà Nội đối với Hải quân Mỹ, như là một nhân tố trong tranh chấp có thể khiến các nước thành viên ASEAN khác bỏ cuộc. 
Ngược lại, Malaixia và Brunây quyết duy trì một vai trò mờ nhạt. Hai nước này đã lựa chọn tuyên bố chủ quyền giữa họ và với Việt Nam, dựa trên quan điểm được hệ thống trong Công ước của LHQ về Luật biển (UNCLOS) và luật pháp quốc tế. Cả hai quốc gia này đều né tránh những nỗ lực của Việt Nam và Philíppin nhằm bảo vệ yêu sách tại vùng biển ở phía Bắc. Suy nghĩ một cách nghiệt ngã nhất, cả Cuala Lămpơ lẫn Banđa Xêri Bêgaoan dường như đang hi vọng ngược lại với bằng chứng đang ngày càng gia tăng rằng Trung Quốc có thể đã chán ngấy những vùng biển mà các nước này tuyên bố chủ quyền. 
Inđônêxia và Xinhgapo cũng cùng chung lợi ích trong việc ngăn cản Trung Quốc theo đuổi yêu sách bành trướng của các nước này. Vùng biển bên trong đường 9 đoạn của Trung Quốc chồng chéo lên vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Inđônêxia gần với quần đảo Natuna.
Giacácta và Xinhgapo cho đến nay vẫn tự nhận vai trò nước ủng hộ chính cho “giải pháp ASEAN,” với việc Xinhgapo thường công khai chiều theo vai trò lãnh đạo của Inđônêxia. 
Trong khi cho thấy sự sẵn sàng làm việc song phương, Trung Quốc vẫn chưa có thay đổi nào đối với tuyên bố chủ quyền theo lịch sử về toàn bộ vùng biển nằm trong đường 9 đoạn. Bắc Kinh vì vậy đòi quyền lợi đối với các nguồn tài nguyên biển lên tới 85% tại Biển Đông, bất chấp quy định của UNCLOS rằng tất cả các quốc gia có đặc quyền khai thác vùng biển cách 200 hải lý từ đường bờ biển, hoặc bên ngoài đó nếu thềm lục địa lớn hơn, trừ khi nó giáp với vùng EEZ của nước khác. Trung Quốc bác bỏ quy định của UNCLOS, cho rằng các thủy thủ và ngư dân của mình đã có mặt tại các vùng biển này từ thời thượng cổ.
Tất cả các bên tranh chấp có thể dựa vào tiền lệ lịch sử để biện minh cho yêu cầu của mình. Trong một thiên niên kỷ, Biển Đông đã là tài sản chung toàn cầu. Việt Nam có thể đưa ra các chứng cứ từ các sắc lệnh và bản đồ thế kỷ 18 để chứng minh sự nhất quán hơn so với Trung Quốc trong tuyên bố chủ quyền tại các đảo san hô ở Biển Đông. Như ở Trung Quốc, những tài liệu này kích động tình cảm dân tộc. 
Tuy nhiên, tranh cãi lịch sử không đưa ra được một giải pháp thoát khỏi mớ tuyên bố lộn xộn trừ khi như một số người bên phía Trung Quốc tin tưởng, nó được hẫu thuẫn bởi một lực lượng vững chắc. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tuyên bố tại một cuộc họp ASEAN tổ chức vào tháng 8/2010 rằng: "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là nước nhỏ, và đó là một thực tế." 
Vùng nước bị khuấy động
Trong nhiều năm nay, hy vọng đạt được một bước đột phá ngoại giao tăng lên trong những tháng mùa Thu, khi Biển Đông bị khuấy động bởi gió mùa, hành động khiêu khích của Bắc Kinh, đặc biệt là việc quấy rối ngư dân Việt Nam và Philíppin cũng như đe dọa các công ty năng lượng có khả năng khai thác dầu khí đáy biển theo giấy phép được Hà Nội hay Manila cấp. 
Bắc Kinh đã dựa vào hàng trăm tàu “bảo vệ ngư dân” và “an toàn hàng hải” có vũ trang để mở rộng kiểm soát, trong khi trên thực tế có thể hiểu đó là sự tăng cường của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Không có gì đáng ngạc nhiên khi Việt Nam , Malaixia, Inđônêxia và Xinhgapo đã tăng gấp đôi sức mạnh hải quân và không quân. Philíppin là kẻ đến muộn trong việc xây dựng quân đội tại Biển Đông. Mặc dù Manila đã bị kích động bởi các cuộc xung đột gần đây với Trung Quốc, lực lượng của họ bị đánh bại. 
Biển Đông được kỳ vọng có trữ lượng lớn về dầu khí, điều đó đã thúc đẩy nỗ lực của Trung Quốc để đưa Biển Đông vào vùng thống trị của quốc gia này. Sự thất bại trong đối thoại của ASEAN nhằm tìm ra một lối thoát cho cuộc khủng hoảng đang gia tăng, chiến lược “đàm phán và chiếm” không khoan nhượng của Trung Quốc và sự can dự sau đó của Mỹ trong những tranh cãi này đã khiến các chuyên gia thất vọng.
Có một sự lo sợ về việc một Trung Quốc thù địch có thể tự sắp xếp như thế nào nếu nước này thắng thế trong cuộc tranh cãi làm khuấy động Mỹ. Oasinhtơn không muốn chiến tranh và không rõ Mỹ sẽ phản ứng ra sao nếu Việt Nam hay Philíppin và thậm chí là Xinhgapo rơi vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, dường như ít nghi ngờ rằng Oasinhtơn quyết tâm ngăn cản Bắc Kinh kiểm soát hàng hải tại Biển Đông. 
Nếu ASEAN không lấp lỗ hổng, ai sẽ làm điều đó? Mỹ và phần còn lại của thế giới cần một lập luận chắc chắn để biện minh cho một sự can dự hiệu quả và bền vững. Mới bị tổn thương bởi vụ vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Irắc, dư luận Mỹ thận trọng với một cuộc phiêu lưu quân sự bên ngoài khác. Nhật Bản lại vốn thận trọng với một hành động quyết đoán. Nếu ASEAN muốn nhiều điều từ Mỹ và các đồng minh của Mỹ hơn là chỉ bày tỏ mong muốn có được tự do hàng hải tại Biển Đông, các quốc gia ASEAN ven biển cần tạo ra một tình huống thuyết phục rằng họ cần sự hỗ trợ đáng kể. 
Nhiều trong số các nhà hoạch định chính sách ngoại giao phương Tây tin rằng Mỹ có thể có quan hệ đối tác với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Gia tăng căng thẳng tại Biển Đông là một mối đe dọa đối với tầm nhìn của họ về một cộng đồng Thái Bình Dương thịnh vượng và hòa bình. Sẵn sàng thừa nhận phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc, họ nói – cũng giống như ASEAN – rằng họ không đứng về bên nào trong tranh cãi này. Nhiều cố vấn chiến lược phương Tây vẫn thảo luận về sự đối đầu mà tất cả các bên đều có trách nhiệm ngang bằng nhau. 
Tuy nhiên, nhận thức này có thể thay đổi. Tất cả những gì cần thiết cho Brunây, Malaixia, Philíppin và Việt Nam là thảo luận về một lập trường chung - điều họ có thể làm được bằng cách lựa chọn, nếu không dàn xếp được - những tuyên bố của họ với việc áp dụng những quy tắc của UNCLOS và luật pháp quốc tế chung. Họ cũng có thể cam kết phân xử về những tranh cãi còn tồn tại. Những nước không có tranh cãi là Inđônêxia và Xinhgapo có thể hỗ trợ với tư cách là một quốc gia thành viên ASEAN. 
Cần làm sáng tỏ kết quả ngay lập tức về những tuyên bố chồng lấn hiện nay của 4 quốc gia đối với quần đảo, bãi đá ngầm và bãi đá ở Trường Sa. Họ có thể thống nhất về không gian hàng hải của những vùng đất chung và từ đó thành lập những giới hạn địa lý của khu vực tranh chấp. Điều đó đến lượt nó sẽ làm rõ hàm ý của những yêu sách đòi kiểm soát các vùng biển xung quanh. 
Liên quan đến những tuyên bố ngoài khu vực Trường Sa, một thỏa thuận sơ sài còn tốt hơn là không có. Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa trong gần bốn thập kỷ và hiện giờ dường như xác định kiểm soát cả bãi cạn Scarborough . Xét ở điểm này, khả năng xác nhận thành công từ chứng cứ lịch sử của Việt Nam và Philíppin đối với các vùng lãnh hãi tranh chấp này dường như là tuyệt vọng. 
Một cách giải quyết thực dụng có thể là khẳng định việc Bắc Kinh công nhận EEZ theo như quy định trong UNCLOS, một cách giải quyết nếu được tán thành có thể chuyển phía Tây của Hoàng Sa về Việt Nam cũng như bãi Scarborough về Philíppin. Malaixia, Brunây, Inđônêxia và Xinhgapo dường như phải ủng hộ, mặc dù họ tránh né thừa nhận tuyên bố dựa trên chứng cứ lịch sử. 
Những bước này, có thể đến sau vài tháng căng thẳng và thương lượng bí mật, có thể thành lập cơ sở cho giải pháp hòa bình đối với cuộc khủng hoảng không thể chối cãi hiện nay. Nó có thể khiến Mỹ và các nước đồng minh hỗ trợ mạnh mẽ và thậm chí, có thể đến mức can thiệp quân sự. 
Hành trang lịch sử 
Trung Quốc, với ban lãnh đạo mới trong nhiều năm tới, có thể sẽ tìm cách rút lui khỏi thế đối đầu. Những người phát ngôn của Trung Quốc đã đôi khi nói về khả năng các yêu sách có thể được giải quyết dựa trên luật pháp quốc tế, và việc trì hoãn các thỏa thuận về giải pháp cùng khai thác tài nguyên Biển Đông có thể làm giảm căng thẳng. 
Tuy nhiên, điều này không dễ dàng đối với Trung Quốc khi phải rút lại những yêu sách trong lịch sử. Cách hành xử này là không thể hiểu được trừ khi Việt Nam cũng làm điều tương tự, nghĩa là trừ khi Hà Nội cùng đồng ý thiết lập các đường biên giới hàng hải dựa trên UNCLOS và các luật pháp quốc tế liên quan. 
Cũng như Trung Quốc, Việt Nam đã dựa nhiều vào lập luận lịch sử, một số học giả độc lập cho rằng dựa trên chứng cứ lịch sử, tuyên bố chủ quyền của Hà Nội đối với các đảo tranh chấp là có ưu thế hơn. Song không dễ để Hà Nội giải quyết bằng vấn đề lịch sử. Như bản chất vốn có, xét cho cùng, một quốc gia được tôi luyện qua quá trình đấu tranh chống lại sự xâm lược của Trung Quốc trong hàng trăm năm kể từ năm 938 trước Công nguyên, trừ khi đối thủ truyền kiếp và không cân xứng này có thể vượt qua lịch sử cay đắng, ít có cơ hội về một kết thúc có hậu cho cuộc khủng hoảng hiện tại ở Biển Đông. 
Một số chuyên gia cho rằng bỏ qua những yêu sách trong lịch sử của Trung Quốc và đưa ra một vị thế đàm phán chung dựa trên các nguyên tắc pháp lý sẽ chỉ chọc giận cường quốc đang trỗi dậy tại châu Á. Tuy nhiên, khó có thể tưởng tượng rằng thất bại trong việc chống lại tham vọng của Trung Quốc có thể dẫn tới một kết quả tốt đẹp hơn. 
Vẫn có một kịch bản triển vọng. Được thúc đẩy bởi sự nhận thức rằng thời gian có hạn, 4 quốc gia ASEAN tuyên bố chủ quyền xem xét vấn đề biên giới biển trong nội bộ các nước này bằng việc áp dụng các quy định pháp lý liên quan. Được hỗ trợ bởi quan điểm chung từ Inđônêxia và Xinhgapo, nếu không phải toàn bộ ASEAN, họ tuyên bố sẵn sàng tham gia đàm phán với Trung Quốc trên cơ sở chung. Thay vì tuyên bố chỉ đàm phán song phương, Trung Quốc nhất trí với tiến trình này. Chẳng bao lâu nữa một thỏa thuận sẽ được đưa ra thừa nhận sự bá chủ của Trung Quốc đối với hầu hết Trường Sa và có lợi thế tại Hoàng Sa. 
Các bên sau đó quay lại đàm phán những vấn đề liên quan, chẳng hạn như Bộ quy tắc ứng xử (COC). Nó sẽ không phải tài liệu tương tự viết rằng ASEAN đã thảo luận mà là một văn kiện rõ ràng ủng hộ hòa giải tranh chấp lãnh thổ được thảo luận ở trên. Khai thác tài nguyên năng lượng chung có thể ràng buộc lẫn nhau về nhiều yếu tố trong một tương lai tích cực tại Biển Đông. Các bên có thể nhất trí mở cánh cửa cho sự tồn tại của các quốc gia ven biển hành động có trách nhiệm. 
Nói cách khác, bất kỳ chế độ nào kiểm soát Biển Đông cũng không thể tồn tại lâu trừ khi nước đó nhất trí cho các thực thể của Trung Quốc tiếp cận công bằng đối với các tài nguyên biển tại khu vực. Các nước ven biển khác phải chào đón và tạo thuận lợi cho đầu tư và liên doanh với Trung Quốc, trong đó bao gồm các bên phía Trung Quốc khai thác tài nguyên đáy biển. Có thể cùng quản lý và cùng giám sát việc đánh bắt hải sản trên các nguyên tắc nhất trí chung. Cuối cùng, các quốc gia ven biển có thể thảo luận nguyên tắc quản lý các kênh vận chuyển, sự khai báo và quyền đi lại tại Biển Đông.
Một số người có thể phản đối rằng kịch bản vui vẻ này có thể gây nguy hại cho các nguyên tắc có tổ chức và thực tế lãnh đạo hiện trạng trong cái gọi là “Cách thức ASEAN”. Tuy nhiên, việc thừa nhận rằng trong trường hợp ASEAN thất bại trong việc khiến mô hình đồng thuận có tác dụng dường như ít gây hại cho hiệu quả chung của tổ chức này, hơn là tiếp tục nỗ lực không hiệu quả để khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong những tranh cãi đang ngày càng căng thẳng này. 
David Brown, Asia Times Online 
Thuỳ Anh (gt)

Làm thế nào để Mỹ duy trì lập trường trung lập trong vấn đề Biển Đông


Làm thế nào để Mỹ duy trì lập trường trung lập trong vấn đề Biển Đông


PDF.
Điều then chốt của vấn đề Biển Đông hiện nay là “một đối phó với hai”, tức là Trung Quốc đồng thời phải đối mặt với mâu thuẫn chủ quyền với các nước như Việt Nam, Philíppin… và mâu thuẫn về quyền lợi biển với Mỹ. 

Hai mâu thuẫn này tuy tính chất không giống nhau nhưng thường đan quyện vào nhau, không tách rời ra được, tạo nên sự bị động chiến lược của Trung Quốc. Muốn giải quyết tình hình khó khăn này, cần phải phân rõ mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu, tách rời hai mâu thuẫn này ra. Do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philíppin đã “nóng lên”, liên quan đến lợi ích cốt lõi và tinh thần dân tộc của các nước, khiến không gian thỏa hiệp của hai bên bị thu hẹp lại, do đó mâu thuẫn này trước mắt được coi là mâu thuẫn chủ yếu cần phải tập trung tài nguyên chiến lược và trí tuệ chiến lược để đối phó, trong một thời gian nhất định khó giải quyết triệt để, cần phải kiên trì bền bỉ. Trong khi đó, việc tranh chấp quyền lợi biển giữa Trung Quốc và Mỹ cho dù có thể ảnh hưởng một cách toàn diện đến môi trường xung quanh và an ninh quốc gia của Trung Quốc, nhưng hai bên vẫn có không gian thỏa hiệp, vì thế trong giai đoạn hiện nay mâu thuẫn này được coi là mâu thuẫn thứ yếu (đương nhiên, mâu thuẫn chủ yếu hay mâu thuẫn thứ yếu đều có thể thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của điều kiện không gian và thời gian). Từ ý nghĩa này mà nói, việc hiện nay cần phải đột phá tình hình khó khăn về an ninh trong vấn đề Biển Đông, khiến Mỹ duy trì lập trường trung lập đã trở thành nhu cầu tất yếu chiến lược, và điều này không còn là ảo tưởng chiến lược theo mong muốn chủ quan. 
Trước tiên, Mỹ không có đòi hỏi về chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, giữa Trung Quốc và Mỹ không tồn tại mâu thuẫn chủ quyền, đây là tiền đề quan trọng có thể khiến Mỹ duy trì lập trường trung lập. Đương nhiên, cho dù Mỹ không có nhu cầu đòi hỏi chủ quyền, nhưng lại có chủ trương về quyền lợi biển, và hy vọng duy trì địa vị chủ đạo trên biển thậm chí toàn bộ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, để đạt được mục tiêu này Mỹ sẽ ra sức lợi dụng các mâu thuẫn để kiềm chế Trung Quốc, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự trỗi dậy của Trung Quốc và việc mở rộng lợi ích trên biển do sự trỗi dậy đưa tới. Nhưng nhà cầm quyền Mỹ đã nhiều lần nhấn mạnh, Mỹ hoan nghênh sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc với tư cách là nước lớn châu Á-Thái Bình Dương thậm chí nước lớn thế giới; lãnh đạo Trung Quốc cũng nhiều lần bày tỏ, Trung Quốc hy vọng Mỹ phát huy vai trò mang tính xây dựng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nói cách khác, lãnh đạo hai nước đã mở ra không gian rất lớn trong việc chung sống hoà bình giữa hai nước Trung-Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, “Thái Bình Dương đủ rộng, hoàn toàn có tiếp nhận cả hai nước Trung Quốc và Mỹ”. Việc thông qua các cơ chế như đối thoại cấp cao, tham vấn về công việc của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sự hợp tác có hiệu quả trong một số vấn đề cụ thể, tìm ra con đường chung sống tốt đẹp giữa hai nước tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương chính là đáp án mà hai bên Trung-Mỹ cần cố gắng tìm kiếm. 
Thứ hai, chủ trương chính sách của Mỹ về vấn để Biển Đông tuy có mặt mâu thuẫn xung đột với Trung Quốc, nhưng cũng không thiếu không gian thỏa hiệp thậm chí là hợp tác. Nhìn vào một loạt những phát biểu gần đây của các quan chức cấp cao chính phủ Mỹ như Cố vấn An ninh Quốc gia Thomas Donilon, Ngoại trưởng Hillary Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta… và của phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ cho thấy chủ trương chính sách của Mỹ về vấn đề Biển Đông có thể khái quát thành những điểm dưới đây: không có đòi hỏi về chủ quyền; trong vấn đề tranh chấp chủ quyền không giữ lập trường cũng không đứng về bên nào; ủng hộ việc đàm phán đa phương để giải quyết tranh chấp; phản đối việc lựa chọn biện pháp quân sự hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp; thúc giục các bên tôn trọng luật pháp quốc tế bao gồm “Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển”; tự do hàng hải; lợi ích thương mại không bị ảnh hưởng; đưa ra sự bảo hộ an ninh cần thiết cho các nước đồng minh; duy trì trật tự an ninh và thương mại trên biển ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương v.v… 
Chủ trương chính sách nêu trên của Mỹ tồn tại xung đột hiện thực hoặc tiềm tàng với Trung Quốc trên ba mặt sau: 
- Về vấn đề “tự do hàng hải”, Mỹ nhấn mạnh, dựa vào những quy định có liên quan của luật pháp quốc tế và cách làm nhất quán của Mỹ tại các khu vực biển khác trên thế giới, Mỹ có thể triển khai các hoạt động bao gồm việc trinh sát quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc giống như tại vùng biển quốc tế, theo đuổi cái gọi là “tự do tuyệt đối”. Trung Quốc tuy cũng ủng hộ “tự do hàng hải”, nhưng phản đối Mỹ triển khai các hoạt động quân sự như “tiếp cận do thám” mang tính thù địch rõ rệt. 
- Về vấn đề “phương thức giải quyết”, Mỹ chủ trương Trung Quốc cùng với các nước đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông vận dụng phương thức đối thoại đa phương để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền, và thúc giục Trung Quốc ký kết “Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông”, Trung Quốc thì lại nhấn mạnh giải quyết song phương, không chỉ bởi kinh nghiệm thành công trước đây mà còn bởi tranh chấp với các nước liên quan không hoàn toàn giống nhau, vì vậy giải quyết song phương phù hợp với thực tế hơn. 
- Về vấn đề “can thiệp quân sự”, “Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philíppin” ký kết năm 1951 đã cung cấp cơ sở pháp lý cho việc Mỹ can thiệp quân sự vào việc tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Philíppin; một khi Trung Quốc và Philíppin xảy ra xung đột quân sự, Mỹ có can thiệp hay không, can thiệp khi nào, can thiệp như thế nào… đã trở thành vấn đề cần phải đối phó giữa Trung Quốc và Mỹ. 
Trong ba mâu thuẫn lớn này, phương thức “giải quyết đa phương” vốn chỉ là một sáng kiến trong chính sách của Mỹ, nhưng gần đây thái độ của Mỹ tỏ ra cứng rắn, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ Nuland tuyên bố “Những nỗ lực tìm cách chia để trị, cuối cùng đã đưa tới cục diện tranh giành giữa các bên đòi hỏi chủ quyền, sẽ không mang lại kết quả mà chúng tôi mong muốn”, công khai phê phán chủ trương “giải quyết song phương” của Trung Quốc, điều này làm tăng thêm trở ngại và biến số trong việc thông qua đàm phán để giải quyết tranh chấp. Nhưng về tổng thể mà nói, sáng kiến “giải quyết đa phương” của Mỹ không mang ý nghĩa thực chất, cũng không có tính ép buộc, có thể thông qua các kênh ngoại giao để hóa giải, điều cần xem xét nhiều hơn là thiện chí đàm phán giữa Trung Quốc và các nước liên quan. Trong ba mâu thuẫn lớn nêu trên, vấn đề can thiệp quân sự của Mỹ là nguy hiểm nhất. Quan hệ đồng minh Mỹ-Philíppin và sức ép chính trị trong nước Mỹ khiến cho việc can thiệp quân sự của Mỹ vào tranh chấp chủ quyền như đối với bãi đá ngầm Scarborough có thể sẽ xảy ra, nhưng nhìn vào thái độ hiện nay của Mỹ, thì việc cố gắng tránh bị lôi cuốn vào tranh chấp quân sự vẫn là sự lựa chọn hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Cho dù nhìn về lâu dài, việc trực tiếp đối kháng quân sự trên biển với Trung Quốc cũng không phù hợp với lợi ích chiến lược của Mỹ. Do đó, tuy đây là vấn đề nghiêm trọng, nhưng điều cần xem xét nhiều hơn là ở khả năng dự phòng và quản lý khủng hoảng của Trung-Mỹ, cũng như việc nâng cao thực lực quân sự của Trung Quốc. 
Mâu thuẫn chủ chốt chính là vấn đề “tự do hàng hải”. Những năm gần đây, va chạm hoặc xung đột trong vấn đề Biển Đông giữa Mỹ và Trung Quốc như “sự kiện máy bay va nhau” (năm 2001), “sự kiện tàu USNS Impeccable” (năm 2009)… đều liên quan đến vấn đề này. Sự thực, giữa Trung Quốc và Mỹ trong vấn đề này cũng không hoàn toàn đối lập nhau. Quân đội Trung Quốc coi hoạt động “tiếp cận do thám” của Mỹ ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc là một trong ba trở ngại lớn của việc giao lưu quân sự song phương, Mỹ thì lại cho rằng đây là quyền lợi mà luật pháp quốc tế thừa nhận. Trên thực tế, Trung Quốc không phản đối “tự do hàng hải”, thậm chí đối với một số hoạt động mang tính chất quân sự không phải lúc nào cũng phản đối, điều mà Trung Quốc phản đối là việc do thám quân sự với tần suất cao và ở nhiều cấp độ của Mỹ và thái độ thù địch trong chiến lược đối với Trung Quốc được thể hiện đằng sau những sự việc này. Phía Mỹ đã đưa ra sự biện hộ rằng Mỹ hoan nghênh tàu chiến Trung Quốc đến vùng đặc quyền kinh tế Mỹ, và nói rằng sớm muộn cũng có ngày tàu chiến Trung Quốc sẽ đi ra thế giới, sẽ đối mặt với vấn đề giống như vấn đề của Mỹ tại vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, do đó hy vọng Trung Quốc nhìn xa trông rộng, linh hoạt thiết thực, “dành cho mình một con đường sau này”. Những quan điểm này xem ra rất có lý, nhưng có một sự thực dễ thấy là, nó coi thường quyết tâm của Trung Quốc kiên trì đi theo con đường phát triển hòa bình và truyền thống cơ bản của ngoại giao Trung Quốc. Dù cho hải quân Trung Quốc sau này sẽ đi ra bên ngoài, nhưng cũng không đến vùng đặc quyền kinh tế của nước khác tiến hành do thám quân sự một cách liên tục và có ý đồ như vậy. Do đó, phương hướng tiếp theo mà hai nước Trung-Mỹ cần cùng nhau cố gắng đó là dưới tiền đề lớn ủng hộ nguyên tắc “tự do hàng hải”, triển khai trao đổi và thảo luận một cách chân thành về nội hàm cụ thể và cách lý giải của mỗi bên về “tự do hàng hải” và có thể bàn về những phương thức mang tính xây dựng như tập trận chung… để tạo ra sự giao lưu trao đổi một cách lành mạnh. 
Cuối cùng, lãnh đạo hai nước Trung-Mỹ nhất trí đồng ý cùng xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới. Mối quan hệ kiểu mới giữa quân đội hai nước và mối quan hệ kiểu mới ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là nằm trong mối quan hệ nước lớn kiểu mới này. Trước mắt, chiến lược quay trở lại khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà Mỹ đang theo đuổi phù hợp với sự “tái cân bằng” chiến lược ở các cấp độ khác nhau trong mục tiêu chung của cục diện châu Á-Thái Bình Dương do Mỹ chủ đạo, và tập trung vào việc “tái bố cục” chiến lược châu Á-Thái Bình Dương kéo dài từ Tây Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương. Trung Quốc là trọng điểm quan tâm của Mỹ, nhưng không phải toàn bộ, điều này có sự khác biệt tương đối lớn so với việc kiềm chế Liên Xô và đối kháng Mỹ-Xô theo kiểu Chiến tranh Lạnh. Cũng như vậy, chiến lược châu Á-Thái Bình Dương mà Trung Quốc theo đuổi cũng không phải là bài xích “Chủ nghĩa Monroe kiểu châu Á” của thế lực Mỹ, mà là theo đuổi một thể cộng đồng châu Á-Thái Bình Dương chung sống hoà bình giữa các nước bao gồm cả Mỹ. Trung Quốc và Mỹ cần phải tăng cường tư duy mới cùng nhau xây dựng và cùng nhau phát triển, lấy việc giao lưu trao đổi lành mạnh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ nước lớn kiểu mới Trung-Mỹ. Từ ý nghĩa này mà nói, việc Mỹ liệu có thể duy trì lập trường trung lập chiến lược trong vấn đề Biển Đông hay không chính là hòn đá thử vàng để thử nghiệm việc Mỹ có muốn cùng Trung Quốc và các nước khác xây dựng trật tự mới ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương hay không./. 
Theo Tạp chí Quan hệ Quốc tế Hiện đại – số 8/2012 – Trung Quốc
Lê Sơn (gt) 

Quan hệ Mỹ - Trung: phức tạp bởi “chiến lược đánh vu hồi”


Quan hệ Mỹ - Trung: phức tạp bởi “chiến lược đánh vu hồi”


Dường như Trung Quốc đang sử dụng chiến lược cổ có tên là “chiến lược đánh vu hồi”, một kế sách trong “Binh pháp Tôn Tử”  bắt nguồn từ Kinh Dịch để hất cẳng Mỹ khỏi khu vực. Trong bối cảnh đó, Washington cần có chiến lược đối phó như thế nào?


Tại sao trong thời gian gần đây Chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ngày càng trở nên hiếu chiến, tự tin và cương quyết hơn trong việc xử lý mối quan hệ của quốc gia này với Mỹ và các đồng minh của Mỹ? Câu trả lời có lẽ nằm trong một chiến lược cổ của Trung Quốc có tên là “chiến lược đánh vu hồi”, rút ra từ “”36 kế  Binh pháp Tôn Tử”  bắt nguồn từ Kinh Dịch. Kế sách này đã được Mao Trạch Đông vận dụng trong tư duy chiến lược của mình, và gần đây truyền thông Trung Quốc đã thảo luận về chiến lược này, vì nó đã làm cho Nhật Bản phải khổ sở trong việc tranh chấp Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Việc sử dụng chiến lược này cho thấy Bắc Kinh đã đẩy quan hệ Trung – Mỹ đi đến chỗ đối kháng, khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP) tìm mọi biện pháp làm giảm ảnh hưởng của Washington ở Châu Á.
Thứ nhất “chiến lược đánh vu hồi” giúp Trung Quốc làm rối loạn các đánh giá của đối phương; thứ hai, tạo ra và thúc đẩy các cuộc xung đột chính trị nội bộ bên trong đối phương; thứ ba, khoét sâu vào những xung đột nội bộ đang tồn tại trong đối phương trước khi tiến hành một cuộc tấn công. Tuy nhiên, mục tiêu của cuộc “tấn công” này không nhất thiết là CCP/PLA (Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quõn đội Giải phóng Nhân dân) sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự để chống lại Mỹ trong tương lai gần; mà Bắc Kinh đang tận dụng mọi ưu thế, gây sức ép với Mỹ để thay đổi đổi cán cân lực lượng giữa hai quốc gia này. Từ đó cho thấy, Trung Quốc đang thực hiện cả ba bước trong chiến lược.
Bắc Kinh cho rằng Mỹ vừa là mối đe dọa lớn nhất tới an ninh quốc gia của Trung Quốc, vừa là một cường quốc đang suy giảm. Theo tướng Zhang Qinsheng, Phó tổng tham mưu trưởng  Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) những thách thức chủ yếu của Trung Quốc là các mối đe dọa đến chủ quyền và tính chính danh của quốc gia này, cũng như chủ nghĩa ly khai. Hồ Cẩm Đào đã cảnh báo về những nỗ lực của bá quyền nhằm thúc đẩy các phong trào ly khai và xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc. Trong khi, Tập Cận Bình quyết tâm đưa Trung Quốc tiến lên “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” với tư duy chiến lược của Mao với trọng tâm – một cuộc đấu tranh chống bá quyền bằng cách thống nhất các nước thế giới thứ ba.
Quan điểm về việc Mỹ đang suy giảm xuất hiện từ năm 2001. Theo truyền thông Trung Quốc như Tân Hoa xã và Nhân dân Nhật Báo, “Sự đi xuống của Mỹ không còn là dự đoán vô căn cứ.” Các báo này cho rằng sức mạnh của Mỹ sẽ tiếp tục suy giảm và Mỹ chắc sẽ không thể dựa vào bá quyền của mình.” Truyền thông Trung Quốc đã nghiên cứu các nguyên nhân khiến Mỹ đi xuống, khả năng đánh đổ bá quyền Mỹ, và tìm cách để Trung Quốc đạt được vị thế siêu cường.
Để triển khai hiệu quả “chiến lược đánh vu hồi”, Trung Quốc phải hoàn thành những tiền đề nhất định – đạt được sự ổn định nội bộ, cùng với sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự - trước khi cạnh tranh với các cường quốc khác. Từ khi Đặng Tiểu Bình mở cửa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được những bước tiến lớn trong việc xây dựng sức mạnh quốc gia thông qua tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa quân đội. Đến năm 2015, Trung Quốc sẽ hoàn thành kế hoạch Năm năm lần thứ 12 của mình. Tận dụng tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 11% trong giai đoạn 2006-2010, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường số tài sản quốc gia, sản xuất nông nghiệp, và cấp tiền cho những phát minh về công nghệ vũ trụ, siêu máy tính, các hệ thống vũ khí và đường sắt cao tốc.   
Sức mạnh kinh tế và quân sự ngày càng tăng đã củng cố nhân định của Bắc Kinh rằng Trung Quốc đã đạt được vị thế nước lớn và đáp ứng đủ những tiền đề để triển khai “chiến lược đánh vu hồi”. Nhận thức về việc Trung Quốc đang nổi lên thành một siêu cường bắt đầu xuất hiện từ những năm 2000. Truyền thông Trung Quốc, như Tân Hoa xã, coi việc sở hữu tàu sân bay như một biểu tượng của vị thế siêu cường, trong khi những người khác cho rằng sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự vững mạnh mới đem lại vị thế siêu cường cho một quốc gia. Vào tháng 9 năm 2012, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc đã được đưa vào hoạt động, và Bắc Kinh muốn phá vỡ “một trụ cột tạo nên vị thế siêu cường của Mỹ” bằng việc trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới.
Bước đầu tiên trong “chiến lược đánh vu hồi” có thể được tiến hành: làm đối phương rối loạn trong việc đánh giá tình hình. Washington gần đây liên tiếp bị bất ngờ trước sự phát triển nhanh chóng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.  Các nhà hoạch định chính sách có xu hướng chỉ dựa vào những số liệu công khai để đánh giá mà không thực sự hiểu được tư duy chiến lược của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo một bản báo cáo gửi đến Uỷ ban Đánh giá Quan hệ An ninh và Kinh Tế Mỹ – Trungnăm 2012, chính phủ Mỹ và hầu hết các nhà phân tích đã bỏ qua tầm quan trọng của các tàu ngầm tấn công và máy bay tàng hình mới của Trung Quốc cũng như hệ thống tên lửa chống vệ tinh và tên lửa tiêu diệt tàu sân bay của nước này. Hậu quả từ việc không biết rõ tiềm lực của đối phương có thể dẫn đến những tính toán sai lầm và thất bại trong hoạch định chiến lược.
Bước thứ hai trong “chiến lược đánh vu hồi” là tìm cách thúc đẩy những xung đột chính trị nội bộ của đối phương. Bằng chứng của điều này là sự chia rẽ giữa cộng đồng doanh nghiệp và cộng đồng an ninh của Mỹ. Bất chấp những rào cản pháp lý và ngại về an ninh, các công ty Mỹ tiếp tục đầu tư vào Trung Quốc và xóa bỏ những ưu đãi cho nước này để Bắc Kinh thúc đẩy một môi trường kinh doanh tốt hơn cho các công ty nước ngoài. Hơn nữa, 89% công ty Mỹ hoạt động có lợi nhuận tại Trung Quốc năm 2011 đã buộc Mỹ phải nới lỏng với Bắc Kinh để bảo vệ lợi ích của mình. Trung Quốc cũng hưởng lợi từ sự tham gia của các công ty Mỹ bằng cách vi phạm luật sở hữu trí tuệ, xâm nhập vào không gian mạng của Mỹ cũng như dựa vào những hoạt động gián điệp để thu thập thông tin nhạy cảm và ăn cắp công nghệ. Việc thiếu sự phối hợp giữa chính quyền và các doanh nghiệp tư nhân Mỹ đang bị Trung Quốc khai thác cho mục đích kinh tế và chiến lược của nước này.
Bước thứ hai cũng nhằm tạo ra căng thẳng trong quan hệ của Mỹ với ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trung Quốc cố tình gây chia rẽ để đạt được ưu thế trong các cơ chế song phương. Với những công cụ song phương, Bắc Kinh có thể lôi kéo các bên bằng những lợi ích kinh tế trước mắt mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra, hoặc cưỡng bức các bên nhỏ hơn, hoặc yếu hơn trong khu vực cho mục tiêu dài hạn của nước này.
Trong bối cảnh môi trường an ninh Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay, bước thứ ba – “tiến hành một cuộc tấn công” – là chiến lược dài hạn của Bắc Kinh nhằm loại bỏ ảnh hưởng của Washington. Trong tương lai gần, CCP/PLA sẽ không ngần ngại thể hiện sức mạnh quân sự với các đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực. Bởi vậy cho đến nay, Bắc Kinh đang thử nghiệm việc đe dọa Nhật Bản, Phi-líp-pin và Việt Nam bằng các hành vi hiếu chiến trong các vùng biển tranh chấp. Cuối cùng, Trung Quốc muốn làm mất uy tín các liên minh an ninh của Mỹ, và loại bỏ hay giảm thiểu ảnh hưởng của Washington.
Có nhiều cách để Mỹ có thể thể đối phó với “chiến lược đánh vu hồi” này. Thứ nhất, Washington phải giải quyết các vấn đề nội bộ của mình. Điều này có ý nghĩa quan trọng chống lại luận điệu nước Mỹ đang suy thoái. Hơn nữa, nước Mỹ phải đi đầu làm gương và kiểm soát tốt hơn mối quan hệ gần như là thù địch với Trung Quốc. Đồng thời Washington cũng cần nỗ lực giải quyết các vấn đề như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và không gian mạng, Washington cũng cần phải nhận thức được mục tiêu tăng cường sức mạnh, và muốn “hất cẳng” Mỹ ra khỏi Châu Á của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Thứ hai, nước Mỹ nên cố gắng giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa khu vực công và khu vực tư nhân. Washington cũng cần đánh giá lại xem liệu các công ty Mỹ có thực sự đủ sức cạnh tranh trong một môi trường nơi mà các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức – có sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các thực thể công và tư. Mỹ nên phát triển kế hoạch cho các cơ chế dài hạn để tạo ra sự thống nhất này. Chính quyền tổng thống Obama nên tập trung vào các chính sách giúp khôi phục nền kinh tế nội địa và tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Mỹ. Thực ra, nước Mỹ đã có một sự khởi đầu tốt. Trong Thông điệp Liên Bang cuối tuần trước, Tổng thống Obama đặt mục tiêu khôi phục nền kinh tế Mỹ là ưu tiên hàng đầu.
Để đối phó với “chiến lược đánh vu hồi”, Washington phải ghi nhớ rằng bản chất của chiến lược này là nhằm làm giảm sức mạnh đối phương trước khi tấn công. Do chiến lược này được sử dụng để chống lại đối phương mạnh hơn nên thận trọng chính là bước đầu tiên để đối phó với chiến lược này. Mỹ cần nhận ra những yếu điểm nội tại và khắc phục một cách kịp thời. Washington cũng nên phát triển “chiến lược đánh vu hồi” của riêng mình, bao gồm các hoạt động phản gián và khiến CCP phải trả giá đắt cho các hoạt động đánh cắp thông tin và công nghệ.
Tuy nhiên, trong bối cảnh cách hành xử của CCP/PLA và “chiến lược đánh vu hồi” hiện nay, Mỹ và Trung Quốc có lẽ sẽ không thể phát triển một mối quan hệ mang tính xây dựng nếu CCP) không chịu từ bỏ mục tiêu chiến lược làm giảm ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
Jenny Lin là nghiên cứu viên tại Qũy Hòa Bình Sasakawa,  Diễn đàn Thái Bình Dương CSIS. Bà đã từng công tác tại Viện Dự án 2049, Trung tâm Nghiên cứu Quân sự Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia. (Mỹ). Bài viết được đăng trên CSIS.
Trần Quang (dịch)

Một vài nhận xét về chính sách đối ngoại của Trung Quốc


Một vài nhận xét về chính sách đối ngoại của Trung Quốc


Khác với thời của Đặng, quyền lực và ảnh hưởng trong đối nội và đối ngoại của PLA thời của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đã tăng cường một cách mạnh mẽ. Chân dung một Trung Quốc ngày một quyết đoán, thậm chí thách thức trực diện với Mỹ đã không còn là sự suy đoán.


Đại hội ĐCS/TQ (CCP) đã vạch ra cơ sở căn bản về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. TBT mãn nhiệm Hồ Cẩm Đào trong bài Báo cáo chính trị trước Đại Hội đã bày tỏ sự sẵn sàng hợp tác, nhưng nhấn mạnh rằng sẽ không nhân nhượng một tấc đất nào liên quan đến chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển của TQ trước sức ép bên ngoài. Ông Hồ Cẩm Đào cũng đã cho thấy dấu hiệu chính sách đối ngoại trong vòng năm năm tới của Bắc Kinh khi mà ảnh hưởng của TQ trên các vấn đề quốc tế không chỉ đưa lại trách nhiệm lớn hơn mà còn tạo ra những cọ xát với các nước láng giềng, với một số nền kinh tế phát triển do họ không hài lòng với sự trỗi dậy và cạnh tranh của TQ.
Không giống ẤĐ, một nước giành lại độc lập thông qua phong trào dân sự bất bạo động, nước Cộng hoà Nhân dân TQ ra đời thông qua cuộc cách mạng vũ trang. Trong hai thập kỷ đầu, các tướng lĩnh nắm giữ các chức vụ dân sự. Trong những năm 80s, Đặng Tiểu Bình cố gắng biến quân đội giải phóng nhân dân (PLA) thành một quân đội chuyên nghiệp. Nhưng giai đoạn sau Đặng, cố gắng này dưới thời Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào lại bị đảo ngược trở lại. Cả hai đều không trải qua thời kỳ trong quân ngũ và cần sự ủng hộ về chính trị của quân đội (PLA). Sự ủng hộ này đã phải trả giá. Trong giai đoạn lãnh đạo của ông Hồ Cẩm Đào, PLA đã có được quyền lực lớn nhất trong lịch sử hiện đại của TQ. Sự quyết đoán và phiêu lưu trong các quyết định của TQ đã xuất hiện từ năm 2008 và đặc biệt là từ 2010. Hiện nay, Quân giải phóng nhân dân (PLA) không có một đại diện nào trong Thường trực Bộ Chính trị (PBSC), nhưng không phải là quân đội không có quyền lực thực sự. Quyền lực của quân đội xuất phát từ tỷ lệ người đại diện chiếm 20% trong Quân Uỷ Trung ương (CMC), một tỷ lệ quá cao và không cân đối. Trách nhiệm của Quân đội TQ là đảm bảo các nguồn tài nguyên ở bên ngoài TQ như dầu, khí và các nguồn tài nguyên khác.
Mặc dù Đảng Cộng sản có tiếng nói lớn nhất nhưng Quân đội giải phóng PLA, với tư cách là một công cụ của ĐCS/TQ vẫn tham gia vào chính sách đối ngoại bởi quân đội không chỉ chịu trách nhiệm về an ninh vật chất của quốc gia mà còn bảo vệ những nguồn tài nguyên ở nước ngoài và giành lại những lãnh thổ mà TQ tranh chấp. Bởi vậy, ĐCS/TQ phải thoả hiệp với PLA. Trong vòng ba năm qua, một điều rõ ràng là Quân đội TQ đã có tiếng nói lớn không chỉ đe dọa mà còn thực hiện những biện pháp trừng phạt nhỏ đối với PLP, Việt Nam và NB trên các vấn đề lãnh thổ. Điều này không thể sớm biến mất.
Ông Hồ Cẩm Đào đã làm rõ trong báo cáo Chính trị rằng TQ sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào để làm cho quân đội TQ có đủ năng lực tham chiến với kẻ thù không chỉ bên ngoài hải phận của TQ mà còn tấn công vào tận sào huyệt của kẻ thù thông qua các cuộc chiến tranh không hạn chế. Sẽ tiến hành cơ động hoá quân đội và có những tiến bộ lớn trong việc áp dụng công nghệ thông tin quân sự vào năm 2020. Những mục tiêu này gồm giành thắng lợi trong “những cuộc chiến tranh cục bộ trong thời đại thông tin”, đồng thời an ninh vũ trụ và an ninh không gian ảo là những nhiệm vụ chiến lược phải thực hiện.
Ưu tiên tối cao vào thời điểm này là giành thắng lợi các cuộc chiến tranh cục bộ, có nghĩa là phải lấy lại những lãnh thổ còn tranh chấp vốn TQ coi đó là lãnh thổ của họ. Hiện nay, cuộc tranh chấp lớn nhất là với NB về chủ quyền của đảo Điều ngư vốn có những tác động kinh tế và chiến lược toàn cầu. Cuộc xung đột khác nữa là về quần đảo Trường Sa ở Biển Đông vốn không phải là vấn đề khu vực như TQ thường rêu rao. Sau sự kiện Thiên An Môn 1989 do bị cô lập về mặt quốc tế, Đặng Tiểu Bình đã thực hiện chiến lược “giấu mình chờ thời”. Trong thập kỷ qua, một bộ phận trong số chuyên gia chiến lược của TQ đã cố gắng đưa ra chủ thuyết rằng TQ đã trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự, vì vậy không còn lý do để che dấu sức mạnh của mình.
Một trong những chủ thuyết này là các nước phía đông của kênh đào Suez kể cả một phần của châu Phi cho tới khu vực CÁ - TBD nên đặt dưới sự bảo hộ của TQ. Một dải các nước này gồm có cả Nam Á và ẤĐ. Điều này đã được nêu ra năm 2004. Một sự lấn lướt khác là việc vừa qua, TQ coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của nước này. Điều này có nghĩa là TQ sẽ kiểm soát Biển Đông vốn là một đường hàng hải quốc tế lớn.
Cả hai chủ thuyết đó cần có sự ủng hộ của Mỹ, điều đến nay vẫn chưa xuất hiện. Nhiều ý tưởng hình thành ở TQ do sự tuyên truyền xảo trá của chính quyền nói rằng hiện nay đồng thuận Washington (Washington Consensus) phải nhường chỗ cho đồng thuận Bắc Kinh (Beijing Consensus) và Mỹ là một cường quốc đang đi xuống còn TQ là cường quốc đang trỗi dậy. Những khái niệm như vậy thời gian qua đã được củng cố khi TQ vượt NB về kinh tế từ năm ngoái, và các dự đoán của các tổ chức như Quỹ tiền tệ quốc tế IMF rằng TQ sẽ vượt Mỹ về kinh tế trong vòng 5 năm nữa.
Những dự đoán như vậy thật kỳ lạ và sai lạc vì chúng không tính đến dân số vốn quyết định sức mạnh theo đầu người, tình hình xã hội bên trong kể cả sự chênh lệch giàu nghèo, sự huỷ hoại môi trường, những dự án tai hoạ vốn rất ầm ĩ như “Đập Tam Hiệp”, sự phụ thuộc bên ngoài về nguyên nhiên liệu. Sự phụ thuộc bên ngoài là rất lớn và hiển nhiên trở thành “gót chân Asin” trong chính sách đối ngoại của TQ. Bắc Kinh đã lặng lẽ thực hiện chính sách của mình ở khu vực CÁ - TBD trong khi Mỹ đang bận dính líu tại Iraq và Afghanistan. Nhưng với việc Mỹ kết thúc chiến tranh Iraq và sự can thiệp ở Afghanistan dần kết thúc, Washington đã chuyển sự quan tâm của mình sang CÁ - TBD. Đó là chính sách của TTh Obama về “tái cân bằng ở châu Á” hay còn gọi là “Xoay trục”.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã chịu tổn thất nặng nề về người và tài chính nên đã quay lưng và nhường lại khu vực này cho TQ. Như ông Obama đã nói, Mỹ có lợi ích về an ninh, ổn định và kinh tế của khu vực và cũng như tạo việc làm cho người Mỹ. Washington đã nói rõ rằng Mỹ sẽ không làm cho các nước đồng minh của Mỹ như NB và HQ thất vọng, và sẽ thúc giục Australia tích cực hơn trên các vấn đề an ninh của khu vực liên quan đến TQ, khởi động lại hiệp định quân sự với PLP và đang xây dựng mối liên minh mới với kẻ thù cũ là Việt Nam.
TQ theo dõi những động thái của Mỹ một cách chặt chẽ kể cả chuyến thăm của TTh Obama sang Thái Lan (18/11), Myanma (19/11) và CPC dự Hội nghị ASEAN. TQ coi những nước này là thuộc vào những nước phục tùng của TQ nhưng đã cẩn thận không có phản ứng nào bất lợi. Mỹ cũng rất khôn khéo trong từng bước đi, tránh để rơi vào thế dẫn đến khiêu khích TQ. Tình hình nguyên trạng và việc TQ từ bỏ thái độ đe doạ trong khu vực tránh một cuộc chiến tranh khu vực là sự mong muốn của Mỹ hiện nay. Nhưng không may, TQ đang chuẩn bị cho những cuộc chiến hạn chế tại khu vực. Vẫn chưa rõ rằng đây có phải là một thuyết của TQ là dùng mối de dọa là để các nước đối địch khuất phục và giành chiến thắng mà không cần tiến hành chiến tranh. Khu vực chiến trường vẫn chưa rõ ràng nhưng các căng thẳng thì đang hiện rõ hơn.
Để trở thành một cường quốc, một quốc gia cần có những đồng minh mạnh và trung thành. Mỹ có rất nhiều nước như vậy trong các cường quốc NATO, nhiều nước thuộc thế giới Ả-rập và trong khu vực CÁ - TBD như NB và nhiều nước khác. Ngược lại, đồng minh của TQ chỉ có Bắc Triều Tiên, Pakistan, Zimbabwe và Iran. Sự so sánh này thật không lí thú chút nào.
Ban lãnh đạo mới của TQ đang đứng ở bên bờ vực thẳm mà từ đó họ hoặc là bay lên cao hoặc lao xuống vực. Không thể có lựa chọn thứ ba. Sự phát triển trong một quốc gia gắn chặt với chính sách đối ngoại trong một thế giới toàn cầu hiện nay. Vứt bỏ tư tưởng của Đặng Tiểu Bình vào thời điểm này và buộc các nước láng giềng phải khuất phục là một con đường khó khăn. Châu Á, đặc biệt là toàn bộ khu vực CÁ - TBD, các đường hàng hải, hàng không và vũ trụ không thể bị một nước toàn quyền kiểm soát. Các nước ở bên ngoài khu vực cũng có lợi ích ngang bằng trong việc giữ các đường giao thông này mở. Vừa qua, trước chuyến đi của TTh Obama, cố vấn an ninh quốc gia Tom Donillon đã nêu ra rõ ràng hơn sự “tái cân bằng” hay “xoay trục” của Mỹ ở châu Á.
Khi ông Dillon đảm bảo với TQ rằng Mỹ không đứng về bên nào đối với tranh chấp Biển Đông và Hoa Đông, ông đã làm rõ rằng “ASEAN” là cốt lõi của chính sách châu Á của Mỹ, rằng Mỹ ủng hộ sự mở cửa kinh tế, giải quyết hoà bình các cuộc xung đột, tự do chính trị và quản lý dân chủ. Tăng cường Liên minh an ninh với NB, HQ, Australia, PLP đã được nhắc lại và các mối liên minh tại châu Á cũng sẽ được củng cố hơn nữa. Và cuối cùng, Washington cũng khẳng định sự ủng hộ đối với việc thiết lập Đối tác xuyên Thái Bình Dương vốn lúc đầu chỉ có 7 thành viên nay đã thêm VN, Malaysia, Mexico, và Canada. NB đã bày tỏ quan tâm tham gia. TQ tỏ ra rất nghi ngờ. TQ được coi vừa là đối tác, vừa là đối thủ cạnh tranh. Mặc dầu vậy, TQ đã được thuyết phục để có trách nhiệm toàn cầu phù hợp với ảnh hưởng và tác động của nó. Đây là điều mà ban lãnh đạo mới của TQ đã nhận thức được và chấp nhận. Rất nhiều khả năng TTh Obama sẽ theo đuổi mạnh mẽ “chiến lược tái cân bằng châu Á” của ông. Đặc biệt là ông Obama không còn phải lo tái ứng cử nữa và chính sách châu Á của ông ta sẽ làm ổn định khu vực và tạo việc làm cho người Mỹ.
Ban lãnh đạo mới của TQ đã được bầu chọn xong trong một môi trường toàn cầu mới. Trách nhiệm của họ sẽ phải là đảm bảo rằng châu Á, đặc biệt là khu vực phía Đông TQ không bị bùng nổ và ẤĐ dương không bị quân sự hoá. Phần còn lại sẽ để cho mỗi thành viên trách nhiệm trong khu vực tự quyết định thái độ và lập trường của mình. Châu Á đang hướng tới một tương lai đầy thú vị.
Tác giả Bhaska Roi là nhà phân tích nổi tiếng về Trung Quốc tại Ấn Độ. Bài được đăng trên Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc Chennai, Ấn Độ.
Văn Cường (gt)

Vị thế và vai trò của Trung Quốc trong tái thiết cục diện châu Á-Thái Bình Dương


Vị thế và vai trò của Trung Quốc trong tái thiết cục diện châu Á-Thái Bình Dương

Tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương là một trật tự quốc tế tương đối ổn định, mang tính khu vực được hình thành trong quá trình tồn tại và phát triển của các nước ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trật tự này được đa số các nước trong khu vực công nhận.

Trên thực tế, đây chính là sự công nhận về vị thế cũng như vai trò của các nước khu vực này trong quá trình duy trì sự vận hành trật tự, ổn định. Các nước lớn đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng trật tự và vận hành ổn định. Vì thế, các nước lớn có ảnh hưởng quan trọng đối với việc xây dựng và giữ vững trật tự. Quá trình thay đổi tình hình thường xảy ra những biến động. Biến động là một tiêu chí quan trọng trong quá trình điều chỉnh hoặc tái thiết cục diện. Từ kinh nghiệm lịch sử cho thấy đến nay vẫn chưa xuất hiện những biến động trong việc thay đổi tình hình. Đương nhiên, trong quá trình thay đổi tình hình, mức độ biến động là khác nhau, có trường hợp biến đổi tình hình với mức độ nhẹ, thậm chí có thể gọi là biến đổi mang tính hòa bình; có trường hợp biến đổi tình hình với mức độ lớn, thậm chí xảy ra chiến tranh thế giới. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, một phần tạo thành quan trọng tình hình châu Á-Thái Bình Dương là tình hình hai cực Mỹ-Xô, song vẫn chưa thể hình thành nên một tình hình độc lập. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất, ý đồ xây dựng một cục diện thế giới do Mỹ làm chủ. Cùng với việc thực lực Mỹ suy yếu, thực lực của các nước lớn khác không ngừng nâng cao, khoảng cách thực lực giữa hai bên không ngừng thu hẹp, điều này khiến cho việc xây dựng tình hình khu vực ngày càng trở thành một hiện tượng nổi cộm mang tính quốc tế. Việc tái thiết tình hình châu Á-Thái Bình Dương chính là một biểu hiện chủ yếu. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành tiêu điểm của việc tái thiết cục diện mới 
Trước tiên, Mỹ đang chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu của mình sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Một biểu hiện quan trọng trong đó là việc Mỹ bố trí quân sự ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương vốn trở thành khu vực trọng điểm trong việc bố trí quân sự trên toàn cầu của Mỹ. Tại Hội nghị Đối thoại Shangri-La năm 2012, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ cho biết trong 8 năm tới, việc bố trí quân sự ở nước ngoài trên toàn cầu của Mỹ sẽ chuyển từ khu vực trọng điểm châu Âu sang khu vực trọng điểm châu Á-Thái Bình Dương. Tính đến năm 2020, việc bố trí lực lượng hải quân Mỹ sẽ thay đổi từ sự phân chia đều 50% cho hai khu vực Thái Bình Dương và Đại Tây Dương như hiện nay thành 60% cho khu vực Thái Bình Dương và 40% cho khu vực Đại Tây Dương; trong tình hình duy trì 10 tàu chiến như hiện nay, Mỹ dự định bố trí 6 chiếc ở khu vực Thái Bình Dương. Việc bố trí quân sự lần này đã có những thay đổi rất lớn so với việc bố trí quân sự ở nước ngoài sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc đọ sức chiến lược với Liên Xô, Mỹ luôn đặt trọng tâm bố trí quân sự tại khu vực Tây Âu, tiếp đến là khu vực Đông Bắc Á. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, việc bố trí quân sự của Mỹ ở nước ngoài từ châu Âu nghiêng sang châu Á-Thái Bình Dương, quân đội Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng chuyển dịch từ khu vực Đông Bắc Á sang khu vực Đông Nam Á. Mặc dù đã xuất hiện sự điều chỉnh này, nhưng việc bố trí lực lượng của Mỹ tại khu vực châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương vẫn giữ được trạng thái ổn định. Hiện nay, việc bố trí lực lượng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương lớn hơn so với việc bố trí lực lượng ở khu vực châu Âu, điều này phản ánh trọng tâm bố trí quân sự ở nước ngoài trên toàn cầu của Mỹ đang có sự thay đổi, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã trở thành khu vực tiêu điểm chú ý toàn cầu của Mỹ. 
Thứ hai, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành khu vực tiêu điểm của cuộc đọ sức giữa các nước lớn . Điều này được biểu hiện chủ yếu ở bốn điểm sau: một là, Nga coi khu vực châu Á-Thái Bình Dương là khu vực trọng điểm của việc phát triển ra ngoài. Cùng với việc NATO mở rộng về phía Đông và cuộc chiến tranh Côxôvô bùng nổ, việc Nga mở rộng phát triển sang châu Âu càng gặp nhiều trở ngại hơn. Hơn nữa, tâm lý phòng thủ Nga của Các quốc gia độc lập (SNG) khác xung quanh Nga không ngừng tăng lên khiến Nga coi khu vực châu Á-Thái Bình Dương là sự lựa chọn tốt nhất để mở rộng phát triển ra ngoài. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa đằng sau hàng loạt động thái của Nga trong những năm gần đây như tăng cường sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, va chạm với Nhật Bản ngày càng lớn, đẩy mạnh đầu tư vào phần lãnh thổ châu Á của mình. Hai là, “Chính sách hướng Đông” của Ấn Độ đang được thúc đẩy thực hiện. Đầu những năm 90 thế kỷ 20, Ấn Độ đã đưa ra chiến lược phát triển quốc gia mang tên “Chính sách hướng Đông”, thậm chí còn đề ra “Thế kỷ mới châu Á là thế kỷ của Ấn Độ” v.v…. Ba là, Nhật Bản tích cực mở rộng ảnh hưởng ra nước ngoài. Từ những năm 90 của thế kỷ 20, Nhật Bản bắt đầu ra sức mở rộng ảnh hưởng của mình ra nước ngoài. Trong quá trình này, Nhật Bản coi khu vực châu Á-Thái Bình Dương là trọng điểm để mở rộng ảnh hưởng của mình. Chẳng hạn như Nhật Bản coi “Khủng hoảng eo biển Đài Loan” là tiêu điểm “chú ý” của mình trong văn kiện công tác bảo vệ an ninh quốc gia, không ngừng đẩy mạnh việc tham gia các vấn đề Biển Đông, liên tục nới lỏng “Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí” cũng như không ngừng làm gia tăng những va chạm quân sự với các nước khác v.v…. Tất cả những điều này cho thấy Nhật Bản đang cố gắng nâng cao tầm ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bốn là, sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc đang được đẩy mạnh nhanh chóng, lợi ích ở nước ngoài cũng không ngừng gia tăng. Từ khi cải cách, mở cửa đến nay, thực lực kinh tế Trung Quốc không ngừng nâng cao, đặc biệt là sau khi bước vào thế kỷ mới, cùng với thực lực kinh tế nâng lên, thực lực quân sự của Trung Quốc cũng không ngừng lớn mạnh, lợi ích ở nước ngoài của Trung Quốc đang tăng với tốc độ nhanh. Điều này khiến cho lợi ích quốc gia của Trung Quốc và các nước láng giềng phát triển từ xung đột lợi ích quốc gia mang tính thông thường sang xung đột lợi ích quốc gia mang tính hạt nhân. Có thể nói, cuộc đọ sức giữa các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang diễn ra ngày càng gay gắt. 
Cùng với việc điều chỉnh chiến lược quốc gia và sự thay đổi không ngừng về tương quan thực lực của các nước liên quan trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cục diện khu vực này đang có những thay đổi bí hiểm, hay nói cách khác, cục diện châu Á-Thái Bình Dương mới đang dần xuất hiện. Tình hình châu Á-Thái Bình Dương ảnh hưởng lớn đến tình hình thế giới Từ thời kỳ cận đại đến nay, tình hình thế giới đã nhiều lần có những thay đổi. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, tình hình thế giới là cục diện hai cực do Mỹ và Liên Xô làm chủ. Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất, nhưng vẫn chưa thể xây dựng một cục diện thế giới do Mỹ làm chủ. Thế giới đang phát triển theo hướng đa cực hóa, tình hình khu vực đang trong quá trình xây dựng. Từ phía Mỹ, ý đồ chiến lược của Mỹ là xây dựng nên một cục diện thế giới do Mỹ làm chủ. Từ góc độ toàn cầu, châu lục Á, Âu là hai châu lục có tầm ảnh hưởng mạnh nhất đối với thế giới, chi phối sự ổn định và phát triển của toàn thế giới. Chỉ cần Mỹ làm chủ được cục diện Á-Âu, Mỹ có thể làm chủ cục diện thế giới. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu của việc Mỹ và Liên Xô lấy hai châu lục này làm trung tâm của cuộc đọ sức trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Mỹ rất coi trọng việc xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương. Một mặt, Mỹ đẩy mạnh tầm ảnh hưởng của mình đối với các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ví dụ như Mỹ tăng cường quan hệ với các nước đồng minh ở khu vực này như Nhật Bản và Hàn Quốc; cải tổ cơ chế an ninh hiện có của khu vực châu Á-Thái Bình Dương; nỗ lực xây dựng một cơ chế liên minh đa phương ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương v.v… Mặt khác, Mỹ thông qua việc đẩy mạnh bố trí lực lượng quân sự của mình ở khu vực này, đẩy mạnh lực hướng tâm của các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương đối với mình, đồng thời ràng buộc nhiều quốc gia khu vực này hơn nữa để không dẫn đến những biến động mới. 
Từ góc độ Nga, tuy thực lực của Nga đã có phần giảm sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng từ quỹ đạo phát triển trong lịch sử Nga, việc dân tộc này một lần nữa trỗi dậy là việc sớm muộn. Hiện nay, những vấn đề hàng đầu được Nga quan tâm là làm thế nào để xây dựng cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương, phát huy vai trò như thế nào trong tình hình mới châu Á-Thái Bình Dương hay làm thế nào để có thể lấy cục diện châu Á-Thái Bình Dương làm “nền tảng” nhằm gây ảnh hưởng đến tình hình thế giới. Vì thế, Nga không ngừng mở rộng ảnh hưởng đối với các công việc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, không ngừng dẫn dắt tình hình khu vực phát triển theo hướng có lợi cho mình, đặc biệt, Nga còn liên tục tiến hành tập trận chung ở khu vực này cũng như gây ra các va chạm với Nhật Bản, gây sức ép quân sự với nước này để hạn chế ảnh hưởng của Mỹ trong các công việc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nâng cao vị thế và vai trò của mình trong quá trình xây dựng cục diện khu vực này. Là một trong những cường quốc về kinh tế và khoa học kỹ thuật trên thế giới, khu vực châu Á-Thái Bình Dương là sân chơi để Nhật Bản “bước” vào thế giới. Nếu như vai trò của Nhật Bản trong các công việc của khu vực không được công nhận, Nhật Bản sẽ không thể phát huy vai trò lớn hơn trong các công việc quốc tế. Chính vì vậy, việc xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương là vô cùng quan trọng đối với Nhật Bản. Hiện nay, các tranh chấp về chủ quyền biển đảo cũng như quyền lợi biển giữa Nhật Bản với các nước láng giềng cũng chính là một trong những phương thức để Nhật Bản theo đuổi việc mở rộng ảnh hưởng của mình.
Đối với Trung Quốc, sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc đang không ngừng tăng lên đó là một sự thật không thể phủ nhận. Trung Quốc chủ trương phát triển hòa bình, hy vọng tình hình châu Á-Thái Bình Dương tốt đẹp là có lợi cho hòa bình và ổn định của khu vực cũng như có lợi cho tình hình phát triển của các nước trong khu vực này. Đây cũng chính là điều mà Trung Quốc chủ trương tích cực xây dựng. Đương nhiên, việc xây dựng cục diện này đòi hỏi Trung Quốc phát huy vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và duy trì cục diện đó. Cùng với việc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc sẽ ngày càng phát huy vai trò lớn hơn nữa trong quá trình xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trung Quốc cần thúc đẩy việc tái thiết cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương Trước tiên, hiện nay việc Mỹ thúc đẩy tiến trình xây dựng cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương là không có lợi cho Trung Quốc . Từ các báo cáo chiến lược do chính phủ và các cố vấn của Mỹ công bố, Trung Quốc luôn bị Mỹ coi là đối tượng cần phải kiềm chế. Về hiện thực cho thấy một mặt, Mỹ làm yếu đi ảnh hưởng của Trung Quốc bằng việc can dự vào các tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước láng giềng; mặt khác, Mỹ hạn chế tầm ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách tăng cường sự hiện diện quân sự của mình tại các nước xung quanh Trung Quốc. Không chỉ vậy, Mỹ còn tích cực xây dựng các khung quy chế về sự phát triển của Trung Quốc tại các nước xung quanh này. Có thể nói, những biện pháp trên là nhằm hạn chế vai trò của Trung Quốc trong tiến trình xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 
Thứ hai, Trung Quốc có đủ khả năng, thực lực để gây ảnh hưởng đến việc xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương: Thứ nhất, hiện nay Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, đặc biệt là kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đến nay, việc phát triển kinh tế toàn cầu liên tiếp gặp phải khó khăn, nhưng ngược lại việc phát triển kinh tế Trung Quốc vẫn giữ trạng thái ổn định. Điều này đã khiến cho nền kinh tế Trung Quốc trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển, đây chính là ưu thế về kinh tế của Trung Quốc. Thứ hai, sau khi bước vào thế kỷ mới, thực lực quân sự của Trung Quốc cũng đã được nâng cao, thậm chí còn có thể phát triển đồng bộ với kinh tế. Điều này khiến cho sức ảnh hưởng về quân sự Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương không ngừng tăng lên. Thứ ba, với tư cách là nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc có trách nhiệm gây ảnh hưởng đối với các công việc khu vực. 
Thứ ba, Trung Quốc thúc đẩy tiến trình xây dựng cục diện châu Á-Thái Bình Dương là có lợi cho việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực. Trung Quốc chủ trương xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương là có lợi cho việc duy trì sự tồn tại và phát triển của các nước khu vực này trong môi trường hòa bình và ổn định. Đây cũng là đặc điểm nổi bật trong kế hoạch xây dựng tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc cần tích cực thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch này. Từ góc độ này cho thấy Trung Quốc có một vị thế và vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng cục diện mới châu Á- Thái Bình Dương.Biến động là cơ hội mà Trung Quốc cần nắm bắt. Từ kinh nghiệm lịch sử cho thấy việc xây dựng bất kỳ cục diện mới nào đều là quá trình phân chia lại lợi ích. Các lần phân chia lợi ích này đều không phải chuyện một sớm một chiều, đòi hỏi phải khắc phục hàng loạt khó khăn, trở ngại mới có thể thực hiện được. Mặt khác, việc xây dựng bất kỳ cục diện mới nào cũng đều cần đến những cơ hội cũng như các điều kiện lịch sử thích hợp mới có thể tiến hành điều chỉnh cục diện, còn biến động ở mức độ nhất định, có thể đem lại một số cơ hội nào đó cho việc điều chỉnh cục diện. Có thể nói rằng hiện nay, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trong quá trình biến động. Đặc trưng thứ nhất, hầu hết các vấn đề “điểm nóng” trên toàn cầu đều tập trung xuất hiện ở khu vực này; đặc trưng thứ hai, trọng tâm kinh tế toàn cầu và trọng tâm xưng bá của Mỹ đều tập trung ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, gây nên các biến động trong khu vực; đặc trưng thứ ba, mâu thuẫn giữa các nước lớn trên toàn cầu dường như đều tập trung tại đây; đặc trưng thứ tư, khu vực châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực tập trung nhiều nhất các nước có hứng thú với các công việc toàn cầu. Vì vậy, Trung Quốc cần nắm bắt những biến động này để thúc đẩy tiến trình xây dựng cục diện mới châu Á-Thái Bình Dương. 
Trước tiên, biến động là cơ hội để Trung Quốc phát triển thực lực quân sự tương xứng với thực lực kinh tế . Từ khi cải cách mở cửa đến nay, thực lực kinh tế của Trung Quốc không ngừng nâng cao, phát triển sức mạnh quân sự chưa thể tương xứng với việc phát triển kinh tế, và đã xuất hiện hiện tượng lạc hậu hơn phát triển kinh tế, thậm chí ở một số lĩnh vực còn xuất hiện xu thế lạc hậu hơn các nước xung quanh. Tuy nhiên, việc phát triển sức mạnh quân sự Trung Quốc lại khiến cho một số nước cảm thấy bất mãn, thậm chí, một số nước nào đó còn rêu rao “Thuyết về mối đe dọa quân sự từ Trung Quốc”. Điều này đã ràng buộc và kiềm chế sự phát triển sức mạnh quân sự Trung Quốc. Một số nước xung quanh Trung Quốc lần lượt tăng cường đầu tư quốc phòng; nắm bắt được tâm lý muốn phát triển “thời kỳ cơ hội chiến lược” của Trung Quốc, một số nước nào đó muốn thôn tính lợi ích quốc gia của Trung Quốc, đe dọa nghiêm trọng đến chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của Trung Quốc. Điều này đều không thể tha thứ đối với bất kỳ quốc gia nào. Tuy sự biến động của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đi ngược lại chủ trương duy trì ổn định và hòa bình của Trung Quốc, nhưng lại đem lại thời cơ cho Trung Quốc mở rộng phát triển về sức mạnh quân sự. Hiện nay, Trung Quốc đang phát triển quân sự trong tình trạng bị động và an ninh quốc gia liên tục bị đe dọa. Từ góc độ này cho thấy hiện nay là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc mở rộng phát triển quân sự. Một nền kinh tế phát triển mà không có lực lượng quân sự làm hậu phương vững chắc thì đó chỉ là một nền kinh tế yếu kém, rất nhiều bài học lịch sử đã mách bảo với chúng ta điều này. Trên thực tế, sự thách thức của một số nước xung quanh nào đó đối với Trung Quốc được bắt nguồn từ tâm lý: Một là, sức mạnh quân sự Trung Quốc yếu kém; hai là, Trung Quốc không dám sử dụng vũ lực. Trong hai tâm lý trên, sức mạnh quân sự Trung Quốc yếu kém lại chiếm phần chủ yếu. 
Thứ hai, biến động là cơ hội để Trung Quốc thực hiện việc điều chỉnh tình hình sức mạnh. Lướt qua lịch sử phát triển của các nước lớn có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới, không khó để nhận ra các quốc gia này đều phát triển trong bối cảnh quốc tế có biến động lớn, đồng thời cũng trong bối cảnh ấy, các quốc gia này đã thực hiện việc điều chỉnh so sánh sức mạnh, tức là tái thiết cục diện sức mạnh thế giới. Cùng với sức mạnh tổng hợp quốc gia của Trung Quốc không ngừng tăng, điều này tất nhiên sẽ làm thay đổi tình hình sức mạnh thế giới. Trung Quốc chủ trương phát triển hòa bình, không mong muốn tái thiết tình hình sức mạnh thế giới thông qua con đường chiến tranh mang tính thế giới. Đương nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ không gặp phải bất kỳ sự biến động nào mang tính cục bộ trong quá trình phát triển hùng mạnh. Hiện nay, Trung Quốc phải đối mặt với những biến động của khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và thực chất của sự biến động này là những biểu hiện bề ngoài của việc sức mạnh khu vực này đang tiến hành xây dựng lại. Trung Quốc cần xác lập vị thế mới của mình trong tình hình sức mạnh châu Á-Thái Bình Dương bằng chính những chủ trương và hành động của mình. Những biến động trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương cần trở thành cơ hội và thời cơ tốt đẹp để Trung Quốc xác định vị thế của mình trong tình hình khu vực này. 
Thứ ba, biến động là cơ hội để Trung Quốc thể hiện tầm ảnh hưởng của mình. Trung Quốc chủ trương phát triển hòa bình, hàm ý của nó được thể hiện ở hai mặt: Một là, phát triển trong bối cảnh không có chiến tranh mang tính chất toàn thế giới; hai là, một nền hòa bình ở thế động chứ không phải ở thế tĩnh, là một nền hòa bình mang tính tương đối chứ không phải mang tính tuyệt đối. Xuất phát từ nhận thức như vậy, các biến động của khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nay vẫn có lợi cho Trung Quốc. Tục ngữ có câu “Thời thế tạo anh hùng”, hiện tại Trung Quốc cần nắm bắt cơ hội lịch sử mà những biến động này gây ra, lấy thực lực bản thân làm hậu thuẫn để mở rộng quyền phát ngôn cũng như tầm ảnh hưởng của mình, soạn ra “quy tắc trò chơi” mới. 
Cuối cùng, biến động là cơ hội để Trung Quốc giải quyết những mâu thuẫn tồn tại với các nước xung quanh. Hiện nay, giữa Trung Quốc và các nước xung quanh còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn và xung đột, nếu như không bắt tay vào giải quyết, chúng sẽ mãi là “hòn đá tảng cản đường” hạn chế sự phát triển của Trung Quốc. Sở dĩ nói biến động đem lại thời cơ cho Trung Quốc và các nước xung quanh giải quyết các “vấn đề” là bởi lẽ, thứ nhất, biến động tạo ra nhiều cơ hội “tiếp xúc” hơn nữa cho hai bên; thứ hai, biến động đem lại cơ hội cho các nước liên quan so sánh thực lực, vì vậy, đằng sau của việc giải quyết vấn đề quốc tế cần phải dựa vào thực lực; thứ ba, biến động đã thúc đẩy các nước liên quan chú ý đến việc giải quyết các “vấn đề” này. Từ góc độ này cho thấy Trung Quốc cần nắm chắc cơ hội do biến động gây ra, từ đó thúc đẩy việc giải quyết các mâu thuẫn và xung đột với các nước xung quanh. Trên thực tế, quá trình giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa Trung Quốc và các nước xung quanh chính là quá trình xây dựng cục diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương./. 
Theo Tạp chí “Thế giới đương đại” – Trung Quốc 
Vũ Hiền (gt)

Quan hệ Mỹ-Triều và nền Hòa bình "nóng" ở Đông Bắc Á

Quan hệ Mỹ-Triều và nền Hòa bình "nóng" ở Đông Bắc Á
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (trái) và Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida tại Tokyo, ngày 14/4/2013.
"Cái mà chúng ta cần nói lúc này là khả năng hòa bình. Và tôi nghĩ vẫn còn có những khả năng đó" - Phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong cuộc gặp với người đồng cấp Nhật Bản Fumio Kishida tại Tokyo hôm 14/4.
Trái với dự đoán của các nhà quan sát, không nhà lãnh đạo cấp cao nào của Mỹ, từ Tổng thống, Bộ trưởng ngoại giao đến Bộ trưởng quốc phòng chọn châu Á là điểm đến cho chuyến xuất ngoại đầu tiên của mình sau khi ông Obama nhậm chức nhiệm kỳ hai. Tuy nhiên, với những ai còn nghi ngờ về cam kết của Mỹ với chiến lược tái cân bằng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, phản ứng quân sự quyết liệt của Mỹ đối với Triều Tiên, cùng các tuyên bố không khiêu khích, nhưng cứng rắn của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong suốt chuyến thăm ba nước Hàn Quốc Nhật Bản và Trung Quốc từ 11-14/4 vừa qua là câu trả lời khá rõ ràng.
Trấn an đồng minh, răn đe đối phương
Thông điệp xuyên suốt chuyến đi của ông Kerry là Mỹ luôn sát cánh cùng các đồng minh châu Á của mình, thuyết phục Bắc Kinh gây áp lực với Bình Nhưỡng từ bỏ chương trình hạt nhân, rằng Mỹ sẽ không lùi bước trước đe dọa của Triều Tiên và chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống xấu nhất.
Hàn Quốc là nước đồng minh nằm ngay sát giới tuyến và luôn đối mặt với nguy cơ chiến tranh cận kề, đặc biệt kể từ sau khi Bình Nhưỡng chuyển sang tình trạng chiến tranh với Seoul, triển khai các hệ thống tên lửa và đe dọa sẽ tấn công bất cứ lúc nào. Đặc biệt, với 15.000 khẩu pháo được triển khai tại các vị trí trọng yếu xung quanh Seoul, toàn bộ thủ đô và các vùng phụ cận của nền kinh tế lớn thứ 15 trên thế giới có nguy cơ tan thành mây khói trong phút chốc một khi nổ ra chiến tranh. Trong tình thế như vậy, cam kết bảo vệ đồng minh Hàn Quốc bằng mọi giá của ông Kerry không chỉ khiến người Hàn Quốc yên tâm, mà các đồng minh khác của Mỹ cũng thấy vững lòng.
Với Nhật Bản, mặc dù cách Triều Tiên gần 1000km nhưng vẫn nằm trong tầm hỏa lực tên lửa của Bình Nhưỡng. Trong bối cảnh Nhật Bản chưa tự đủ sức để bảo vệ trước các cuộc tấn công tên lửa, cùng những lo ngại về sự trỗi dậy quá nhanh và hành động quyết đoán của Trung Quốc thì những cam kết mạnh mẽ từ phía Mỹ sẽ là những liều thuốc "an thần" cần thiết. Trung Quốc tuy được xem là nước có ảnh hưởng nhất đối với Triều Tiên, nhưng việc ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ tận dụng tình hình căng thẳng để đẩy mạnh vũ trang, lập thế cân bằng quân sự mới ở Đông Bắc Á gây bất lợi cho Trung Quốc đang khiến Bắc Kinh "đứng, ngồi không yên". Việc ông John Kerry xuất hiện tại Bắc Kinh vào giữa lúc căng thẳng leo thang cho thấy cả hai nước sẽ hợp tác để giải quyết căng thẳng, chứ không ở hai bên chiến tuyến như thời kỳ "Kháng Mỹ, viện Triều" 1950-1953 trước đây. Nhưng việc gây sức ép để Trung Quốc gia tăng áp lực với Triều Tiên cũng không dễ vì ảnh hưởng hiện nay của Trung Quốc ở Triều Tiên khá hạn chế. Ngoài ra Trung Quốc còn có những tính toán riêng trong việc giữ ở bán đảo Triều Tiên ở trạng thái "không hòa, không chiến".
Ưu tiên đàm phán, nhưng...
Tại cả ba nơi viếng thăm, Ngoại trưởng Kerry liên tục phát tín hiệu sẵn sàng đàm phán với Triều Tiên nếu nước này thật sự có thiện chí, với mục đích "xì hơi" căng thẳng và tránh cho khu vực rơi vào thảm họa chiến tranh. Tuy mô tả Triều Tiên là một "mối đe dọa không thể chấp nhận được dù theo bất cứ tiêu chuẩn nào", ông Kerry cũng nhấn mạnh, "lựa chọn của chúng tôi là đàm phán, là cùng ngồi vào bàn và tìm ra con đường để khu vực có được hòa bình" và cho biết Mỹ sẵn sàng nối lại đối thoại nếu Bình Nhưỡng từ bỏ các chương trình hạt nhân. Bên cạnh đó, ông Kerry cũng không quên giơ cao củ cà rốt với việc gợi khả năng tái viện trợ tài chính cho Triều Tiên.
Tuy ông Kerry khéo léo trang trí bằng những lời lẽ ngoại giao bên ngoài, nhưng Bình Nhưỡng cũng mau chóng nhận thấy hai yêu cầu tiên quyết của họ để giảm căng thẳng là: (i) được công nhận là "cường quốc" hạt nhân, tức ở vào vị thế và được đối xử ngang như Mỹ, Trung Quốc và các cường quốc hạt nhân khác; và (ii) việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, đảm bảo an ninh từ phía Mỹ không được đáp ứng. Chính vì vậy, Triều Tiên đã bác bỏ các đề nghị hòa đàm của Mỹ, cho rằng "không thực chất".
Còn phía Mỹ không muốn tỏ ra yếu thế đã cho rằng "các phát biểu của ông Kerry đã bị Bình Nhưỡng hiểu sai". Đồng thời, để thể hiện sự cứng rắn, trong cuộc trả lời phỏng vấn Hãng tin NBC ngày 16/4, Tổng thống Obama nhấn mạnh "Mỹ đang áp dụng các biện pháp dự phòng cần thiết và việc tái bố trí hệ thống phòng thủ tên lửa là để phòng vệ trước các tính toán của Triều Tiên".
Mặc dù chưa đạt được kết quả cụ thể, song qua chuyến thăm đầu tiên đến Đông Á ông Kerry đã thể hiện khá tốt vai trò "quản lý khủng hoảng". Với những gì diễn ra cho đến nay, Mỹ được xem là một trong những bên liên quan "hưởng lợi" nhiều nhất từ cuộc khủng này. Tuy nhiên, nếu tình hình tiếp tục diễn biến xấu thì khả năng Mỹ sẽ mất cả "vốn" lẫn "lời" là rất cao và đây là những thử thách không nhỏ đang đặt lên vai ông Kerry và các cộng sự trong thời gian tới.
Hoàng Tú Linh