Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

Quan hệ đối tác chiến lược Việt-Ấn: Không gian và khoảng cách

Vietnam-India Strategic Partnership: Spaces and Gaps Shresht Jain
Research Intern, CRP, IPCS 
E-mail: shreshtjain@gmail.com 



Except few stints, one of which being Vietnam supporting its ideological partner China during the Indo-China war of 1962, the India-Vietnam relationship has remained exceptionally cordial since its foundation was laid by Prime Minister Nehru and Ho Chi Minh more than five decades ago. The relationship has nurtured more since the inception of the Joint Commission Meeting at the Ministerial and Strategic level in 2007, which provided a larger framework for bilateral cooperation in areas such as trade, economics, security, and science and technology. What are the spaces of convergence between India and Vietnam; and the strategic gaps to achieve those spaces? What can be done to realise the potential?

Indo-Pacific: A Shared Interest
Strategically, India holds a geopolitical location that straddles the land and maritime space between the East and the West. The interaction between Asia-Pacific and South Asia in areas such as economic corporation and security initiatives can be clubbed together to form a broader view of Indo-Pacific, wherein India could play a larger role in maintaining peace and security.

India along with the US is committed to reject the use of force and support freedom of navigation. With Hanoi under relentless pressure from Beijing over the South China Sea, the Vietnamese foreign minister might have pressed India to play a more proactive role in defusing tensions and to let Indian companies like ONGC Videsh Limited (OVL), the overseas arm of the country’s oil conglomerate, continue with the exploration of two oil blocks that have been allocated to it in the disputed water body. Moreover, a shared common interest with the ASEAN and the US will allow India to engage in conducting offshore exploration and create a balance vis-à-vis China.

Trade and Investments: Strengthening Partnership
Currently, India-Vietnam bilateral trade is around USD4 billion and is expected to exceed USD5 billion by the end of the year. The two sides have decided to scale up trade to USD7 billion by 2015, a relatively modest target compared to the USD60 billion trade target set by China in relation to Vietnam. Clearly, there remains huge potential, both in terms of trade and investment, between the two countries.

Vietnam is greatly impressed by the IT sector in India. India has set up a USD2 million worth Vietnam-India Advanced Resource Centre in ICT (ARC-ICT) in Hanoi and is providing a PARAM Supercomputer. Investments by Indian companies totals approximately USD936 million in 86 projects in sectors such as oil and gas exploration, mineral exploration and processing, sugar manufacturing, agro-chemicals, IT, and agricultural processing.

Recently, Vietnam has chosen Tata Power as developer for a USD1.8 billion 2X660 MW Long Phu 2 Thermal Power Project in Soc Trang Province in southern Vietnam, despite strong competition from Korean and Russian companies. It will be the single largest Indian investment in Vietnam when it comes through and will give a strong boost to economic cooperation and the strategic partnership.

Road Blocks to Success
In terms of trade, India still stands tenth as a trading partner to Vietnam. Fundamentally, Indian firms can only perform well on foreign soil if the regulatory climate in that country is conducive enough for it to sustain. India has some problems related to land acquisition in Vietnam, which is hampering the pace with which manufacturing industries can set up their bases in Vietnam.

In terms of India’s energy security, Vietnam’s offshore deposit offers opportunities for exploration and eventual supply, but the fragility in the UNCLOS allows China to put pressure on Vietnam. Though India has shown stern determination to ensure freedom of navigation, cases like the Chinese warning to Indian Navy stating that ’you are entering Chinese Water’ when Indian Naval Vessel, INS Arihant while sailing at a distance of 45 nautical mile from the Vietnamese Coast drop a hint that the India-Vietnam relationship will be best served if International laws are universally adhered to.

With respect to the strategic alliance, a major shortcoming has been the lack of infrastructure in Vietnam. ONGC did face a few problems in regard to the interpretation of the oil and gas reserves in its study area and so, relinquished a few of the blocks. Subsequently, there have been diplomatic rows between China and Vietnam on the issue of exploration of gas by PetroVietnam and British Petroleum (BP) on the planned USD2 billion gas field and pipeline project off Vung Tau in the southern coast, which is close to the Lan lay-Lan Do project where ONGC is a partner.

Realising the Potential
As a traditional partner of India, Vietnam has been recognised as an important factor in India’s Look East Policy (LEP). The coincidence of India’s LEP and Vietnam’s policy of cementing its relationship with traditional friends and multi-lateralising and diversifying its international relations lead to the establishment of Vietnam-India Strategic Partnership. A coincidence like this is appropriate to sort differences at the bilateral level.

An improved trade relation with Vietnam will have positive externalities. Given the leverage that India has on Information and Technology, Vietnam could well be the starting point in the region for such advancement and also to impress its neighbours further down the line. As for Vietnam, working in full capacity with India will fetch it economic and strategic benefit and also empower Vietnam to generate better sync with its ASEAN counterparts .


Dưới đây là bản dịch 
Quan hệ đối tác chiến lược Việt-Ấn: Không gian và khoảng cách 
Ngoài một số ít hạn chế, quan hệ giữa Ấn Độ và Việt Nam vẫn nồng ấm kể từ khi Thủ tướng Nehru và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng cách đây hơn 5 thập niên.
Quan hệ song phương đã trở nên chín muồi hơn kể từ khi hai bên bắt đầu Hội nghị Ủy ban hỗn hợp cấp bộ trưởng và quan hệ song phương được nâng lên mức đối tác chiến lược năm 2007, tạo bộ khung lớn hơn cho hợp tác song phương trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế, an ninh, khoa học và công nghệ. Đâu là những không gian hội tụ giữa Ấn Độ và Việt Nam? Có thể làm gì để khai thác những tiềm năng này?
Về mặt chiến lược, Ấn Độ có vị trí địa chính trị án ngữ trên đất liền và không gian biển giữa Đông và Tây. Ảnh hưởng của Thái Bình Dương và Nam Á trong các lĩnh vực như hợp tác kinh tế và đảm bảo an ninh có thể hợp lại để tạo nên cách nhìn rộng hơn về Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nơi Ấn Độ có thể đóng một vai trò lớn hơn trong duy trì hòa bình và an ninh. Cùng với Mỹ, Ấn Độ đã cam kết phản đối sử dụng vũ lực và ủng hộ tự do hàng hải. Với việc Hà Nội liên tục bị sức ép từ Bắc Kinh trên Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam có thể đã hối thúc Ấn Độ đóng vai trò tích cực hơn nhằm giảm căng thẳng và để các công ty Ấn Độ, như ONGC Videsh Limited (OVL) tiếp tục thăm dò hai lô dầu của Việt Nam trong khu vực mà Trung Quốc tranh chấp.

Về thương mại và đầu tư, kim ngạch thương mại hiện nay giữa Việt Nam và Ấn Độ đạt khoảng 4 tỷ USD và dự kiến sẽ vượt ngưỡng 5 tỷ USD vào cuối năm nay. Hai bên đã quyết định tăng kim ngạch thương mại lên 7 tỷ USD vào năm 2015, một mục tiêu khá khiêm tốn so với mục tiêu kim ngạch thương mại song phương 60 tỷ USD mà Trung Quốc đề ra trong quan hệ với Việt Nam. Rõ ràng, vẫn còn tiềm năng lớn trong thương mại và đầu tư giữa hai nước. Việt Nam quan tâm đến lĩnh vực công nghệ thông tin (IT) của Ấn Độ. Ấn Độ đã thành lập Trung tâm nguồn lực công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại (ARC-ICT) tại Hà Nội và cấp cho Việt Nam một siêu máy tính PARAM. Tổng đầu tư của các công ty Ấn Độ xấp xỉ 936 triệu USD trong 86 dự án thuộc các lĩnh vực thăm dò dầu khí, thăm dò và khai thác khoáng sản, sản xuất đường, hóa chất nông nghiệp, công nghệ thông tin và chế biến nông sản.

Mới đây, Việt Nam đã chọn Tata Power xây dựng nhà máy nhiệt điện Long Phú 2, với vốn đầu tư 1,8 tỷ USD tại tỉnh Sóc Trăng, bất chấp sự cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty Nga và Hàn Quốc. Đây là dự án đơn lẻ lớn nhất của Ấn Độ tại Việt Nam, sẽ tạo nên lực đẩy mạnh đối với hợp tác kinh tế và quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước. Ấn Độ đứng thứ 10 trong số các đối tác thương mại của Việt Nam. Về cơ bản, các công ty Ấn Độ chỉ có thể hoạt động tốt trên lãnh thổ nước ngoài nếu các quy chế tại nước đó đủ điều kiện cho họ tồn tại. Ấn Độ đang vướng một số vấn đề liên quan đến đất đai tại Việt Nam, cản trở các doanh nghiệp chế tạo thành lập các cơ sở tại Việt Nam.

Trong lĩnh vực an ninh năng lượng của Ấn Độ, các mỏ dầu ngoài khơi của Việt Nam tạo cơ hội cho các công ty Ấn Độ thăm dò và cuối cùng là cung ứng năng lượng, song tính mong manh của Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS) đã cho phép Trung Quốc gây sức ép đối với Việt Nam. Mặc dù Ấn Độ đã thể hiện quyết tâm bảo đảm tự do hàng hải, song những trường hợp như Trung Quốc khuyến cáo hải quân Ấn Độ rằng “bạn đang đi vào vùng biển Trung Quốc”, khi tàu hải quân INS Arihant của Ấn Độ cách bờ biển Việt Nam 45 hải lý, đã gợi lên một suy nghĩ rằng quan hệ Ấn Độ-Việt Nam sẽ được bảo vệ tốt nếu luật pháp quốc tế được tất cả các bên tôn trọng.

Là một đối tác truyền thống của Ấn Độ, Việt Nam đã được công nhận như một nhân tố quan trọng trong chính sách “hướng Đông” (LEP) của Ấn Độ. Sự trùng hợp của LEP của Ấn Độ và chính sách của Việt Nam tích cực kết nối quan hệ với những bạn bè truyền thống, đa phương hóa và đa dạng hóa trong các mối quan hệ quốc tế đã dẫn tới việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Ấn Độ. Đối với Việt Nam, khai thác hết tiềm năng hợp tác với Ấn Độ sẽ mang lại lợi ích kinh tế và chiến lược, đồng thời giúp Việt Nam “đồng bộ hóa” với các đối tác ASEAN.
Theo “IPCS” (ngày 23/7)

Những nhân tố khiến Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn

Trade winds, China drive US, Vietnam in closer embrace n diplomacy, there are no permanent enemies, but only friends to be made. In a new congruence of strategic and economic interests, the leaders of US and Vietnam met in Washington for landmark talks that seek to open a new chapter in relations between the former foes.
Truth and Reconciliation

The reconciliation has been in the making for quite some time, but the US rebalancing towards Asia, a growing unease in Hanoi over China’s postures in South China Sea and the imperatives of trade are pushing the US and Vietnam in a closer embrace.

Beijing must be watching carefully the hugs and bonhomie as US President Barack Obama welcomed Vietnamese President Vietnam’s President Truong Tan Sang in the White House, and spoke eloquently about the letter from legendary Vietnamese leader Ho Chi Minh to Harry S. Truman. “…we discussed the fact that Ho Chi Minh was actually inspired by the U.S. Declaration of Independence and Constitution, and the words of Thomas Jefferson,” said Obama.

Mr Sang is only the second Vietnamese president to have visited the US since the two countries resumed diplomatic ties in 1995 and nearly four years after the two countries ended a brutal war that inflicted countless casualties on both sides. The memories of the Vietnam war still hover in the air, but pragmatism and new strategic calculations favour a deepening of rapprochement.

Against this backdrop, the talks between the leaders of the US and Vietnam July 25 focused on the Trans-Pacific Partnership that seeks to provide a fresh impetus to bilateral trade and investment. Pushing for stronger US-Vietnam relations, Obama struck a note of reconciliation and realism. “We all recognise the extraordinarily complex history between the US and Vietnam. Step by step we have been able to establish a degree of mutual respect and trust,” said Mr Obama.

The Vietnamese leader was also refreshingly pragmatic as he pushed for an upgrade in the Washington-Hanoi ties. “We touched upon the war legacy issues including human rights which we still have differences on,” said Mr Truong Tan San.

Looking ahead, he stressed that these issues should not prevent closer links between the two countries as he invited Mr Obama to visit Vietnam.
China Factor

Tobama-vietnam3he visit by the Vietnamese president to the US has been widely seen and interpreted as part of Hanoi’s strategy to seek counterbalance against perceived Chinese assertiveness in the South China Sea. China is Vietnam’s largest trading partner, but the relations have been strained recently by renewed assertion of claims on the disputed China Sea by both Hanoi and Beijing. In this context, the TPP could prove to be a useful avenue for Vietnam to diversify its trade relationship to lessen its dependence on Beijing.
American analysts have cited the China factor as a key propellant driving the US and Vietnam closer. “When Vietnam feels insecure, who is it going to feel insecure about? Laos? Cambodia? Thailand? The United States is too far away … so China,” University of Virginia political scientist Brantly Womack, a long-time watcher of US-China-Vietnam relations, told Voice of America.

In a bid to protect its strategic autonomy, Vietnam is not just courting the US, but is also trying to persuade rising Asian powers like India to play a more proactive role in the East Asia theatre. The Vietnamese prime minister sprang a surprise last year when he exhorted India to play a more proactive role in defusing the South China Sea crisis.

Against this backdrop, the Vietnamese leader said in Washington: “Amidst a changing regional and world landscape, the major powers, including the United States, have an important role and responsibility in dealing with hotspots in the region such as the East Sea – East China Sea and such global issues as energy security, food security, transnational crime, climate change, and so on. This has become ever more imperative.” “In that spirit, Vietnam welcomes the United States enhanced cooperation with the Asia Pacific for peace, stability, and development in the region,” he added.
No Permanent Enemies, Only Friends

The US has smelt an opportunity in Vietnam’s China anxieties as well as in the ongoing economic resurgence of the Southeast Asian country. It’s not easy to let go of burdens of history, but Washington is ready to walk that extra mile to build a lasting reconciliation with Hanoi. This new spirit of pragmatism and flexibility could be sensed in US U.S. Secretary of State John Kerry’s welcome speech at a working lunch he hosted for the visiting Vietnamese president. “The Vietnamese have learned from their own history that we all have no permanent enemies, only friends yet to be made,” he said.
It’s Economics! Vietnam Success Story

“Today, when Americans hear the word Vietnam, they are able to think of a country, not a war. And that is our shared accomplishment. In the past 18 years, the wisdom of normalization has been amply proven. Vietnam has emerged as one of Asia’s great success stories.”

The Vietnamese leader welcomed the deepening of economic linkages and indicated his readiness to walk the extra mile to address human rights concerns through an honest dialogue.

“I’m also happy to note that economic trade ties continue to stay at the heart of bilateral relations, serving both as the cornerstone of and an engine for the overall relationship.” The United States is now a leading economic trade partner and the largest export market of Vietnam,” he said.

“Our two countries have continued to maintain dialogues on issues of mutual interest, including human rights. Through dialogues, we have achieved better mutual understanding, particularly about each other’s approach and distinct cultural and historical circumstances. Vietnam has been making sustained efforts to protect and promote human rights so that the people can benefit from the finest results of the reform process which is going on.”


Những nhân tố khiến Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn Trong ngoại giao, không có kẻ thù vĩnh viễn mà chỉ có tình bạn sẽ được tạo nên. Trong sự tương đồng mới về các lợi ích chiến lược và kinh tế, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam đã gặp nhau tại Washington để tiến hành cuộc hội đàm mang tính bước ngoặt, nhằm tìm cách mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai cựu thù. 
in cậy và hòa giải: Tiến trình hòa giải giữa hai nước đã được triển khai. Chính sách tái cân bằng của Hoa Kỳ đối với châu Á, sự khó chịu ngày càng tăng của Việt Nam trước các hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông và yếu tố thương mại đang thúc đẩy Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Bắc Kinh đã theo dõi chặt chẽ những cử chỉ thân thiện của Tổng thống Barack Obama khi đón tiếp Chủ tịch Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng và phát biểu của ông Obama về bức thư mà nhà lãnh đạo huyền thoại của Việt Nam Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ, ông Harry S.Truman. Tổng thống Obama nói: “Chúng tôi đã thảo luận thực tế rằng Hồ Chí Minh thực sự có nguồn cảm hứng từ Tuyên ngôn độc lập và bản Hiến pháp của Hoa Kỳ…”.

Ông Trương Tấn Sang là Chủ tịch Việt Nam thứ hai tới thăm Hoa Kỳ kể từ khi hai nước nối lại quan hệ ngoại giao năm 1995 và gần 40 năm sau khi hai nước chấm dứt cuộc chiến tranh gây thương vong lớn cho cả hai phía. Những ký ức về cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn, song chủ nghĩa thực dụng và những toan tính chiến lược đã giúp hai nước đẩy mạnh quan hệ hợp tác. Trong bối cảnh này, cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam ngày 25/7 đã tập trung vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm tạo ra những động lực mới cho thương mại và đầu tư. Trong khi thúc đẩy mạnh mẽ hơn quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam, ông Obama đã lưu ý đến sự hòa giải và chủ nghĩa thực tế. Ông nói: “Chúng tôi đều công nhận lịch sử cực kỳ phức tạp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Từng bước, chúng ta có thể thiết lập một mức độ tôn trọng và tin cậy lẫn nhau”. Lãnh đạo Việt Nam cũng khá thực tế khi hối thúc nâng cấp quan hệ giữa Washington và Hà Nội.

Nhân tố Trung Quốc đối với quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam: Chuyến thăm của Chủ tịch Việt Nam tới Hoa Kỳ được dư luận hết sức chú ý theo dõi và được coi là một phần chiến lược của Hà Nội nhằm đối trọng với sự hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, song quan hệ hai bên trong thời gian gần đây trở nên căng thẳng do tuyên bố chủ quyền của cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội về khu vực tranh chấp trên Biển Đông. Trong bối cảnh này, TPP có thể chứng tỏ là một “đại lộ hữu ích” để Việt Nam đa dạng hóa quan hệ thương mại nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

Các nhà phân tích Hoa Kỳ cho rằng Trung Quốc là tác nhân chủ chốt đẩy Hoa Kỳ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Nhằm bảo vệ quyền tự trị chiến lược của mình, Việt Nam không chỉ tranh thủ Hoa Kỳ mà còn cố gắng thuyết phục các nước đang nổi trong khu vực châu Á như Ấn Độ đóng vai trò tích cực hơn trên trường Đông Á. Năm ngoái, Thủ tướng Việt Nam đã khiến dư luận ngạc nhiên khi kêu gọi Ấn Độ đóng vai trò tích cực hơn nhằm tháo gỡ cuộc khủng hoảng ở Biển Đông.

Không có những kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có bạn bè: Hoa Kỳ đã phát hiện ra cơ hội từ những mối lo ngại của Việt Nam về Trung Quốc, cũng như sự trỗi dậy của nền kinh tế Đông Nam Á này. Không dễ loại bỏ những gánh nặng lịch sử, song Washington đã sẵn sàng đi xa thêm để xây dựng một mối quan hệ hòa giải bền vững với Hà Nội. Tinh thần mới này của chủ nghĩa thực dụng và chính sách linh hoạt của Hoa Kỳ có thể được nhận thấy trong bài diễn văn chào mừng của Ngoại trưởng John Kerry tại bữa ăn trưa làm việc mà ông dành cho Chủ tịch Việt Nam. Ông nói: “Người Việt Nam đã học được từ lịch sử của họ rằng chúng ta không có những kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có những mối quan hệ bạn bè chưa được thiết lập… Ngày nay, mỗi khi nghe từ 'Việt Nam', người ta có thể nghĩ đến một đất nước, chứ không nghĩ đến chiến tranh. Trong 18 năm qua, tính sáng suốt của quyết định bình thường hóa quan hệ đã được chứng minh đầy đủ. Việt Nam đã nổi lên như một trong những câu chuyện thành công lớn của châu Á”.

Chủ tịch Việt Nam hoan nghênh việc làm sâu sắc thêm các mối liên hệ kinh tế với Hoa Kỳ và khẳng định sẵn sàng đi xa hơn trong việc giải quyết những mối lo ngại về nhân quyền thông qua cuộc đối thoại chân thành nhất. Chủ tịch Trương Tấn Sang nói: “Tôi rất vui mừng lưu ý rằng quan hệ kinh tế thương mại tiếp tục là trung tâm của mối quan hệ toàn diện. Hoa Kỳ hiện là đối tác kinh tế-thương mại hàng đầu của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hai nước chúng ta tiếp tục duy trì các cuộc đối thoại về những vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề nhân quyền. Thông qua các cuộc đối thoại, chúng ta sẽ hiểu biết nhau hơn…”.

Theo India Writes

Mỹ và “Bài toán” Biển Đông

Mỹ và “Bài toán” Biển Đông

Mỹ phải đưa ra những sự lựa chọn khó khăn và thực hiện các nỗ lực cần thiết để có thể duy trì hòa bình tại Biển Đông trong năm 2013 và trong những năm kế tiếp.
Những căng thẳng khuấy động Biển Đông năm 2012 vẫn tiếp tục tồn tại ở khu vực trong năm 2013.
Cho dù đã có những dấu hiệu tích cực trên mặt trận ngoại giao, tuy nhiên tình trạng hiện tại đang hướng khu vực đến một cuộc đối đầu kéo dài, âm ỉ trong năm nay và trong những năm tiếp theo. Quá trình tìm kiếm các động lực mới cho sự ổn định chung cũng như các sáng kiến như Bộ quy tắc ứng xử có thể sẽ tiếp tục được tiến hành trong bối cảnh căng thẳng tồn tại lâu dài. Những trở ngại này bao gồm các yêu sách lãnh thổ chồng chéo, các thể chế khu vực yếu kém, sự thiếu tôn trọng luật biển quốc tế, làn sóng chủ nghĩa dân tộc đang gia tăng tại khu vực, quá trình hiện đại hóa quân sự đang diễn ra, và một Trung Quốc đang ngày càng trở nên quyết đoán và được dẫn dắt bởi giới lãnh đạo mới luôn đề cao sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc - coi đây là thông điệp chính của họ.
Không chỉ lảng tránh áp lực từ nhiều nước, Trung Quốc còn ngày càng mở rộng yêu sách của họ về các quyền trên biển, sử dụng các đội tàu hải quân, tàu bảo vệ bờ biển, tàu cá và thậm chí là cả tàu du lịch hiện diện trong các vùng nước có tranh chấp tại Biển Đông. Ngoài ra, nước này cũng đang củng cố nguyên tắc, chỉ có các quốc gia có tranh chấp mới có thể giải quyết tranh chấp.
Trong khi đó, những diễn biến này đã ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu chiến lược của Mỹ tại khu vực, trong đó có việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, duy trì quyền tự do trên biển (cho cả Lực lượng Hải quân của Mỹ, lực lượng đã gìn giữ hòa bình hàng hải tại Châu Á trong 70 năm qua), duy trì quyền tiếp cận tới các tuyến thông thương trên biển (SLOCs) và xây dựng một hệ thống mở, dựa trên luật pháp để quản lý các lợi ích quan trọng này của cộng đồng quốc tế.
Do ngoại giao không phải là một công cụ hữu hiệu để kiềm chế căng thẳng tại Biển Đông, Mỹ cần phải xem xét những phương thức khác mà nước này có thể làm để gìn giữ hòa bình và thúc đẩy hơn nữa sự thịnh vượng của khu vực. Mỹ cần phải tiến hành các bước đi cụ thể để tăng cường năng lực cho các đồng minh và các đối tác để những nước này tự bảo vệ mình trước sự đe dọa và hiếu chiến (từ Trung Quốc – ND), củng cố lòng tin của các nước trong khu vực đối với luật biển quốc tế, tăng cường sức mạnh của ASEAN để khối này có thể đưa ra được sự đồng thuận về các lợi ích chung, và tổ chức các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các đồng minh, các đối tác cũng như với Trung Quốc, để từ đó làm giảm thiểu nguy cơ xảy ra các sự cố và các tính toán sai lệch làm nảy sinh các xung đột không cần thiết.
Cách hành xử ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong việc khẳng định các yêu sách chủ quyền cho thấy nước này đang đẩy mạnh việc sử dụng chính sách đe dọa trong các khu vực lân cận của mình. Cách xử lý của Trung Quốc tại “mô hình Bãi cạn Scarborough”, khi mà các hành vi quấy rối trên biển nhận được sự hỗ trợ của các lực lượng hải quân cũng như cách xử lý của họ tại tranh chấp đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản cho thấy rằng chính sách bên miệng hố chiến tranh kiểu mới đó là răn đe nhưng không sử dụng vũ lực đã trở thành chính sách chiến lược của Bắc Kinh. Trong năm ngoái, Trung Quốc đã có những phát ngôn và các bước đi cụ thể để cho thấy quyết tâm không khoan nhượng của nước này trong cái mà họ gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” của hầu như toàn bộ khu vực Biển Đông. Ngoài ra, giới lãnh đạo mới dưới quyền của ông Tập Cận Bình đã đẩy mạnh các phát ngôn theo chủ nghĩa dân tộc trên diện rộng, luôn đề cao sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc - coi đây thông điệp chính của họ, và trực tiếp chỉ đạo Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cải thiện năng lực của đơn vị này. Không bất ngờ gì khi ngay tại tuần đầu tiên sau lễ nhậm chức Chủ tịch nước của ông Tập, Hải quân của PLA đã phô trương sức mạnh của mình tại Biển Đông bằng việc gửi đi hai tàu khu trục có tên lửa dẫn đường và một khu trục hạm có tên lửa dẫn đường tới vùng cực nam của yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, để thực hiện các cuộc tập trận mà theo nhiều nguồn tin là có các hoạt động đổ bộ và các hoạt động kết hợp khác với các vũ khí trên không được đặt trên đất liền. Sách trắng gần đây của Trung Quốc đã đưa ra lời kêu gọi rõ ràng nhất từ trước đến nay về việc nước này phải trở thành một cường quốc quân sự biển.
Các nước khác trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam và Philippines, đã không hài lòng và đưa ra lời cảnh báo về sự quyết đoán của Trung Quốc. Việc Trung Quốc chính thức xuất bản các tấm bản đồ của nước này đã khiêu khích nhiều cuộc biểu tình của dân chúng cũng như sự phản đối của chính phủ hai nước nói trên; hoa quả Trung Quốc đã bị bỏ lại trên các bến cảng của Việt Nam. Trong khi đó, cả hai nước đều đang phát triển các năng lực quốc phòng hiện đại hơn để có thể bảo vệ các lợi ích của họ trước một Trung Quốc đang trỗi dậy. Như là một phần trong kế hoạch hiện đại hóa hải quân của mình, vào năm 2013 Việt Nam sẽ nhận chiếc tàu đầu tiên trong số 6 tàu ngầm tấn công chạy bằng diesel lớp Kilo của Nga. Việt Nam cũng chú trọng hơn quan hệ với người bạn mới Ấn Độ trong việc hợp tác huấn luyện trong các hoạt động quân sự dưới đáy biển. Cho dù Philippines có hiệp ước an ninh với Mỹ - có tác dụng như một tấm lá chắn quan trọng thì nước này cũng đang gây nhiều chú ý trong khu vực với việc mua một số tàu ngầm trong những năm gần đây. Tất cả những sự kiện trên, sự gia tăng về số lượng cũng như độ tối tân của các khí tài hải quân – chưa đề cập đến sự gia tăng số lượng các tàu hải giám được trang bị vũ trang – cho thấy rằng Biển Đông trong tương lai sẽ là một khu vực rất chật chội. Cho dù các bên không tiến hành các hành động khiêu khích có chủ ý, thì vẫn rất khó để có thể kiểm soát căng thẳng trong trường hợp xảy ra các sự cố, các tính toán sai lệch, hoặc các hành động bị cho là mang tính khiêu khích, tuy nhiên lại xuất phát từ các báo cáo không chính xác của các thuyền trưởng.
Các cơ chế nhằm kiềm chế xung đột cũng đã tỏ ra không mấy hiệu quả tại các diễn đàn khu vực, nơi mà vấn đề Biển Đông luôn được xem là một vấn đề quan trọng trong chương trình nghị sự. Năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử, ASEAN đã không đưa ra được một thông cáo chung sau hội nghị thượng đỉnh hàng năm do Trung Quốc gây áp lực lên Campuchia, nước chủ tịch năm ngoái, để nước này không đề cập đến vấn đề Biển Đông trong bản thông cáo chung. Cho dù mười năm đã qua kể từ khi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được Trung Quốc và ASEAN ký vào năm 2002, ASEAN vẫn chưa thể đưa ra được một Bộ quy tắc ứng xử có ràng buộc, và viễn cảnh phía trước của văn bản này vẫn còn khá mờ mịt. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng Trung Quốc sẽ không tham gia vào một sáng kiến ngoại giao mới nào để thể hiện rằng nước này cũng có những đóng góp cho quá trình giải quyết xung đột.
Luật pháp quốc tế cũng khó có thể giải quyết vấn đề của khu vực, ít nhất là vào thời điểm hiện tại. Vào tháng 1 khi Philippines đệ trình tranh chấp chủ quyền của họ với Trung Quốc lên Liên Hợp Quốc để phân xử theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), điều ước quốc tế mà cả hai nước đều đã ký kết, Trung Quốc về cơ bản đã từ chối việc đứng ra kháng cáo và liên tục nhắc lại lời từ chối tham gia vào vụ kiện trên.
Vậy Mỹ nên làm gì khi phải đối mặt với tình hình ảm đạm trên? Làm thế nào để Mỹ có thể thực hiện vai trò lãnh đạo của mình với mục tiêu đưa quỹ đạo của khu vực theo hướng hòa bình dựa trên một hệ thống mở, dựa vào luật pháp tập trung vào những lợi ích chung? Bất kỳ chiến lược nào cũng phải bao gồm sự can dự toàn diện bao gồm tất cả các lĩnh vực như quân sự, chính trị/ngoại giao và kinh tế.
Về mặt quân sự, Mỹ cần tiến hành những bước đi sau đây:
- Tăng cường năng lực cho các đồng minh và đối tác để họ có khả năng phòng vệ tối thiểu chống lại hành động xâm chiếm. Mỹ công nhận quyền của Trung Quốc trong việc bảo vệ lãnh thổ, nhưng Trung Quốc cũng nên công nhận quyền của các nước láng giềng trong việc xây dựng cái mà nước này gọi là ‘lực lượng chống can thiệp’. Mỹ nên giúp nâng cao năng lực phòng vệ ở mức thấp của những nước này, bao gồm cả vấn đề an ninh trên biển hiện ở dưới cấp độ quân sự. Mỹ có thể đem lại lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực cảnh báo trên biển (MDA) hoặc thông tin tình báo, giám sát và trinh sát (ISR).
- Hải quân và Cảnh sát biển Mỹ cần đào tạo các đối tác quân sự và đơn vị trên biển nhằm giảm thiểu nguy cơ tai nạn hoặc tính toán sai lầm. Điều thực sự quan trọng cần nhấn mạnh là hoạt động an toàn của các tàu ngầm, đặc biệt khi xét đến việc thiếu kinh nghiệm của các quốc gia như Việt Nam trong hoạt động dưới mặt biển.
- Tổ chức và thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin giữa lực lượng quân đội của các bên liên quan. Kết hợp đào tạo, đặc biệt trong các hoạt động với cường độ thấp nhằm giải quyết những vấn đề về lợi ích chung như hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai (HA/ DR) và các hoạt động chống cướp biển.
- Thu hút Trung Quốc tham gia vào các nỗ lực quân sự của khu vực. Việc Trung Quốc chấp nhận đề nghị của Mỹ tham gia cuộc tập trận RIMPAC 2014 là một tín hiệu đáng khích lệ. Điều đó tạo đà thuận lợi cho việc hình thành các mối quan hệ riêng có thể giúp giảm thiểu sự nghi ngờ mang tính nguyên tắc giữa lực lượng quân đội và tạo ra một “van xả” quan trọng khi tình hình trở nên căng thẳng.
Ngoại giao quân sự phải được hỗ trợ bởi các cam kết ngoại giao nhằm thúc đẩy sự minh bạch và giải quyết xung đột dựa trên cơ sở luật pháp phù hợp với các giá trị Mỹ. Những ưu tiên về ngoại giao và chính trị bao gồm:
- Củng cố nỗ lực hướng tới phê chuẩn UNCLOS. Sự phản đối của những người bảo thủ trong việc Thượng viện phê chuẩn UNCLOS tập trung vào vấn đề cho phép (và tài trợ) một bộ máy quốc tế vô danh có thể làm ảnh hưởng chủ quyền của nước Mỹ. Trong khi những mối quan ngại đó có thể được đảm bảo, nước Mỹ không thể hành động một cách đáng tin cậy với vai trò người bảo vệ tự do lưu thông trên biển nếu không tham gia vào hệ thống quốc tế đang gìn giữ những nguyên tắc này như tất cả quốc gia khác trong khu vực đã làm. UNCLOS không thể giải quyết tranh chấp Biển Đông, nhưng đang thúc đẩy các luật lệ trên biển đã được thừa nhận trên bình diện quốc tếcó thể giúp ngăn chặn tranh chấp. Mặc dù Mỹ luôn tuân thủ các điều khoản của UNCLOS, hành động biểu trưng này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng.
- Tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Philippines trong việc đưa tranh chấp của nước này ra tòa trọng tài, một tiền lệ quan trọng của khu vực. Ngoại trưởng Kerry đã bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn của Mỹ đối với nỗ lực hướng tới một giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, Mỹ phải nhận thấy rằng sự hỗ trợ của nước này không phải là kiểm soát kết quả (xét cho cùng, Mỹ không phải là một bên yêu sách), mà là hỗ trợ một quá trình giúp ngăn chặn hành động ép buộc và xung đột. Mặc dù Việt Nam với kinh nghiệm trong việc đối phó Trung Quốc gợi ý về phương thức ngoại giao thầm lặng với Bắc Kinh nhưng Việt Nam và các nước ASEAN có lợi ích cơ bản trong việc ủng hộ hệ thống luật pháp quốc tế và sự đoàn kết của ASEAN.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo trung tâm của ASEAN trong việc quyết định số phận Biển Đông, và thúc đẩy việc hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông. Một phần quan trọng trong chiến lược tái cân bằng Châu Á của Mỹ đó là tham gia vào Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và các diễn đàn khu vực khác do ASEAN chủ trì. Mỹ sẽ tiếp tục góp mặt ở những diễn đàn như vậy, đồng thời tăng cường can dự song phương với các quốc gia thành viên nhằm nâng cao sự gắn kết của ASEAN trong việc hợp tác hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử ràng buộc với Trung Quốc. Trong thời gian tới đây, Mỹ cần tiếp tục thắt chặt quan hệ với nước chủ tịch năm 2013 của ASEAN, Brunei Darussalam, đặc biệt là đánh giá về các đề nghị gần đây Bắc Kinh đưa ra cho vương quốc hồi giáo này. Sẽ là quá sức chịu đựng của ASEAN nếu cả khối lại phải chứng kiến sự cố đã từng xảy ra ở Phnom Penh, Bắc Kinh gây sức ép lên nước chủ tịch và gián tiếp phá hỏng những nỗ lực của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Một tín hiệu đáng khích lệ là Brunei đã tuyên bố rõ rằng mỗi thành viên ASEAN có quyền thảo luận về vấn đề an ninh biển tại những diễn đàn sắp tới.
- Tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện với Indonesia nói riêng và phát huy vai trò trung gian khu vực của nước này. Một nước Indonesia dân chủ có tiếng nói quan trọng trong ASEAN và khu vực nói chung, đã trở thành đối tác toàn diện của Mỹ từ năm 2008. Không phải là bên tranh chấp ở Biển Đông, Indonesia có thể đóng vai trò bên trung gian đáng tin cậy, như nước này từng làm sau thất bại ở Phnom Penh.
Cuối cùng, bất kỳ chiến lược khu vực nào cũng đi kèm những cam kết về kinh tế, phản ánh tầm quan trọng của tăng trưởng đối với các quốc gia Đông Á và thúc đẩy sự thịnh vượng. Các sáng kiến quan trọng về kinh tế cần thực hiện bao gồm:
- Hoàn tất quá trình đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trong năm nay. Với sự hỗ trợ của chính phủ Abe tại Nhật Bản, TPP có thể đạt được những tiến bộ thực sự trong năm tới hoặc khoảng như vậy. Kết thúc những đàm phán ban đầu về TPP sẽ chứng minh quyết tâm và cam kết của Mỹ trong việc thúc đẩy sự thịnh vượng khu vực thông qua hoạt động thương mại mở rộng, dựa trên cơ sở luật lệ, lợi ích chung quan trọng của khu vực. Sau đó, điều này cũng giúp hình thành mối liên kết nhiều hơn giữa Mỹ và đa số các bên yêu sách ở Biển Đông, xóa bỏ áp lực về vấn đề quân sự.
- Cân bằng sự chênh lệch phát triển trong nội bộ ASEAN. Mỹ nên sử dụng các sáng kiến về kinh tế như chương trình Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế Mỹ-ASEAN (E3) đưa ra mùa thu năm ngoái, cũng như Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong, để nâng cao năng lực kinh tế tại các nước như Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Đưa những nước này tới gần hơn tiêu chuẩn được thiết lập bởi các nền kinh tế phát triển trong ASEAN như Singapore và Indonesia sẽ giúp ASEAN đi đúng hướng trong việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đạt được mục tiêu đó sẽ cho phép ASEAN duy trì tiếng nói tương đối gắn kết về các vấn đề khu vực cũng như tránh được những rạn nứt.
Khi Châu Á đảm đương vai trò động lực tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu, cùng việc thế giới phải đối mặt với những xung đột bất ổn đang gia tăng, không nơi nào tiềm ẩn nguy cơ nhiều như Biển Đông trong 10 năm tới. Với vai trò cường quốc lãnh đạo ở Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ phải đưa ra những lựa chọn khó khăn, cần phải thúc đẩy các nỗ lực chung cần thiết để duy trì hòa bình ở Biển Đông trong năm 2013 và những năm tiếp theo, đồng thời thiết lập các thể chế bền vững nhằm giải quyết các tranh chấp trong tương lai.
Tiến sĩ Patrick M. Cronin là Cố vấn và Giám đốc Cấp cao của Chương trình An ninh Châu Á Thái Bình Dương, Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS). Alexander Sullivan là sinh viên thực tập của Joseph S. Nye, Jr. tại Chương trình An ninh Châu Á Thái Bình Dương, CNAS. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang “The Diplomat”.

Chiến lược cùng tồn tại của Trung Quốc và ảnh hưởng đối với trật tự thế giới

Chiến lược cùng tồn tại của Trung Quốc và ảnh hưởng đối với trật tự thế giới

Hiện nay Trung Quốc không còn thụ động mà trở thành một nhân tố quan trọng trong việc xác định các lựa chọn chính sách đối ngoại và quốc phòng của các quốc gia trên thế giới.
Trung Quốc đang nắm giữ vị thế của một cường quốc toàn cầu về ý nghĩa chính trị. Để đạt được vị thế đó, Bắc Kinh đã sử dụng chiến lược cùng tồn tại và chiến lược đó đã được tái khẳng định gần đây trong Sách Trắng Quốc phòng 2013 của Trung Quốc. Chiến lược của Trung Quốc nhằm thay đổi hoạt động quốc tế của các nước khác mà không cần thúc đẩy một trật tự thế giới hoàn toàn mới. Ngược lại, kiểu trật tự thế giới của Trung Quốc được thiết lập trên cơ sở hệ thống hiện có của Liên hợp quốc, đặc biệt các nguyên tắc chủ quyền tuyệt đối và không can thiệp. Đây là một trật tự dựa trên cơ sở lợi ích nhằm bảo vệ Trung Quốc chống lại can thiệp nước ngoài và duy trì hòa bình và ổn định quốc tế mà không cần bất cứ nghĩa vụ hợp tác rộng rãi nào. Bắc Kinh tìm cách gây ảnh hưởng đến tình hình nhiều hơn trực tiếp hành động. Chiến lược cùng tồn tại của Bắc Kinh không đòi hỏi khả năng kinh tế và quân sự ở các cấp độ như Mỹ đã thực hiện nhằm gây ảnh hưởng tới nước khác, bởi vì kiểu trật tự thế giới của Trung Quốc được coi là có lợi cho các nước khác mà không cần thúc đẩy một mô hình phối hợp hành động, trong đó Trung Quốc giữ vai trò trung tâm. Cùng tồn tại nhấn mạnh các đặc điểm phát triển của Trung Quốc hiện đang bị các cuộc tranh luận quốc tế bỏ qua hoặc bác bỏ. Các cuộc tranh luận quốc tế chủ yếu chú trọng đến khả năng kinh tế và quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc và đến mức độ nào đó các khả năng sẽ thúc đẩy Trung Quốc nâng cao sức mạnh trong hệ thống quốc tế ở cấp độ của một cường quốc. Ngoài ra, các mối quan hệ Mỹ-Trung và các so sánh là đặc điểm phổ biến trong các cuộc tranh luận quốc tế. Nhưng 3 đặc điểm liên quan đến sự phát triển và vị thế tương đối của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế đang có xu hướng bị bỏ qua gồm:
Thứ nhất, phát triển kinh tế và quân sự của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc đang nằm trong nhóm cường quốc thứ hai, kể cả các quốc gia như Nga, Ấn Độ và Brazil. Thứ hai, Trung Quốc còn lâu mới trở thành cường quốc kinh tế và quân sự ngang hàng với Mỹ. GDP của Trung Quốc mới chỉ bằng một phần ba GDP của Mỹ. Ngân sách quốc phòng của Mỹ lớn gấp 6 lần ngân sách quốc phòng của Trung Quốc. Thứ ba, mặc dù ở vị thế tương đối không thuận lợi, nhưng sức mạnh chính trị của Trung Quốc lớn hơn nhiều sức mạnh chính trị của Mỹ. Vị thế như một cường quốc chính trị của Trung Quốc làm tăng không gian cho hành động của các cường quốc bậc hai và cường quốc nhỏ. Các cường quốc này có ảnh hưởng đặc biệt vì Trung Quốc thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược với họ nhằm bổ sung hoặc thay thế hệ thống liên minh của Mỹ. Khi Washington và Bắc Kinh tranh giành sự ủng hộ của các cường quốc bậc hai và các cường quốc nhỏ, các nước này có thể liên kết với cả hai mà không nhất thiết phải lựa chọn bên nào. Sự tồn tại của một trật tự thế giới kiểu Trung Quốc bên cạnh trật tự thế giới tự do của phương Tây đã tạo ra một hệ thống quốc tế có hai trật tự thế giới khác nhau cùng tồn tại trên các lĩnh vực khác nhau và trong các khu vực tương tự. Loại hệ thống quốc tế này thiếu một bộ nguyên tắc xác định các hành xử quốc tế đúng và sai. Do đó các mối đe dọa an ninh được giải quyết bằng các khung quản lý xung đột đặc biệt thông qua tư cách thành viên và các nguyên tắc được xác định trên cơ sở thử nghiệm và mắc lỗi.

Theo Hiến pháp Trung Quốc, cùng tồn tại hòa bình bao gồm tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không xâm lược, không can thiệp công việc nội bộ, bình đẳng và cùng có lợi cũng như chung sống hoà bình nhằm phát triển quan hệ ngoại giao, trao đổi kinh tế và văn hóa với các nước khác. Những nguyên tắc này phù hợp với các quy tắc của hệ thống Liên hợp quốc trong Chiến tranh Lạnh, nhưng Bắc Kinh nhận thấy các nguyên tắc đó có lợi cho các lợi ích và quan điểm của Trung Quốc về thế giới sau Chiến tranh Lạnh. Thực tế cùng tồn tại kiểu Trung Quốc gồm 5 thông lệ liên quan đến các mối quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Thông lệ đầu tiên, chỉ can dự với các quốc gia khác trên cơ sở đồng thuận của tất cả các chính phủ liên quan. Thông lệ này ngược lại việc phương Tây ủng hộ sự chấp thuận can thiệp của Liên hợp quốc mà không cần sự đồng thuận của các chế độ trong trường hợp vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, từ đó đe dọa làm chệch hướng nền hòa bình và ổn định quốc tế. Thông lệ thứ hai, không khuyến khích sử dụng vũ lực nhằm quản lý xung đột trong hệ thống quốc tế. Thông lệ này hoàn toàn khác các nỗ lực của phương Tây nhằm cho phép Liên hợp quốc thông qua các biện pháp cấm vận và thiết lập hòa bình liên quan đến sử dụng sức mạnh sau khi xác định được mối đe dọa đối với nền hòa bình và ổn định quốc tế. Thông lệ thứ ba, khuyến khích các nước theo đuổi mô hình phát triển quốc gia mà họ cảm thấy phù hợp nhất dựa trên vấn đề lịch sử và hệ thống chính trị. Ngược lại, phương Tây thúc đẩy một chương trình kinh tế và chính trị tự do như một mô hình cho các mối quan hệ nhà nước-xã hội ở các nước khác. Thông lệ thứ tư, phản đối chỉ trích các chế độ, khuyến khích hợp tác với tất cả các nước như một biện pháp tốt nhất để thúc đẩy thịnh vượng cho tất cả. Ngược lại, phương Tây đòi hỏi các nước theo đuổi các tiêu chuẩn dân chủ và nhân quyền cơ bản nếu một quốc gia muốn hưởng lợi từ các cơ chế tự do kinh tế thương mại và viện trợ. Thông lệ thứ năm, khuyến khích đa dạng hóa quốc tế bằng cách chấp nhận các quốc gia hành động trên cơ sở nhận thức khác nhau về hành vi đúng và sai. Điều này trái ngược với niềm tin của phương Tây về tính phổ biến của các giá trị kinh tế và chính trị tự do toàn cầu.

Một số ví dụ về thông lệ cùng tồn tại của Trung Quốc được thể hiện qua chính sách của Bắc Kinh trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trung Quốc bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu Nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, hoạt động theo quy định gìn giữ hòa bình của Chương VII, chấp thuận một vùng cấm bay ở Libya và cho phép áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ dân thường Libya. Việc bỏ phiếu trắng của Trung Quốc xuất phát từ mong muốn có một giải pháp hòa bình để quản lý xung đột và lo sợ không ngăn chặn được các biện pháp đã được chấp thuận bởi Liên minh châu Phi (AU), Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và Liên đoàn Arập (AL). Nhân dịp này, Trung Quốc khẳng định cam kết không sử dụng vũ lực và đồng thuận của chế độ. Ngoài ra, Bắc Kinh thể hiện mối quan ngại vì cho phép áp đặt các biện pháp đó tại Libya sẽ quyết định những gì phải làm chứ không phải hành động dựa trên quan điểm hành động đúng sai. Nhưng Bắc Kinh chỉ trích nhiều hơn khi hành động can thiệp phát triển thành nỗ lực lật đổ Chính phủ Libya. Đối với trường hợp Iran, Trung Quốc công nhận kết luận của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) rằng Iran đã làm giàu urani và tiến hành các hoạt động liên quan và có thể sử dụng plutoni mà không khai báo. Nhưng theo Bắc Kinh, Iran không có khả năng chế tạo các loại vũ khí hạt nhân và chương trình hạt nhân của Têhêran vẫn trong phạm vi của các cam kết thực hiện Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân của Iran. Trung Quốc cho rằng các nước khác công nhận Iran có quyền sử năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Bắc Kinh cũng tiếp tục hợp tác với Iran về năng lượng mặc dù chương trình hạt nhân của Iran nằm trong chương trình nghị sự của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hơn nữa, cách tiếp cận của Trung Quốc cho thấy việc Bắc Kinh ủng hộ các cuộc thảo luận đa phương để tháo gỡ các căng thẳng đã biến điều này thành kiểu chiến lược cùng tồn tại trong hành động.

Đối với Syria, Bắc Kinh có ý định tách riêng các vấn đề của chế độ khỏi nhu cầu thiết lập nền hòa bình và an ninh. Trung Quốc phủ quyết nghị quyết của Hội đồng Bảo an đề nghị ủng hộ kế hoạch hòa bình của AL. Trung Quốc công nhận kế hoạch này như một biện pháp hữu ích sắp tới, nhưng đề nghị Tổng thống Bashar al-Assad bàn giao quyền lực cho Phó Tổng thống đã tạo tiền lệ không thể chấp nhận là bỏ qua sự đồng thuận của các nhà chức trách chính trị về việc làm sao để thiết lập nền hòa bình và an ninh trong nước. Trung Quốc ủng hộ các tuyên bố không bắt buộc của chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đối với Syria kêu gọi chấm dứt bạo lực để khôi phục các quyền dân sự và chính trị. Bằng cách ủng hộ những lời chỉ trích hành vi của Chính quyền Assad chống lại dân thường, Trung Quốc tìm cách chứng minh rằng họ không chấp nhận những vi phạm nhân quyền đang diễn ra ở Syria. Nhưng những hành động tàn bạo như vậy sẽ tồi tệ hơn trong thời gian dài nếu Hội đồng Bảo an không chấp nhận việc can thiệp vào công việc nội bộ liên quan đến sự thay đổi chế độ. Thay vào đó, tính công bằng liên quan đến các chế độ cần tiếp tục xác định các giới hạn của việc can thiệp và các tuyên bố của Trung Quốc xung quanh việc phủ quyết của họ đối với cách tiếp cận này.

Mô hình cùng tồn tại của Trung Quốc là một phiên bản dựa của trật tự thế giới dựa trên cơ sở lợi ích mà không có mô hình trong nước cho các mối quan hệ nhà nước-xã hội có thể so sánh được với cách mà trật tự quốc tế tự do do Mỹ lãnh đạo khuyến khích nền dân chủ đại diện. Khái niệm Nho giáo của “xã hội hài hòa” vẫn là một công cụ khoa trương mà không có khả năng áp dụng thực tế. Ý tưởng này không biến thành các cơ cấu chính trị cần thiết, chẳng hạn các cơ chế phản hồi từ xã hội đến chính phủ, hoặc thành các quá trình, như việc sử dụng rộng rãi các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu để tạo điều kiện cho thừa kế chính trị. Sự thiếu vắng một mô hình chính trị để bổ sung cho quá trình chuyển đổi kinh tế thị trường của Trung Quốc có nghĩa là Chính phủ Trung Quốc dựa vào tăng trưởng kinh tế và cải thiện tiêu chuẩn sống để hợp pháp hóa chế độ. Thiếu hiểu biết mới về việc làm thế nào để hình thành các mối quan hệ nhà nước-xã hội cũng cho thấy Bắc Kinh dựa trên cơ chế phản hồi tùy tiện của việc phản đối và khiếu nại và trên cơ sở cưỡng chế để giải quyết sự bất mãn xã hội. Những thực tiễn như vậy sẽ làm tổn hại hình ảnh của Trung Quốc như là một cường quốc hòa bình. Tác động khác của mô hình đa nguyên trong trật tự thế giới của Trung Quốc là không ai biết tiêu chuẩn giá trị nào để đánh giá việc thực hiện của Trung Quốc. Do đó, mục tiêu trở thành một cường quốc triển vọng của Bắc Kinh vẫn chưa được biết ngoài những vấn đề như duy trì đoàn kết dân tộc và khôi phục đất nước Trung Hoa.

Chủ đề dân tộc này gây nghi ngờ về cam kết trung thực của Bắc Kinh đối với chiến lược cùng tồn tại, bởi vì nó dẫn đến vi phạm các quyền tuyên bố chủ quyền và tự do đi lại của các quốc gia khác ở các khu vực như Biển Đông và biển Hoa Đông. Những vấn đề như vậy đã cản trở các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tập hợp một nhóm các đối tác trung thành có thể đe dọa hệ thống liên minh của Washington. Do Trung Quốc tỏ ra không phải một cường quốc hấp dẫn, hầu hết các quốc gia tiếp tục dựa vào đảm bảo an ninh của Mỹ và có thể sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai gần. Bất chấp những thành công hạn chế của chiến lược cùng tồn tại của Trung Quốc, chủ đề nổi bật là Trung Quốc có thể thúc đẩy cùng tồn tại như một cơ sở cho trật tự thế giới trên phạm vi toàn cầu và ở tất cả các khu vực trên thế giới. Cùng tồn tại đã phát triển thành một học thuyết chiến lược ổn định hiệu quả hơn để ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên chính trị quốc tế như một thay thế cho hội nhập tự do mà Mỹ đang theo đuổi. Cùng tồn tại cho phép nhiều chế độ phối hợp lợi ích quốc gia mà không đe dọa nền hòa bình và ổn định quốc tế. Điều này tỏ ra rất hiệu quả trong việc cho phép Trung Quốc tiếp tục tập trung phát triển xã hội, kinh tế và quân sự trong nước để đảm bảo phát triển lên vị thế cường quốc toàn diện. Sách Trắng Quốc phòng 2013 của Trung Quốc coi vấn đề cùng tồn tại hòa bình như một công cụ trung tâm trong việc theo đuổi các lợi ích an ninh chủ yếu của Trung Quốc. Trung Quốc liên tục khẳng định mạnh mẽ rằng sẽ tiếp tục dựa vào cùng tồn tại như một chiến lược chủ yếu để thúc đẩy lợi ích của nước này trong tương lai.

Theo một quan điểm của phương Tây, kiểu trật tự thế giới của Bắc Kinh sẽ tạo nên một số thách thức cho hoạt động của nhà nước. Mạng lưới các mối quan hệ kinh tế và chính trị chiến lược trên tất cả các khu vực quốc tế của Trung Quốc khẳng định sự nổi lên của chiến lược cùng tồn tại của nước này nhằm thay thế hệ thống liên minh của Mỹ ở tất cả các khu vực. Các cường quốc hạng hai và các cường quốc nhỏ thường hoan nghênh sự đổi mới này nhằm thay thế ảnh hưởng của phương Tây. Điều đó cho phép các nước này ủng hộ một cường quốc trên một số lĩnh vực, khuyến khích sự phát triển liên tục của cả hai trật tự không có đường phân chia địa lý rõ ràng hoặc phạm vi ảnh hưởng khu vực. Phát triển này thách thức các nỗ lực của phương Tây trong việc yêu cầu cải cách chính trị theo hướng tự do để đổi lấy hợp tác chiến lược kinh tế và chính trị. Thách thức này khuyến khích Washington và các nước đồng minh tập trung khôi phục các khả năng và quan hệ đối tác kinh tế và tài chính của họ để phù hợp với thực tế khi ảnh hưởng của Trung Quốc được dựa trên cơ sở kết hợp thành công mô hình cải cách kinh tế thị trường trong nước với một hệ thống chính trị độc tài. Hơn nữa, việc Trung Quốc sẵn sàng can dự với các nước đang phát triển bị Mỹ và phương Tây bỏ rơi lâu nay đã khích lệ Mỹ và các nước đồng minh xem xét lại phương pháp và khả năng can dự ở nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị đầy tham vọng, chẳng hạn như xây dựng quốc gia.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG / JAMESTOWN FOUNDATION

4 phương án lựa chọn của ASEAN trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc

4 phương án lựa chọn của ASEAN trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc

Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái cân bằng chiến lược của Mỹ đang tạo ra những thách thức đối với ASEAN, và tổ chức này có thể phản ứng theo 4 cách.
Bài viết của Heng Sarith, Viện Nghiên cứu Hợp tác và Hoà bình, Campuchia.
Sau năm Chủ tịch ASEAN 2012 đầy khó khăn của Campuchia, khi lần đầu tiên trong 45 năm qua, ASEAN không thể ra một tuyên bố chung, thì Brunei, Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2013, lại dễ dàng ra được một tuyên bố chung tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 46 (AMM-46).

Bất chấp thực tế rằng ASEAN vẫn đang phải đối mặt với những thách thứa nghiêm trọng như tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, xung đột về tỉnh Sabah (Malaysia), bạo lực sắc tộc và tôn giáo tại Myanmar, ô nhiễm khói bụi ảnh hưởng đến Singapore, Malaysia và Inđônêxia.

Dường như ASEAN đang có một tiêu chuẩn kép giữa các thành viên. Lý do khiến ASEAN lựa chọn im ắng kể từ đầu năm 2013 đến nay là họ đã rút ra được một bài học từ việc không ra được tuyên bố chung tại AMM-45. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự tái cân bằng chiến lược của Mỹ đang tạo ra những thách thức đối với ASEAN, và tổ chức này có thể phản ứng theo 4 cách sau đây.

Thứ nhất, ASEAN có thể sử dụng cán cân quyền lực và trở thành một đối tượng của cạnh tranh quyền lực. Năm 2011, Mỹ tuyên bố việc chuyển hướng ưu tiên sang châu Á và bắt đầu tái triển khai phần lớn lực lượng hải quân của họ tại Thái Bình Dương. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng với Trung Quốc. Một số quốc gia ASEAN, nhất là Myanmar và Việt Nam, đang tích cực can dự vào việc cân bằng chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Các nước này đang tìm cách thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế và chiến lược với Mỹ như một phương án phòng thủ để chống lại nguy cơ từ Trung Quốc. Nhưng việc xích gần Mỹ đang bị xem là có hại cho sự thống nhất và trung lập của ASEAN. Ván bài cân bằng quyền lực sẽ có những hậu quả tiêu cực, như sự rạn nứt trong đoàn kết của ASEAN. Lâu nay, ASEAN vẫn được coi là trung lập và không bị chi phối bởi một cường quốc lớn. Sự trung lập được coi là một thành công chiến lược của ASEAN kể từ khi thành lập.

Thứ hai, những người hoài nghi chủ nghĩa khu vực Đông Á sợ rằng cuối cùng Trung Quốc sẽ chi phối Đông Á thông qua "cộng đồng Đông Á" do Trung Quốc đứng đầu, mặc dù ban đầu Nhật Bản đề xuất sáng kiến này. ASEAN đang công nhận rằng ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) là cơ cấu chính để xây dựng một cộng đồng Đông Á. Trong bối cảnh này, các nước ASEAN có thể xích gần Trung Quốc hơn bằng sự hợp nhất kinh tế khu vực và các dự án cơ sở hạ tầng khu vực lớn như tuyến đường sắt Singapore-Côn Minh, các gói cựu trợ song phương, các cấu trúc khung Hiệp định tự do thương mại (FTA) và hiệp định Quan hệ đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP). Một FTA ASEAN-Trung Quốc có thể mang lại những mối lợi kinh tế lớn cho ASEAN nhờ sự tăng trưởng kinh tế mạnh và thị trường tiêu dùng trung lưu lớn. Do Mỹ sẽ không tham gia vào các thể chế này, nên hầu hết các nhà phân tích đều tin rằng ASEAN có thể nằm dưới sự bá chủ của Trung Quốc tại Đông Á.

Thứ ba, Mỹ sẽ mở rộng chiếc ô an ninh và lãnh đạo kinh tế khu vực về kinh tế thông qua các diễn đàn đa phương. Theo kịch bản này, các nước ASEAN sẽ tham gia các diễn đàn đa phương do Mỹ lãnh đạo như các sáng kiến Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Can dự kinh tế mở rộng (E3) để đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu và tăng cường luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Mỹ vào khu vực. Do Mỹ cần sự cân bằng chiến lược với Trung Quốc, ASEAN có thể được lợi hơn từ các sáng kiến này. Các nước ASEAN cũng cần các quan hệ chiến lược gần gũi hơn với Mỹ để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc, nhất là trong tranh chấp tại Biển Đông. ASEAN có thể sử dụng một liên minh quân sự với Mỹ như một lá chắn kinh tế và quân sự chống lại các nguy cơ từ Trung Quốc. Trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang tại Biển Đông, Mỹ được hy vọng sẽ giúp các nước ASEAN, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Thứ tư, ASEAN có thể bảo vệ sự trung lập của mình để tự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc. ASEAN biết rằng việc quá thân thiết với Mỹ hay Trung Quốc đều có hại cho sự thống nhất của họ. ASEAN có thể duy trì sự trung lập bằng việc sự dụng phương thức tư vấn và đồng thuận để lắng nghe ý kiến và nhu cầu của các thành viên. Nỗi sợ bị các cường quốc chi phối có thể khiến ASEAN tự củng cố, duy trì sự thống nhất, bảo vệ nguyên tắc đồng thuận và can dự cẩn thận hơn với các cường quốc khu vực. Với tài sản vô giá là sự trung lập, ASEAN có thể tính tới những lợi ích và ưu tiên của tất cả các bên.

Bản sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

Bản sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Thực đúng như vậy, nghiên cứu quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc ta, có thể có đầy đủ cơ sở để đi tới một nhận định có tính khái quát: Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam được bộc lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ ở lĩnh vực nào. Yêu nước đã trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam, là đạo lý của dân tộc Việt Nam, một truyền thông sâu bền, cao đẹp, không còn dừng lại ở trình độ một nhận thức, một tình cảm, mà đã trở thành một chủ nghĩa, một lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ mọi người dân sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc khi có nguy cơ xâm lược từ ngoài tới, hay kiên trì góp hết tinh thần và sức lực vào sự nghiệp dựng nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam tuyệt nhiên không phải là một cái gì trừu tượng, mà là một sản phẩm đích thực của chính lịch sử Việt Nam, nó bắt nguồn từ những điều kiện cụ thể của Việt Nam, về hoàn cảnh địa lý, về khí hậu, về đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội, về lịch sử. Cũng cần phải thấy yêu nước là một tình cảm và tư tưởng phổ biến mà dân tộc nào cũng có. Duy chỉ khác nhau là ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì tư tưởng và tình cảm yêu nước bị hình thành và phát triển trong những điều kiện không giống nhau, sớm muộn, đậm nhạt khác nhau mà thôi.

Liên hệ với nước Việt Nam chúng ta, về hoàn cảnh địa lý, nước ta ở vào một vị trí vô cùng quan trọng trên báo đảo Đông Dương, vào nơi tiếp xúc, ngã tư đường của vùng Đông Nam Á cả về tự nhiên và văn hóa, ở góc cực đông nam của đại lục châu Á, mặt nhìn ra biển Đông nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Là bao lơn của Thái Bình Dương, trên một chiều dài 3.300km, Việt Nam tuy được nối liền với lục địa bằng một mạng lưới đường giao thông thủy bộ thuận lợi, từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, nhưng cũng tạo thành những hành lang thuận lợi cho việc thực hiện tham vọng bành trướng của các thế lực đen tối từ ngoài tới.

Về mặt khí hậu, Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, phù hợp với nghề trồng lúa nước, nhưng thường xuyên phải chống chọi hàng năm với lũ lụt, bão tố, hạn hán… Cũng là một vùng đất thống nhất trong đa dạng trên rừng, dưới biển, nằm sâu dưới đất đều chứa đựng nhiều tài nguyên phong phú và quý giá (ngọc trai, ngà voi, sừng tê, khoáng sản…) nên từ rất sớm đã phải đương đầu với các kẻ thù đầy tham vọng từ các nơi tới.

Rõ ràng trong bối cảnh đó, nhân dân Việt Nam từ rất sớm đã phải đứng trong vị thế vừa dựng nước vừa giữ nước. Lịch sử Việt Nam bắt đầu bằng một sự kiện có ý nghĩa vô cùng trọng đại là sự ra đời rất sớm của Nhà nước Văn Lang trên cơ sở hợp nhất tự nguyện của người Việt cổ (Lạc Việt và Âu Việt): “Vua Hùng đã có công dựng nước”, và nước Việt ngay từ lúc mới ra đời đã là một quốc gia có cương vực ổn định với một nền văn hóa rực rỡ, với sản phẩm trống đồng. Có thể khẳng định rằng sự xuất hiện sớm của Nhà nước Văn Lang đã tạo điều kiện rất cơ bản cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hình thành sớm.

Nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam là nước Âu Lạc (thống nhất giữa Tây Âu và Lạc Việt) với người thủ lĩnh kiệt hiệt là Thục Phán để chống lại sự xâm lược của nhà Tần từ phương Bắc tràn xuống, với sự kiện này đã nói rõ một đặc điểm của lịch sử Việt Nam: bắt đầu dựng nước cũng là bắt đầu giữ nước! Tư thế chung của dân tộc ta trong lịch sử là phải luôn luôn vừa lao động xây dựng đất nước , vừa chiến đấu bảo vệ đất nước dựng nước đi đôi với giữ nước là một đặc điểm bao trùm, một quy luật cơ bản của lịch sử Việt Nam.

Đến cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, vào cuối thời Văn Lang (và các vua Hùng) sang đầu thời Âu Lạc (và vua Thục) dân tộc Việt Nam đã đi vào chính sử. Và công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã được thực hiện quyết liệt và có kết quả. Vào cuối đời vua Hùng (thế kỷ 3 trước Công nguyên) đế chế Tần (Tần Thủy Hoàng) với âm mưu bành trướng xuống phía Nam đã cử 50 vạn quân xuống phía Nam để bình Bách Việt. Nhưng chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của người Việt (cư dân Văn Lang – Âu Lạc) do Thục Phán đứng đầu đánh bại sau một cuộc kháng chiến kéo dài đến 6-7 năm trong những điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ bề (từ 214 trước CN – 209 trước CN). Thục Phán là một thủ lĩnh người Âu Lạc đã cùng các thủ lĩnh người Văn Lang và quân dân Việt tổ chức cuộc chiến đấu, bãi chiến trường là miền rừng núi Việt Bắc và miền trung du miền Đông Bắc ngày nay. Cuối cùng nhà Tần đã phải ra lệnh bãi binh, rút hết quân ra khỏi phạm vi đất nước người Việt, cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ đầu tiên của tổ tiên ta đã giành được toàn thắng. Nước Âu Lạc là cao điểm cuối cùng của kỷ nguyên bắt đầu dựng nước và giữ nước. Sau chiến thắng oanh liệt đó, (đặc biệt là qua việc đoàn kết chiến đấu), tinh thần cố kết dân tộc trong nội bộ cộng đồng người Việt càng được củng cố và tăng cường.

Sau chiến thắng quân Tần (khoảng 208 trước CN) nhân uy tín sẵn có Thục Phán đã xưng là An Dương Vương đổi quốc hiệu là Âu Lạc, phản ánh sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa hai thành phần Việt tộc (Âu và Lạc) trong một chỉnh thể quốc gia, một kết cấu chính trị – xã hội cao hơn. Âu Lạc là một thể thống nhất Việt tộc có ý nghĩa là vừa thống nhất Dân tộc, vừa thống nhất Quốc gia) cao hơn Văn Lang. Thục Phán (An Dương Vương) quyết định dời đô từ Việt Trì (Phú Thọ) về ngã ba sông Đuống – sông Hồng là vùng đất Cổ Loa (huyện Đông Anh) xây thành, đánh dấu sự phát đạt của nền kinh tế vùng đồng bằng (cả về mật độ dân số, về trình độ nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sự thành lập nước Âu Lạc là bước phát triển kế tục nước Văn Lang với hai thành tựu nổi bật về kỹ thuật quốc phòng (đắp thành Cổ Loa và cải tiến nỏ và tên nỏ)đáp ứng một nhu cầu bức xức chống ngoại xâm từ phía Bắc tới. Thời đại Văn Lang và Âu Lạc là thời đại văn minh Sông Hồng, thời đại các Vua Hùng và Vua Thục, một thời đại vô cùng quan trọng của lịch sử Việt Nam. Đó là thời kỳ hình thành dân tộc với nền tảng là một đời sống kinh tế chung cho toàn quốc, là thời kỳ hình thành Nhà nước đầu tiên. Đó cũng là thời đại hình thành một nền văn hóa dân tộc với một bản sắc độc đáo phi Hoa, phi Ấn với một phong cách Đông Sơn rất đặc trưng, rất điển hình và có ảnh hưởng lớn đến toàn vùng Đông Nam Á. Cộng đồng dân tộc Việt xây dựng từ đó một lối sống riêng, có một bản lĩnh vững vàng, và trên nền tảng đó đã xây dựng được một xã hội, một lối sống Việt Nam, một truyền thống Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ hình thành ý thức dân tộc được tổng hợp từ những tình cảm gia đình, họ hàng, quan hệ đồng bào, tình làng nghĩa nước… để trở thành một lòng yêu nước Việt Nam bất khả chiến bại, một ý thức về quyền sở hữu chung của dân tộc, về địa bàn đất đai, đất nước, lãnh thổ để trên nền tảng đó ý thức hệ của công cuộc giữ nước bắt đầu. Đó là kỷ nguyên bắt đầu dựng nước của dân tộc Việt Nam, mở đầu truyền thống dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc, từ đó được nâng lên trình độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Nhưng vào năm 183 trước CN, Triệu Đà lợi dụng tình hình phương Bắc rối loạn để xưng đế, lập nước Nam Việt, rồi đưa quân xuống phía Nam chiếm nước Âu Lạc, mở đầu một thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm, là một thời kỳ thử thách lớn lao đối với sức sống của dân tộc với âm mưu đồng hóa toàn diện và triệt để của kẻ thù. Nhưng dân tộc Việt Nam đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quyết giành lại Độc lập dân tộc. Các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh Hán, Triệu Thị Trinh chống Ngô, Lý Bí chống Lương dựng nên nước Vạn Xuân, Triệu Quang Phục đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, nhưng đến đầu năm 603 sau CN lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Bất chấp tình hình bất lợi, phong trào khởi nghĩa vẫn bùng nổ liên tục, trên khắp mọi miền đất nước. Đến đầu thế kỷ 10 (905), Khúc Thừa Dụ đánh thắng quân phong kiến nước ngoài, xây dựng một chính quyền tự chủ. Năm 930, nhà Nam Hán sang xâm chiếm, Dương Đình Nghệ lại đánh bại chúng giành lại quyền tự chủ. Đến cuối năm 938 Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc oanh liệt thời kỳ mất nước kéo dài hơn 1.000 năm. Một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc bắt đầu. Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa, đánh dấu một bước phát triển mới của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Sau khi Ngô Quyền mất, chính quyền trung ương bị tan rã, các thế lực phong kiến chia nhau hùng cứ các phương và tranh giành nhau quyết liệt, tạo nên thế 12 sứ quân cát cứ các địa phương. Yêu cầu cấp thiết của lịch sử lúc đó là phải khôi phục sự thống nhất của nước nhà. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (năm 968), đóng đô ở Hoa Lư, lập quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Từ đó, trải qua các triều Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, suốt trong năm thế kỷ (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15), quốc gia thống nhất ngày càng được củng cố, công cuộc xây dựng đất nước được tiến hành trên quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của Nhà nước phong kiến độc lập, việc dựng nước gắn liền với giữ nước. Nhưng cũng trong năm thế kỷ đó, không có thế kỷ nào dân tộc ta không phải chống ngoại xâm, thế kỷ 13 phải tới ba lần chống Nguyên – Mông. Đến thế kỷ 15, nhà Trần đổ nát và bị nhà Hồ thay thế. Nhưng cuộc kháng chiến do Hồ Quý Ly đứng đầu đã nhanh chóng thất bại vì không phát huy được sức mạnh vĩ đại của dân tộc để chống giặc giữ nước. Phong trào yêu nước dâng lên mạnh mẽ, lôi cuốn mọi tầng lớp, mọi thành phần, phát triển rộng khắp dần quy tụ vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu.

Sau 10 năm chiến đấu (1418-1428), với thắng lợi của cuộc kháng chiến, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững, âm mưu xâm lược của kẻ thù bị đánh bại hoàn toàn. Tình hình đó tạo ra những điều kiện rất thuận lợi để củng cố và xây dựng đất nước. Nhưng đến thế kỷ 16, nhân triều Lê suy yếu, các phe phái phong kiến (Mạc, Trịnh, rồi Trịnh – Nguyễn) xung đột nhau. Đất nước bị chia cắt trên 200 năm. Trong sự phát triển như vũ bão của nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, dân tộc ta đã đánh thắng cả thù trong và giặc ngoài (1789). Sau chiến thắng, Vua Quang Trung cương quyết tiến hành xây dựng đất nước. Công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế của Quang Trung đang mang lại những kết quả bước đầu đầy hứa hẹn thì ông đã bị bạo bệnh và mất đột ngột để tới năm 1802 chế độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn lại được thiết lập trên cả nước.

Thời kỳ này chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng suy vong. Phong trào nông dân khởi nghĩa tiếp tục lan tràn, chỉ trong vòng nửa thế kỷ đầu của triều Nguyễn đã có tới trên 300 cuộc khởi nghĩa nông dân lớn và nhỏ. Tới giữa thế kỷ 19, vận mạng dân tộc ta đứng trước một thử thách mới vô cùng nghiêm trọng là sự xâm lăng của tư bản Pháp. Lịch sử Việt Nam cũng chuyển sang một trang mới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển theo những khuynh hướng mới. Chính Đảng vô sản ra đời (ngày 3-2-1930) tạo nên một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Từ đây Cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo của thời đại. Chủ nghĩa yêu nước lúc này là chủ nghĩa yêu nước của nhân dân, không bị hạn chế, biến chất bởi chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh tư sản, phong kiến. Chính trong thời kỳ Đảng lãnh đạo, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam càng có những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển. Yêu nước ngày nay là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính, là đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng để xây dựng Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên tinh thần hòa bình, hữu nghị và hội nhập, cùng nhau phát triển.

Để kết luận, có thể khẳng định chủ nghĩa yêu nước là động lực, là chìa khóa của lịch sử Việt Nam, đoàn kết yêu nước là sức mạnh vô địch của dân tộc. Về vấn đề này, có thể vận dụng bài học của Bác Hồ về yêu cầu khai thác, phát triển lòng yêu nước, cũng được trình bày trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951):

“Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
GS. ĐINH XUÂN LÂM (ĐẠI ĐOÀN KẾT)