Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ SỰ PHÂN CHIA BÁN ĐẢO HÀN THỜI CẬN HIỆN ĐẠI


CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ SỰ PHÂN CHIA BÁN ĐẢO HÀN THỜI CẬN HIỆN ĐẠI


1. Các phong trào yêu nước
Trước khi Nhật Bản chính thức đặt ách cai trị trên bán đảo Hàn thì đã có hàng loạt phong trào yêu nước phản đối sự can thiệp của đế quốc nước ngoài như Nga, Pháp, Mỹ, đặc biệt, sự phản đối Nhật Bản diễn ra quyết liệt nhất.
Cuối thế kỷ XIX, trước sự can thiệp một cách sâu rộng và liên tục của các thế lực nước ngoài, đe doạ chủ quyền đất nước, trong nhân dân đã dấy lên làn sóng bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. SeoJaePil (Từ Tái Bật), chủ bút báo Độc lập Tân văn đã cùng những người đứng đầu phái Khai hoá đứng ra thành lậpHiệp hội Độc lập vào năm 1896. Hiệp hội này kêu gọi tất cả các tầng lớp trong xã hội tham gia; Phương hướng hành động là khai sáng cho quốc dân, tham gia các hoạt động chính trị bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, bảo vệ quyền lợi của nhân dân; thông qua cải cách để làm giàu đất nước.
Hiệp hội Độc lập thông qua báo Độc lập tân văn, tờ báo song ngữ bằng tiếng Hàn và tiếng Anh đã khai sáng cho đồng bào, thường xuyên mở hội thảo, diễn thuyết để cổ xuý tinh thần độc lập tự chủ. Đặc biệt, Hiệp hội này chủ trương phải hoạt động chính trị theo phương châm tôn trọng quyền lợi của quốc dân thì mới có thể xây dựng đất nước giàu mạnh.
Trong các hoạt động của Hiệp hội Độc lập, nổi bật nhất là hoạt động của Hội Vạn dân cộng đồng. Hội này do Hội viên của Hiệp hội Độc lập chủ trì đã được tổ chức tại Jongno, Seoul, (năm 1898) tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia thảo luận về các vấn đề chính trị, xã hội, phản đối hệ thống chính trị phụ thuộc nước ngoài, yêu cầu cải cách chính trị, đòi thực hiện nền chính trị nghị hội mang tính chất cận đại.
Ngay sau khi chủ trương của Hội Vạn dân cộng đồng được đưa ra, thì các hoạt động của quần chúng nhân dân mạnh mẽ hơn. Bởi thế, thế lực chính trị bảo thủ cảm thấy lo ngại, tìm cách khống chế và bắt bớ những người lãnh đạo của Hội. Nhân cớ Hiệp hội Độc lập xung đột với Hiệp hội Hoàng quốc (Hiệp hội do những người bán hàng rong lập ra), chính phủ đã giải tán Hiệp hội Độc lập.
Hiệp hội tuy bị giải tán nhưng hoạt động của Hiệp hội đã khích lệ tinh thần độc lập tự chủ, có ảnh hưởng rất lớn đến các phong trào dân tộc chống ngoại xâm của nhân dân Joseon.
Sau khi Hiệp hội Độc lập bị giải tán, đoàn thể chính trị ra đời sớm nhất là Hội Bảo an. Hội này đi tiên phong và hướng dẫn dư luận phản đối Nhật Bản đòi quyền khai thác đất hoang trong thời gian dài. Kết cục, Nhật Bản phải từ bỏ đòi quyền lợi đó nhưng Hội Bảo an cũng bị Nhật đàn áp và giải tán.
Sau sự đàn áp của Nhật, phong trào yêu nước chủ yếu tập trung chống lại sự xâm lược của Nhật, tiêu biểu là hoạt động của các Hội yêu nước như Hội Nghiên cứu chính trị lập hiến, Hội Đại Hàn tự cường, Hội Tân văn… Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế và thiếu kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh, hơn nữa, lực lượng chênh lệch quá lớn nên hàng ngàn người đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh chống Nhật.
Ý nghĩa lớn lao của các phong trào yêu nước là hun đúc tinh thần tự chủ dân tộc để rồi thổi bùng lên những cuộc đấu tranh lớn tiếp theo.
Từ năm 1910 trở đi, Nhật Bản chính thức cai trị bán đảo Hàn và thi hành chính sách đô hộ hà khắc nhằm đồng hoá dân tộc Hàn. Cùng với chính sách bóc lột nhân lực, vật lực và tài nguyên, Nhật Bản còn thi hành chính sách triệt tiêu dân tộc Hàn. Chúng đưa ra thuyết Nhật Tiên đồng tổ luận (Il Seon dongjoron) với luận điệu Nhật và Triều Tiên (Joseon) có cùng một tổ tiên và bắt buộc người Joseon phải sử dụng tiếng Nhật, lấy họ tên người Nhật, cấm xuất bản các tờ báo tiếng Hàn…
Mặc dù phải chịu ách thống trị thực dân tàn bạo nhưng ý chí độc lập của người dân Hàn ngày càng mạnh mẽ. Ngày mùng 1 tháng 3 năm 1919, một phong trào độc lập lớn nhất được triển khai một cách rộng lớn mà tiêu điểm là ở Seoul. Lịch sử Hàn Quốc gọi đây là Phong trào mùng 1 tháng 3. Nhân buổi tang lễ của nhà vua Gojong (Cao Tông: 1863 – 1907), ông vua bị buộc phải rời bỏ ngai vàng vào năm 1907, mất năm 1919, các nhà lãnh đạo phong trào dân tộc coi đây là một cơ hội thuận lợi để tổ chức một cuộc biểu tình rộng lớn chống lại ách thống trị của Nhật Bản, công bố Bản Tuyên ngôn độc lập. Ban đầu, cuộc biểu tình dự kiến tiến hành vào ngày 3 tháng 3, tức ngày đưa tang nhà vua. Nhưng, lo ngại bại lộ kế hoạch nên họ đã quyết định tiến hành trước hai ngày. Đúng ngày 1 tháng 3, đông đảo thị dân, học sinh, sinh viên, tín đồ các tôn giáo đã dồn về Jongno, trung tâm Seoul tổ chức biểu tình, nghe đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, 33 người lãnh đạo phong trào đã ký tên vào Bản Tuyên ngôn này. Sau đó, họ đổ xuống đường hô vang khẩu hiệu đòi độc lập, vẫy cờ Thái cực.
Quân đội Nhật bị bất ngờ trước cuộc biểu tình, tuy thế, chúng không chịu nhượng bộ và cho quân đội đàn áp đẫm máu. Có khoảng hơn 7000 người Hàn bị giết, 16000 người bị thương, hơn 40000 người bị bắt giữ, 415 ngôi nhà, 2 trường học, 47 nhà thờ bị phá huỷ….
Mặc dù bị thất bại nhưng Phong trào 1 – 3 đã xác nhận độc lập tự chủ trên toàn lãnh thổ thông qua tuyên bố Bản Tuyên ngôn độc lập. Đây chính là động cơ để các phong trào độc lập trong và ngoài nước được triển khai đa dạng hơn mà kết quả của nó là việc thành lập được Chính phủ lâm thời Đại Hàn dân quốc ở Thượng Hải Trung Quốc vào tháng 4 năm 1919. Chính phủ lâm thời có đầy đủ đại biểu đại diện cho các tỉnh thành trong cả nước tham gia và Tờ báo Độc lập Tân văn là cơ quan ngôn luận của chính phủ. Kế tiếp, năm 1920, Cao Ly Cộng sản Đảng được thành lập ở Thượng Hải do Lý Đông Huy lãnh đạo; năm 1925, Triều Tiên Cộng sản Đảng ra đời; năm 1927, Tân Cán Hội với tư cách là đoàn thể chính trị xã hội lớn nhất được thành lập. Năm 1929, nổ ra phong trào học sinh Gwang-ju phản đối Nhật Bản. Năm 1931, Chủ tịch Kim Gu của chính phủ lâm thời thành lập “Hàn nhân ái quốc đoàn” (đoàn thể người Hàn Quốc yêu nước) nhằm tổ chức các cuộc ám sát thực dân Nhật. Năm 1933, học hội tiếng Jo-seon ấn định phương án thống nhất về ngữ pháp Hangeul. Năm 1934, sáng lập học hội Jin-dan (Chấn Đàn học hội) nghiên cứu về Hàn Quốc học. Năm 1938, trước phong trào yêu nước dâng cao, Nhật Bản sửa đổi lệnh giáo dục Jo-seon, phế bỏ việc giáo dục chữ Hangeul cho người Hàn Quốc…
Tựu trung, các phong trào yêu nước được dấy lên có ý nghĩa to lớn trong việc nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần dân tộc chống lại ách thống trị của Nhật Bản để rồi tinh thần đó được phát huy cao độ vào dịp mùa thu năm 1945, đánh đuổi phát xít Nhật ra khỏi bán đảo Hàn.
2. Bán đảo Hàn được giải phóng và phân chia Nam – Bắc
Sau Đại chiến Thế giới II, Đức Ý Nhật đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Quân đồng minh từ hai hướng tiến sang bán đảo để giải giáp vũ khí của quân đội Nhật. Nhân cơ hội này, nhân dân trên bán đảo Hàn đã vùng lên giành độc lập. Ngày 15 – 8 – 1945, người dân trên bán đảo hoàn toàn được giải phóng khỏi ách thống trị của Nhật Bản suốt 36 năm. Tuy nhiên, người dân Hàn đã không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là thống nhất đất nước mà hai miền chịu ảnh hưởng của hai lực lượng đồng minh khác nhau, phía Bắc là Liên Xô, Trung Quốc; phía Nam là Mỹ. Quân đội Liên Xô và Mỹ lần lượt rút khỏi bán đảo Hàn vào cuối năm 1948 nhưng chế độ Hiệp thương hai miền không được thực hiện. Ngày 15 – 8 – 1948, ở phía Nam, nhà nước Đại Hàn Dân Quốc được thành lập. Ngày 9 – 9 – 1948, ở phía Bắc, nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng ra đời. Hai bên lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới và đi theo đường lối chính trị khác nhau. Hai thể chế chính trị này dấn sâu vào quan hệ thù địch với sự gắn kết chặt chẽ với Mỹ và Liên Xô, Trung Quốc, các cường quốc đang là đồng minh chống phát xít nay chuyển sang đối đầu về chính trị và quân sự. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953.
Trước khi xảy ra chiến tranh, trên dọc biên giới hai miền đã xảy ra các cuộc đụng độ nhỏ. Ngày 25 – 6 – 1950, cuộc chiến bùng nổ và kéo dài hơn 3 năm. Quân độ CHDCND Triều Tiên tiến công quân sự sang phía Nam, chỉ trong vòng một tháng, quân đội Triều Tiên đã chiếm hầu như toàn bộ lãnh thổ phía Nam, trừ đảo Jeju và một phần khu vực Đông Nam như Daegu, Busan. Trước tình thế đó, quân đội Mỹ và Liên hiệp quốc đã can thiệp và đẩy lùi quân đội Triều Tiên tới sát sông Áp Lục (tuyến biên giới giáp với Trung Quốc). Trung Quốc lập tức huy động toàn quân tham chiến toàn diện và đẩy lùi quân Mỹ về phía Nam. Tới tháng 3 – 1951, cuộc chiến chỉ dao động xung quanh vĩ tuyến 38. Đầu tháng 7 năm 1951, hai phe đã bắt đầu bàn bạc để tiến tới ký Hiệp định đình chiến. Trải qua 575 lần họp chính thức, ngày 27 – 7 – 1953, Hiệp định đình chiến được ký kết.
Chiến tranh đã gây cho cả Hàn Quốc và Triều Tiên những tổn thất nặng nề. Ước tính số người thiệt mạng của cả hai miền cộng lại khoảng 2.800.000 ~ 3.690.000 người (chiếm 10% dân số hai miền lúc đó). Tổn thất không chỉ là sinh mạng và vật chất mà còn cả về tinh thần. Sự thù địch giữa hai miền vẫn dai dẳng và sự ly tán giữa các gia đình cũng như của dân tộc vẫn chưa có ngày sum họp.
Lý Xuân Chung
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Các tài liệu tham khảo chính
  1. Lịch sử Hàn Quốc; Đại học Quốc gia Seoul biên soạn; Nxb Đại học Quốc gia Hà nội.
  2. Hàn Quốc: Lịch sử và văn hoá; Nxb Văn hoá 1996.
  3. Hàn Quốc: Lịch sử và văn hoá;, Nxb Chính trị Quốc gia 1995.
  4. Xã hội Hàn Quốc hiện đại; Đại học Quốc gia Seoul biên soạn; Nxb Đại học Quốc gia Hà nội.
  5. Hàn Quốc (Đất nước- Con ngưòi); Trung tâm thông tin Hải ngoại Hàn Quốc xuất bản; Seoul Hàn Quốc.

20 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC: MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT VÀ TRIỂN VỌNG


20 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC: MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT VÀ TRIỂN VỌNG



Quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Hàn Quốc được thiết lập cách đây 20 năm (ngày 22-12-1992), nhưng có thể nói hai dân tộc Việt Nam và Hàn Quốc đã gắn bó từ lâu và có nhiều điểm tương đồng về lịch sử và văn hoá. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hai nước còn có những tiềm năng rất to lớn có thể bổ sung cho nhau trong quá trình hợp tác và phát triển[1]. Hơn thế nữa, quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc còn được sự thúc đẩy rất mạnh mẽ bởi quyết tâm chính trị của lãnh đạo cấp cao hai nước[2]. Chính vì vậy, chỉ sau 20 năm, một khoảng thời gian không dài so với lịch sử hàng ngàn năm của hai nước, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã phát triển hết sức ngoạn mục trở thành một tấm gương điển hình về quan hệ hợp tác song phương trong khu vực.


[1] . Việt Nam có nhiều tài nguyên, đang phát triển, có lợi thế về nhân công rẻ lại có tình hình chính trị, xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng tương đối cao, đang tích cực hội nhập quốc tế và khu vực; Hàn Quốc có nền kinh tế đứng hàng thứ 10 trên thế giới, các ngành công nghiệp rất phát triển, có lợi thế về công nghệ, kỹ thuật cao và vốn.
[2] . Tháng 8/2001, nhân chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nướcViệt Nam Trần Đức Lương, hai bên đã ra tuyên bố chung về lập “Quan hệ Đối tác trong thế kỷ 21”; tiếp đó nhân chuyến thăm Việt nam của Tổng thống Hàn Quốc Rô Mu Hiên tháng 10/2004, hai nước đã thoả thuận nâng quan hệ Việt-Hàn lên thành “Quan hệ Đối tác toàn diện trong thế kỷ 21”; trong chuyến thăm Hàn Quốc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 5/2009, hai bên đã trao đổi ý kiến sâu rộng về các biện pháp thúc đẩy quan hệ hai nước tiếp tục phát triển sâu sắc hơn nữa trong thời gian tới, thỏa thuận về nguyên tắc nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc lên thành "Đối tác hợp tác chiến lược" vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đây là một bước ngoặt mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực.  Và gần đây nhất, trong các chuyến thăm Hàn Quốc tháng 11/2011 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và tháng 3/2012 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã trao đổi và đạt được sự đồng thuận về nhiều biện pháp cụ thể nhằm đưa quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước lên một tầm cao mới.

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Hàn Quốc, bài viết này sẽ điểm lại một số thành tựu nổi bật của quan hệ hợp tác giữa hai nước trong 20 năm qua và dự báo triển vọng trong thời gian tới.

I. Một số thành tựu nổi bật
1. Từ đối tác thông thường trở thành đối tác chiến lược
Có thể khẳng định rằng việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Hàn Quốc là một quyết định lịch sử phù hợp với lợi ích của hai nước, đưa quan hệ giữa hai nước bước sang một giai đoạn mới, hướng tới tương lai, hợp tác cùng phát triển. Trong 20 năm qua, quan hệ giữa hai nước đã phát triển với tốc độ nhanh hiếm thấy trên hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị và kinh tế. Hàn Quốc đã trở thành một trong những đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam và Việt Nam cũng đã trở thành đối tác chiến lược hàng đầu của Hàn Quốc ở Đông Nam Á.
Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước đã duy trì đều đặn hàng năm việc trao đổi đoàn và các cuộc tiếp xúc lãnh đạo cấp cao. Kết quả của mỗi lần thăm viếng lẫn nhau ở cấp cao này không chỉ là hàng loạt các văn bản và thỏa thuận hợp tác được ký kết, mà mức độ chặt chẽ của quan hệ song phương giữa hai nước cũng được tăng thêm một bậc. Hai trong số các dấu mốc quan trọng của việc nâng cấp quan hệ giữa hai nước cần được kể đến là: năm 2001 quan hệ hai nước từ đối tác thông thường được nâng lên thành  “Đối tác toàn diện trong thế kỷ 21”; và năm 2009 tiếp tục được nâng lên thành “Đối tác hợp tác chiến lược”. Như vậy là chỉ sau chưa đầy hai thập kỷ, Việt Nam và Hàn Quốc đã trở thành những đối tác hợp tác chiến lược của nhau. Trong số rất nhiều quốc gia mà Việt Nam có quan hệ ngoại giao chính thức trong những năm đầu thập kỷ 1990, Hàn Quốc là quốc gia đầu tiên trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam. Đây là một sự phát triển hết sức nhanh chóng và ngoạn mục. Việc hai nước nhất trí nâng cấp quan hệ lên thành “Đối tác hợp tác chiến lược” chính là kết quả tất yếu của quá trình phát triển quan hệ song phương trong hai thập kỷ qua, đồng thời cũng là sự thể hiện quyết tâm chung của Chính phủ và nhân dân hai nước thúc đẩy mối quan hệ đó ngày càng phát triển tốt đẹp và sâu sắc hơn trong thời gian tới.
2. Quan hệ kinh tế phát triển nhanh và mạnh trên hầu hết các lĩnh vực
Có thể nói quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc là lĩnh vực phát triển nhanh nhất, năng động nhất, và hiệu quả nhất trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong 20 năm qua trên các khía cạnh như viện trợ phát triển, đầu tư trực tiếp và thương mại.
Về viện trợ phát triển, Việt Nam là một trong những nước được ưu tiên trong chính sách viện trợ phát triển của Hàn Quốc, và cũng là nước nhận được nhiều nhất trong tổng vốn viện trợ phát triển của Hàn Quốc. Giá trị của các khoản viện trợ cũng tăng nhanh qua từng năm. Tổng vốn ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 2008 mới đạt 471,4 triệu USD; nhưng chỉ trong 3 năm gần đây (2009-2011), Hàn Quốc đã cam kết hỗ trợ 1 tỷ USD cho các dự án phát triển của Việt Nam. Với cam kết này, Hàn Quốc đã trở thành nhà tài trợ song phương lớn thứ hai tại Việt Nam (chỉ sau Nhật Bản). Những lĩnh vực ưu tiên viện trợ của Hàn Quốc dành cho Việt Nam bao gồm: (1) Phát triển nguồn nhân lực và những nhu cầu cơ bản của con người như: giáo dục, đào tạo và y tế; (2) Hỗ trợ nhân đạo cho các vùng sâu vùng xa và vùng nghèo đói; (3) Xây dựng thể cho các khu vực đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; và (4) Phát triển nông nghiệp và nông thôn. Năm 2011, Hàn Quốc đã tuyên bố coi Việt Nam là nước trọng tâm và hình mẫu cung cấp ODA và chọn Việt Nam là 1 trong 26 nước thuộc “Đối tác chiến lược hợp tác ODA”, với 3 trọng tâm là: Tăng trưởng xanh, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng.
ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam tăng nhanh không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng và đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việt Nam có tầm quan trọng nhất định trong việc triển khai chiến lược của Hàn Quốc ở Đông Nam Á, là nhân tố mà Hàn Quốc không thể bỏ qua trong chính sách của mình đối với các nước trong khu vực. Mặt khác, nhân tố Hàn Quốc có ý nghĩa quan trọng và cần thiết trong chính sách đối ngoại và phát triển kinh tế của Việt Nam. Do đó, đẩy mạnh phát triển quan hệ hợp tác toàn diện, trong đó có ODA, là một yêu cầu khách quan đáp ứng lợi ích trước mắt và lâu dài của hai nước.
Về đầu tư trực tiếp, theo Thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), lũy kế các dự án còn hiệu lực tính đến ngày 30/6/2012, Hàn Quốc có gần 3.000 dự án đầu tư vào Việt Nam, với tổng vốn đăng ký đạt gần 24 tỷ USD, tăng khoảng 100 lần so với thời điểm ban đầu. Hàn Quốc trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam phần lớn (tới 70%) là vào các ngành công nghiệp chế tạo. Đây cũng là lĩnh vực được ưu tiên nhất trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam, đóng góp quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Hiện nay, FDI của Hàn Quốc đã được trải rộng trên hầu khắp các tỉnh thành trong cả nước, kể cả những vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, các địa phương như Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.HCM và Đồng Nai vẫn là những địa phương đang có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư Hàn Quốc, với số lượng dự án và vốn đầu tư vượt trội.
Chính phủ Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện và môi trường đầu tư thông thoáng cho các nhà tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Hàn Quốc. Từ 1/7/2004, Chính phủ Việt nam cũng đã quyết định miễn thị thực nhập cảnh cho tất cả khách Hàn Quốc vào Việt Nam nếu ở Việt Nam dưới 15 ngày. Do đó các doanh nhân Hàn quốc có thể dễ dàng đến Việt Nam tìm hiểu thị trường, tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ngoài các doanh nghiệp lớn như Samsung, Daewoo, LG, SK đã có mặt tại Việt Nam từ lâu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc cũng đã và đang tăng cường đầu tư và đầu tư thành công tại Việt Nam.
Hiện nay, các doanh nghiệp Hàn Quốc coi Việt Nam là một thị trường đầu tư hấp dẫn. Chính do làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp Hàn Quốc vào Việt nam đang tăng lên, tại Việt Nam đã hình thành cộng đồng doanh nhân Hàn Quốc lên đến hơn 35.000 người (trong đó ở Thành phố Hồ Chí Minh hơn 30.000 người và Hà Nội là hơn 5.000 người). Đây là cộng đồng doanh nhân nước ngoài lớn thứ hai tại Việt Nam (sau Trung Quốc).
Về thương mại, kể từ những năm 1980, Việt Nam đã có sự trao đổi mậu dịch với Hàn Quốc. Song quan hệ thương mại giữa hai nước chỉ thực sự phát triển nhanh kể từ đầu những năm 1990 sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức đến nay. Trong nhiều năm qua, Hàn Quốc luôn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Kể từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, giao dịch thương mại hai chiều giữa hai nước đã tăng 26 lần. Tốc độ tăng trưởng thương mại song phương từ năm 1992 đến năm 2011 đạt mức bình quân 27%/năm. Đặc biệt giai đoạn kể từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) (2007 đến nay), tăng trưởng thương mại song phương Việt Nam - Hàn Quốc đã đạt bình quân 42,5%/năm. Hàn Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương hai nước trong năm 2011 đạt gần 18 tỷ USD, tăng trên 39% so với năm trước; hai nước đang tiếp tục đẩy mạnh quan hệ thương mại để phấn đấu đạt mục tiêu tổng kim ngạch thương mại hai chiều 20 tỷ USD vào trước năm 2015, và 30 tỷ USD vào năm 2020; đồng thời tích cực hợp tác nhằm giảm dần và hướng tới sự cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước.
3. Sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa xã hội ngày càng sâu sắc
Với những nét tương đồng của các dân tộc vùng Á Đông, văn hóa, nghệ thuật cũng là một lĩnh vực góp phần quan trọng gắn kết hai dân tộc Việt Nam và Hàn Quốc, đặc biệt là trong giới trẻ. Ngày nay, giới trẻ Việt Nam biết rất nhiều, ngưỡng mộ và yêu thích nhiều gương mặt nổi bật của làng nghệ thuật giải trí Hàn Quốc. Với họ, dường như có sợi dây vô hình gắn kết, hòa nhập và họ luôn nhiệt liệt tán thưởng, dành tình cảm chào đón mỗi chuyến lưu diễn của các ca sỹ, diễn viên điện ảnh Hàn Quốc, cùng hòa mình trong những đêm diễn sôi động của các ngôi sao Hàn Quốc. Và dường như giữa họ không còn tồn tại bất cứ thứ rào cản ngôn ngữ, văn hóa nào…Hallyu, làn sóng văn hóa Hàn Quốc, đã được tiếp nhận ở Việt Nam một cách sâu rộng hơn bất cứ ở quốc gia nào khác trong khu vực.
Về giao lưu nhân dân, từ chỗ chỉ có vài chục người, đến nay trên mỗi quốc gia đã có khoảng 100.000 người của bên kia sinh sống. Mỗi năm có khoảng nửa triệu người của mỗi bên thăm viếng lẫn nhau. Thêm vào đó, với khoảng 40 ngàn cặp vợ chồng Việt Nam-Hàn Quốc, quan hệ hai nước đã vượt lên trên quan hệ thông thường và thực sự trở thành một mối quan hệ thân thích.
Nói về quan hệ hợp tác Việt-Hàn, chúng ta không thể không để cập tới một lĩnh vực hết sức quan trọng là hợp tác lao động giữa hai nước. Hợp tác lao động Việt-Hàn là điểm sáng nhất trong quan hệ hợp tác lao động của Việt Nam với các nước. Hợp tác lao động Việt-Hàn, ngoài ý nghĩa quan trọng về kinh tế, còn có ý nghĩa về văn hóa và xã hội. Nó không chỉ góp phần rất to lớn vào việc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động Việt Nam mà còn tạo điều kiện cho sự hòa nhập của người Việt Nam vào cuộc sống thường ngày của đời sống kinh tế cũng như văn hóa, xã hội Hàn Quốc. Quan trọng hơn cả, đội ngũ lao động Việt Nam làm việc trong các công ty của Hàn Quốc tại Việt Nam hoặc sang lao động ở Hàn Quốc trở về với sự am hiểu về văn hoá, ngôn ngữ Hàn Quốc, sẽ là một trong những cầu nối quan trọng tăng cường sự hiểu biết, quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Quan hệ hợp tác lao động giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã được thực hiện khá thành công. Trước hết phải kể đến là việc đào tạo và tuyển chọn các cán bộ quản lý, kỹ thuật viên và công nhân người Việt Nam làm việc tại các công ty của Hàn Quốc có vốn đầu tư tại Việt Nam. Hàn Quốc là một trong số các nước có vốn đầu tư lớn ở Việt Nam. Hơn nữa, các dự án đầu tư của Hàn Quốc phần lớn là các dự án với quy mô vừa và nhỏ đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, các nhà đầu tư của Hàn Quốc ở Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể vào việc đào tạo lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam.
Hàn Quốc cũng là một thị trường lớn và hấp dẫn đối với lao động Việt Nam. Hàn Quốc đang là thị trường xuất khẩu lao động lớn thứ 3 của Việt Nam. Hợp tác lao động sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ vì giành được sự ưu tiên cao của chính phủ hai nước. Chính phủ Việt Nam đánh giá cao những ưu đãi của phía Hàn Quốc đối với lao động Việt Nam, những nỗ lực của các cơ hữu quan của Hàn Quốc, đặc biệt là KOILAF, trong việc thúc đẩy hợp tác lao động với Việt nam. Về phần mình, chính phủ Việt Nam đang cũng đã có những biện pháp thiết thực nhằm nâng cao tay nghề, trình độ văn hoá, trình độ tiếng Hàn, cách ứng xử của lao động để cung cấp cho thị trường Hàn Quốc một đội ngũ lao động có chất lượng cao, ổn định, đáp ứng tốt các yêu cầu của các chủ doanh nghiệp tại Hàn Quốc.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế Việt Nam đang trải qua những diễn biến tương tự mà Hàn Quốc đã trải qua trong những thập kỷ trước đây. Một nét đặc trưng điển hình trong quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc, nếu so sánh với rất nhiều quan hệ song phương khác của Việt Nam, là Hàn Quốc sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm của mình và sẵn sàng hỗ trợ một cách đầy đủ nhất cho Việt Nam. Chính phủ Hàn Quốc đã coi Việt Nam là một trong những quốc gia đối tác quan trọng về hợp tác phát triển và đã đề xuất thực hiện Chiến lược Đối tác quốc gia (CPS) với Việt Nam giai đoạn 2011-2015 gắn liền với Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội, Kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội và Khuôn khổ Chiến lược ODA của Việt Nam. Các lĩnh vực ưu tiên trong CPS được lựa chọn theo 2 tiêu chí: Hàn Quốc có thể làm gì một cách tốt nhất trong hợp tác phát triển với Việt Nam và Việt Nam cần gì nhất? Chính phủ Hàn Quốc coi môi trường và phát triển xanh là lĩnh vực then chốt có thể thay đổi mạnh mẽ đời sống trong tương lai của toàn nhân loại và tiềm năng kinh tế của mỗi quốc gia. Hàn Quốc đã dành mối quan tâm và nỗ lực lớn cho lĩnh vực này và có nhiều điều có thể chia sẻ với Việt Nam. CPS được thiết kế để giúp Việt Nam chuẩn bị và thích ứng với những tác động của biến đổi khí hậu thông qua việc gìn giữ môi trường và tăng trưởng xanh. Những hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn chính sách và các chương trình xây dựng năng lực sẽ được đưa ra để nâng cao khả năng xử lý các vấn đề trên của Việt Nam.
IITriển vọng
Trong 20 năm qua mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã phát triển hết sức nhanh chóng về mọi mặt. Tiếp nối nền tảng của sự phát triển này, việc hai nước chọn năm 2012 làm năm hữu nghị Việt Nam - Hàn Quốc có thể coi là một dấu mốc mới cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ lâu dài của hai nước, trước hết là cho 20 năm tiếp theo. Có thể khẳng định triển vọng của mối quan hệ này là hết sức tốt đẹp. Giai đoạn mới của quan hệ hai nước được đánh dấu bằng các chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nước Việt Nam, Trương Tấn Sang, vào tháng 12/2011 và Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng, vào tháng 3/2012.
Trong các chuyến thăm này, hai bên đã ra các Tuyên bố chung thể hiện những nhận thức chung cũng như quyết tâm của lãnh đạo cấp cao hai nước trong việc đưa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược song phương lên tầm cao mới. Theo Tổng thống Hàn Quốc, Lee Myung Bak, Hàn Quốc là “người bạn thân thiết và chân thành nhất,” là “đối tác tốt nhất và thực chất” của Việt Nam, sẵn sàng hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, cả về kinh tế, thương mại, chính trị, quốc phòng, giao lưu nhân dân và hợp tác trên các diễn đàn quốc tế, khu vực.
Về kinh tế, hai bên đã nhất trí tiến hành khởi động đàm phán về một hiệp định tự do thương mại song phương (FTA). Điều này sẽ mở ra một triển vọng hết sức to lớn cho quan hệ thương mại giữa hai nước, tiến tới một sự hợp tác mậu dịch song phương cân bằng, cùng có lợi. Phía Hàn Quốc cũng đã nhất trí sẽ xem xét nghiêm túc những đề nghị của Việt Nam về việc tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc cũng như giúp Việt Nam trong việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ phù hợp với kế hoạch phát triển của Việt Nam.
Hai bên cũng đã thảo luận về khả năng Hàn Quốc hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam cũng như đào tạo cho Việt Nam nguồn nhân lực trong việc sử dụng hạt nhân vào mục đích hòa bình. Hai bên còn thỏa thuận với nhau hàng loạt các vấn đề quan trọng khác nữa, như: Các doanh nghiệp Hàn Quốc sẽ đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng, khai thác và chế biến sâu khoáng sản của Việt Nam; Mở rộng hợp tác về tư pháp dân sự, ứng dụng công nghệ thông tin, chính phủ điện tử, chuyển giao công nghệ mũi nhọn, hợp tác trong kiểm dịch, bảo vệ môi trường, y tế, lao động, dạy nghề; Và hợp tác trong chống khủng bố, bảo vệ an ninh hàng hải trên các vùng biển của khu vực theo luật pháp quốc tế.
Bên cạnh mối quan tâm hàng đầu trong quan hệ hai nước thời gian tới vẫn là tăng cường hợp tác về kinh tế- thương mại, việc mở rộng hợp tác trong vấn đề ngoại giao – an ninh với tư cách là đối tác hợp tác chiến lược cũng được coi là hết sức quan trọng. Hai bên cũng chủ trương đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực mang tính toàn cầu như môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và tình hình tín dụng quốc tế bất ổn định.
Đặc biệt, trong chuyến thăm chính thức Hàn Quốc của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã ký kết nhiều văn bản hợp tác quan trọng giữa các bộ, ngành của hai nước[3]. Việc ký kết các văn bản hợp tác này có ý nghĩa tích cực đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của Việt Nam và Hàn Quốc.
Hai mươi năm qua, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc đã tiến những bước dài và là một trường hợp điển hình của những cặp quốc gia quyết tâm gạt quá khứ, hướng về tương lai và đạt được những thành tựu rực rỡ. Vậy 20 năm tới sẽ ra sao? Câu trả lời không khó vì từ xuất phát điểm ở những bậc thang rất thấp, quan hệ giữa hai nước đã tiến lên những nấc thang cao hơn với một tốc độ phát triển nhanh nhất thì nay từ nấc thang mới đó nhất định hai nước sẽ tiến lên tầm cao hơn nữa của quan hệ quốc tế.
Theo nhận định của tờ báo Thế giới và Việt Nam, “Quan hệ Việt-Hàn (trong 20 năm tới) không phải là tiếp tục phát triển như 20 năm vừa qua, nó không phải là phép cộng của 20 năm tới mà nó là phép nhân, phát triển theo cấp số nhân. Không phải là 20+20 mà là 20x20 hoặc gần như thế. Hai mươi năm nữa nếu theo đà quan hệ này, theo ý chí của lãnh đạo và nguyện vọng của nhân dân hai nước như thế này, thì Việt Nam và Hàn Quốc nhất định sẽ trở thành đôi bạn, đôi anh em phồn vinh và hùng mạnh trên bờ Thái Bình Dương”.[4]
Theo đà phát triển mạnh mẽ của quan hệ hai nước trong 20 năm qua, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sâu sắc hơn nữa trong thời gian tới.

Trần Quang Minh*


* . TS. Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Bản tin Kinh tế, TTXVN (nhiều số).
  2. Báo Đầu tư (nhiều số).
  3. Hana, Hợp tác phát triển giữa Hàn Quốc và Việt Nam: Tình hình và triển vọng, luận văn Thạc sĩ tại Trường đại học KHXH và NV, Đại học quốc gia Hà Nội
  4. Korea's ODA Policy Direction, Rae-Kwon Chung, Ministry of Foreign Affairs and Trade, November 5, 2003
  5. Nghĩa tình Việt Nam Hàn quốc, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà nội, 2002.
  6. Tài liệu tham khảo, TTXVN (nhiều số)
  7. Thời báo Kinh tế Việt Nam (nhiều số).
  8. Trần Quang Minh, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc, Tạp chí Khoa học xã hội, số 6, 2009
  9. Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam:  http://www.mpi.gov.vn/
  10. Website của Bộ Ngoại giao Nam http://www.un.int/vietnam/
  11. Website của Bộ Thương mại Việt Nam: http://www1.mot.gov.vn/tktm/
  12. Website của Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn/



[1] . Việt Nam có nhiều tài nguyên, đang phát triển, có lợi thế về nhân công rẻ lại có tình hình chính trị, xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng tương đối cao, đang tích cực hội nhập quốc tế và khu vực; Hàn Quốc có nền kinh tế đứng hàng thứ 10 trên thế giới, các ngành công nghiệp rất phát triển, có lợi thế về công nghệ, kỹ thuật cao và vốn.
[2] . Tháng 8/2001, nhân chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nướcViệt Nam Trần Đức Lương, hai bên đã ra tuyên bố chung về lập “Quan hệ Đối tác trong thế kỷ 21”; tiếp đó nhân chuyến thăm Việt nam của Tổng thống Hàn Quốc Rô Mu Hiên tháng 10/2004, hai nước đã thoả thuận nâng quan hệ Việt-Hàn lên thành “Quan hệ Đối tác toàn diện trong thế kỷ 21”; trong chuyến thăm Hàn Quốc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 5/2009, hai bên đã trao đổi ý kiến sâu rộng về các biện pháp thúc đẩy quan hệ hai nước tiếp tục phát triển sâu sắc hơn nữa trong thời gian tới, thỏa thuận về nguyên tắc nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc lên thành "Đối tác hợp tác chiến lược" vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đây là một bước ngoặt mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực.  Và gần đây nhất, trong các chuyến thăm Hàn Quốc tháng 11/2011 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và tháng 3/2012 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã trao đổi và đạt được sự đồng thuận về nhiều biện pháp cụ thể nhằm đưa quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước lên một tầm cao mới.
[3] . Sáng 28/03/2012 dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak,  Bộ trưởng Tài chính Việt Nam Vương Đình Huệ và Bộ trưởng Tài chính và Chiến lược Hàn Quốc Bahk Jaewan đã ký Biên bản hợp tác trên lĩnh vực tài chính giai đoạn 2013-2015. Chiều ngày 29/03/2012, dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Hàn Quốc Kim Hwang-sik, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ và Chủ tịch Ủy ban Dịch vụ Tài chính Hàn Quốc (FSC) Seok Dong Kim đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực bảo hiểm giữa Bộ Tài chính Việt Nam và Ủy ban Dịch vụ Tài chính Hàn Quốc. Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ và Chủ tịch Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (Korea Eximbank) Dongsoo Kim cũng đã  ký Hiệp định vay Dự án điện mặt trời tỉnh Quảng Bình và Dự án hệ thống xử lý nước thải và thoát nước thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang); Và nhiều hiệp định khác cũng đã được ký kết như: Thỏa thuận về việc tiếp tục tăng cường hợp tác phát triển năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, Biên bản ghi nhớ về hợp tác xây dựng Vườn ươm Công nghệ quốc gia...

[4] . Như trên

KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA HÀN QUỐC


KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA HÀN QUỐC


Sự đối đầu Đông - Tây mà trung tâm là Mỹ và Liên xô dẫn đến tình trạnh chiến tranh lạnh đã khiến Hàn Quốc theo đuổi quan hệ đối ngoại của mình phù hợp với các quốc gia phương Tây, những quốc gia theo chủ trương dân chủ. Trong những năm sau Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), cộng đồng quốc tế nhìn nhận Hàn Quốc như một đất nước kiệt quệ do chiến tranh tàn phá. Những hình ảnh đó bắt đầu thay đổi từ năm 1962 khi Đại Hàn Dân Quốc áp dụng chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu và bắt đầu tích cực tham gia vào thương mại quốc tế trên toàn thế giới.

Vì sự đối đầu Đông - Tây trở nên sâu sắc trong cuộc Chiến tranh lạnh, Đại Hàn Dân Quốc - một nước vốn được coi là một thành viên của khối phương Tây, bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại thông qua tăng cường các mối quan hệ hợp tác với các nước trong Thế giới thứ ba. Kể từ những năm 1970, hoạt động ngoại giao của Hàn Quốc tập trung vào việc tăng cường độc lập và thống nhất trong hoà bình trên bán đảo Hàn. Hàn Quốc cũng củng cố mối quan hệ với các đồng minh và tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế.

Dựa trên nền tảng ngoại giao vững chắc, Hàn Quốc tiếp tục theo đuổi quan hệ đối tác hợp tác với tất cả các nước trên mọi lĩnh vực trong suốt những năm 1980. Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, những biến cố lịch sử tại Đông Âu và Liên bang Nga đã chấm dứt cuộc Chiến tranh lạnh, và Đại Hàn Dân Quốc đã nhanh chóng tận dụng tình hình bằng cách tích cực đẩy mạnh "quan hệ ngoại giao với Phương Bắc".

Trước đây, Hàn Quốc có quan hệ ngoại giao với CHDCND Triều Tiên nhằm góp phần tăng cường quan hệ của nước này với các nước xã hội chủ nghĩa tuy nhiên mối quan hệ này không tiến triển tốt do những khác biệt về tư tưởng và cơ cấu. Quan hệ với Liên bang Nga và Trung Quốc, được bình thường hoá theo một trình tự ngắn hơn, và do đó làm cho quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc thực sự manh tính toàn cầu.Quan hệ Việt Nam - Hàn Quôc được thiết lập tháng 12 năm 1992.Tháng 9 - 1991, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên đồng thời gia nhập Liên Hiệp Quốc, sự kiện này thể hiện sự thành công của chính sách ngoại giao với phương Bắc. Ngoài ra, nền tảng cùng tồn tại hoà bình giữa hai miền Triều Tiên đã được đặt ra vào tháng 12-1991 khi cả hai bên ký Hiệp định hoà giải, không xâm lược, trao đổi và hợp tác và Tuyên bố chung về bán đảo Hàn không có vũ khí hạt nhân.

Những văn kiện lịch sử này là nền tảng cho nền hoà bình trên bán đảo và khu vực Đông Bắc Á, thể hbước đầu tiên quan trọng tiến tới hoà bình thống nhất trên bán đảo Hàn.

Ngay sau Chiến tranh lạnh, một khuynh hướng nổi bật đã xuất hiện trong chủ nghĩa khu vực. Các nước như Đại Hàn Dân Quốc- quốc gia theo đuổi tăng trưởng lấy xuất khẩu làm động lực, thấy ràng mình đang phải đối mặt với một môi trường kinh tế quốc tế khác hẳn với trước đây. Hàn Quốc có mối quan hệ thương mại chủ yếu với các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu.

Điều này thường gây ra những sự mất cân đối trong cán cân thương mại. Hàn Quốc tăng dần hoạt động thương mại với các nước đang phát triển trong khi khối lượng giao dịch thương mại với các nước phát triển giảm dần.

Giao dịch thương mại của Hàn Quốc với các nước đang phát triển và các nước Đông Âu sẽ tiếp tục mở rộng trên cơ sở nền kinh tế và thương mại của Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng và cơ cấu các ngành công nghiệp của quốc gia vẫn tiếp tục tập trung vào các hoạt động sử dụng nhiều công nghệ. Một khi hoàn thành cơ cấu lại công nghiệp, Hàn Quốc sẽ có thể góp phần lớn hơn vào việc phát triển kinh tế bằng cách nâng cao hợp tác với các nước đang phát triển dựa trên cơ sở những lợi thế và sự bổ sung tương đối.

Mặc dù các nước tiến tiến vẫn giữ vị thế then chốt về thương mại và là đối tác chủ yếu trong khoa học công nghệ, Hàn Quốc vẫn phải nỗ lực nhằm hạn chế sức ép bằng cách mở cửa thị trường ở mức độ tương đương mà các nước đang phát triển đang mở, bắt đầu từ sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.

Những vấn đề môi trường toàn cầu như sự suy yếu của tầng ôzôn, sự ấm lên của trái đất và nạn phá rừng, đã trở thành những thách thức mới với nhân loại.

Tháng 6 năm 1992, Hội nghị của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển còn gọi là Hội nghị thượng đỉnh Trái đất - đã giúp Hàn Quốc hiểu hơn thông điệp về sự phát triển kinh tế liên tục nhưng không được làm ảnh hưởng đến môi trường nuôi dưỡng tất cả chúng ta. Người dân Hàn Quốc hết sức tự hào về sự đóng hóp của họ đối với việc thông qua Tuyên ngôn Rio và Chương trinh nghị sự 21. Mục đích của chính sách mới này là tìm kiếm sự kết hợp hài hoà giữa môi trường và phát triển kinh tế, một sự cân bằng giữa thương mại và môi trường cũng như sự tham gia tích cực vào những nỗ lực toàn cầu trong việc bảo vệ môi trường.

Hội nghị bàn tròn tổ chức tại Uruguay về cơ bản đã giải quyết sự cắt giảm đồng bộ các loại thuế quan và dỡ bỏ toàn bộ hàng rạo mậu dịch phi thuế quan, một bước quan trọng trong phong trào thế giới hướng tới tự do thương mại. Hàn Quốc đã đi tiên phong trong việc thực hiện mở cửa thị trường nhằm ủng hộ hệ thống tự do thương mại toàn cầu.

Hàn Quốc ngày nay đã và đang tham dự tích cực vào các tổ chức quốc tế và các hoạt động mang tính toàn cầu.

Thực hiên: Minh Ngọc và nhóm Web

Nguồn: Tài liệu lưu tại TTNCHQ

CƠ HỘI CHUYỂN TỪ XUNG ĐỘT SANG HỢP TÁC


CƠ HỘI CHUYỂN TỪ XUNG ĐỘT SANG HỢP TÁC

Tạp chí Nghiên cứu Hàn Quốc - Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
Ban Thư ký về Hợp tác ba bên mở ra tại Seoul dưới ngọn cờ hòa bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á đã được gần một năm, nhưng, thật không may, mối quan hệ song phương giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, giữa Trung Quốc và Nhật Bản hiện đang ở mức tồi tệ nhất từ khi các quốc gia này bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
Cả ba nước này đã nhanh chóng thay đổi tình trạng và sức mạnh quốc gia. Một nước thì đang nổi lên nhanh chóng như một thành viên của nhóm G2, trong khi đang tạo ra thách thức đối với trật tự thế giới; một nước thì cảm thấy vị trí thống trị của mình bị đe dọa bởi vị hàng xóm đó, nước thứ ba, một cường quốc mới nổi lên, đang tiếp tục thúc đẩy uy tín toàn cầu của mình.
Trong các mối quan hệ song phương, các mối hiềm khích to lớn có thể bùng phát giữa các quốc gia khi mà những sự thay đổi đó xảy ra và các mâu thuẫn phát sinh có thể bùng phát thành phản ứng dân tộc. A.F.K. Organski (1923-1998), một giáo sư chính trị quốc tế nổi tiếng đã từng nói rằng, trong những trường hợp như vậy, khả năng xảy ra các cuộc xung đột hoặc chiến tranh là rất cao.
May mắn thay, trong thập kỷ qua, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản đã xây dựng mối quan hệ ba bên trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa. Các hội nghị Bộ trưởng trong 18 lĩnh vực, ngoài hai hội nghị thượng đỉnh còn bao gồm các cuộc họp Bộ trưởng ngoại giao hàng năm nữa.
Mười trong số các hội nghị ba bên liên quan đến các vấn đề về kinh tế: thương mại, tài chính, dịch vụ hậu cần, thông tin và truyền thông, thuế hải quan, bằng sáng chế, khoa học và công nghệ, nông nghiệp và nguồn nước. Các quốc gia cũng đang hợp tác trong 100 lĩnh vực, chẳng hạn như các hiệp định thương mại tự do, môi trường, năng lượng và hàng không. Sự hợp tác này không có trong liên minh Hàn Quốc-Mỹ hay liên kết ba bên Hàn Quốc-Mỹ-Nhật bản.
Ban Thư ký về Hợp tác ba bên được thành lập bởi ba nước vào tháng 9 năm ngoái, là một cơ quan thường trực đóng một vai trò then chốt trong mọi diễn đàn ba bên, bao gồm các hội nghị thượng đỉnh, các cuộc đàm phán thương mại và các cuộc họp về quan hệ đối ngoại.
Gần đây, tác giả đã tới thăm Washington, D.C để trao đổi quan điểm về tình hình ở Đông Bắc Á với những người có liên quan tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, Viện Brookings và Quỹ Di sản. Tất cả đều bày tỏ sự đồng tình với việc Đông Bắc Á chuyển hướng sang hợp tác và hội nhập, bao gồm cả ban Thư ký Hợp tác Ba bên. Họ quan tâm về việc Seoul, Bắc Kinh và Tokyo đang tăng cường mạng lưới hợp tác của mình. Nói cách khác, Mỹ đang chú ý đến cơ chế hợp tác ba bên như một thực thể quan trọng.
Bây giờ đã đến lúc cả ba nước nên vận hành cơ chế này. Họ nên đến với nhau để cùng thảo luận về việc làm thế nào để giải quyết các tranh chấp song phương đã có từ lâu về lãnh thổ và các vấn đề lịch sử.
Pháp và Đức, hai thành viên chủ chốt của EU đã đạt được một sự hòa giải mang tính lịch sử trong một cuộc họp giữa Tổng thống Pháp Charles de Gaulle và Thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer vào tháng 7 năm 1962, mặc dù họ là kẻ thù của nhau trong hơn hai thế kỷ.
Hàn Quốc sẽ đảm nhận vai trò là chủ tịch của hội nghị thượng đỉnh vào năm sau. Vị trí địa chính trị của quốc qua này là một điều lí tưởng cho các cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản, vốn dĩ đã có mối thù truyền thống. Hàn Quốc có thể sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc hòa giải và mở ra một kỷ nguyên mới. Ba quốc gia Đông Bắc Á không chỉ là một nhóm khu vực nữa mà là một tiêu điểm của quốc tế.
Họ cho rằng, khủng hoảng là một cơ hội. Đây là lí do mà Seoul, Bắc Kinh và Tokyo có thể chuyển các cuộc xung đột hiện tại thành một cơ hội để mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự hợp tác.
Lê Minh Đông – Trung tâm Bắc Á - Viện NC Đông Bắc Á

Cục diện mới trong quan hệ quốc tế


Cục diện mới trong quan hệ quốc tế

(HNM) - Trước những biến động phức tạp của nền kinh tế thế giới, Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latin - Caribe và Liên minh Châu Âu lần thứ nhất (CELAC-EU) vừa bế mạc tại thủ đô Santiago (Chile) đã đưa ra nhiều giải pháp cho các vấn đề kinh tế toàn cầu; đồng thời tạo cơ hội để hai bên hướng tới quan hệ hợp tác bình đẳng và bền vững.
 
Phiên họp toàn thể Hội nghị Thượng đỉnh CELAC - EU tại thủ đô Santiago (Chile) cuối tuần qua.
Phiên họp toàn thể Hội nghị Thượng đỉnh CELAC - EU tại thủ đô Santiago (Chile) cuối tuần qua.

Với chủ đề "Liên minh vì sự phát triển bền vững thông qua thúc đẩy đầu tư xã hội và môi trường có chất lượng", Hội nghị CELAC-EU tại xứ Quả ớt quy tụ hơn 40 nhà lãnh đạo quốc gia ở cả hai châu lục, cùng ban lãnh đạo EU và đại diện một số tổ chức khu vực và quốc tế. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa EU gồm 27 thành viên với CELAC - tổ chức mới được thành lập hồi tháng 12-2011 gồm tất cả các nước Châu Mỹ, trừ Mỹ và Canada - nhằm thúc đẩy thương mại khu vực và hợp tác về mặt thể chế. Thực tế, quan hệ EU - Mỹ Latin dù có cội nguồn từ nhiều thế kỷ trước nhưng chỉ thật sự cởi mở và phát triển vào nửa cuối thế kỷ XX. Với những cải cách tiến bộ trong hơn nửa thế kỷ qua, Mỹ Latin đã trở thành một đầu cầu của nền kinh tế thế giới và đang tìm tới những đối tác mới. Và, Châu Âu như một "duyên nợ" lịch sử đã trở thành một đối tác tất yếu. Do đó, cuộc gặp CELAC-EU có thể nói đã diễn ra đúng lúc trong bối cảnh một Châu Âu khủng hoảng đang tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, Mỹ Latin không chỉ đứng ngoài "tâm bão" suy thoái mà còn có nền kinh tế phát triển tốt hơn nhiều so với một EU đang chìm trong khủng hoảng.

Trước đây, mỗi lần có cuộc gặp cấp cao giữa EU với các tổ chức hợp tác và liên kết khu vực khác, trong đó có Mỹ Latin - với tư cách là một tập hợp các quốc gia đang phát triển - thì câu hỏi quen thuộc là Châu Âu giúp, viện trợ gì cho các nước? Nhưng, giờ đây, mọi thứ đang thay đổi khi chính EU đang cần sự hợp tác và hậu thuẫn của các tổ chức, khu vực trên toàn cầu để vượt qua khó khăn. Kinh tế các nước Mỹ Latin dự kiến tăng trưởng 4% trong năm nay và GDP của các nước Mỹ Latin có thể tăng gấp đôi từ nay tới năm 2030 - trong khi đó với EU, dự kiến là tăng trưởng âm. Thành công của các nước Mỹ Latin và Caribe được cho là đã rút ra nhiều bài học từ quá khứ như: áp dụng kinh tế vĩ mô thận trọng và tăng cường chính sách xã hội tiến bộ. Đây là điều trái ngược với các nước EU, nơi người ta đang đổ lỗi "khủng hoảng" lên "tội đồ" mang tên: quỹ phúc lợi xã hội. Rõ ràng cuộc khủng hoảng nợ công đang hoành hành tại Châu Âu đã làm thay đổi nhãn quan của EU với Mỹ Latin. Hiện tại EU coi Mỹ Latin như một đối tác chiến lược bình đẳng và là một khu vực có thể giúp Lục địa già giải quyết khó khăn. Theo Ngoại trưởng Chile Rafael Moreno, đây là lần đầu tiên Mỹ Latin có một vị thế đặc biệt giúp Châu Âu tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề kinh tế. Còn các nhà lãnh đạo Châu Âu không thể nói khác rằng, họ rất cần Mỹ Latin vào thời điểm này để vực dậy nền kinh tế đang lao đao. Giá trị giao thương giữa EU và Mỹ Latin tăng gấp đôi trong 10 năm qua, đạt 200 tỷ euro vào năm 2012. Châu Âu hiện là nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại khu vực Mỹ Latin và Caribe. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển hợp tác kinh tế giữa hai khu vực là rất lớn. Nhiều nhà lãnh đạo Châu Âu hy vọng, cuộc tập hợp CELAC-EU có thể giúp thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ hơn với khu vực Mỹ Latin giàu tiềm năng.

Cuộc gặp cấp cao đầu tiên giữa hai khu vực có mối quan hệ từ sâu trong quá khứ đã phản ánh rõ sự thay đổi thế thời trong cục diện quan hệ quốc tế hiện đại. Hai bên đang bước vào kỷ nguyên hợp tác mới, thúc đẩy mối quan hệ dựa trên nền tảng giảm viện trợ vật chất và tăng hợp tác bình đẳng hơn trong nhiều lĩnh vực.


CHÍNH SÁCH CỦA LIÊN BANG NGA TẠI BIỂN ĐÔNG: KẾ THỪA HAY THAY ĐỔI


CHÍNH SÁCH CỦA LIÊN BANG NGA TẠI BIỂN ĐÔNG:
KẾ THỪA HAY THAY ĐỔI
(Phân tích sự chuyển đổi chính sách của Nga tại biển Đông
tính từ năm 2002 đến nay.)

Huỳnh Hồ Đại Nghĩa[1]


1.      Khái quát chính sách của Liên Bang Nga tại biển Đông tính từ năm 2002 đến trước ngày 05/04/2012[2].
Có thể thấy rằng, trong quá khứ, quốc gia hiện diện tại biển Đông trước nhất là Nga chứ không phải là Mỹ. Bằng chứng là từ những năm 80, Liên Xô đã từng kết hợp với Việt Nam khai thác mỏ Bạch Hổ ở biển Đông. Nhìn chung, có thể nói rằng khi đề cập đến vấn đề chính sách của Nga tại biển Đông thì chủ yếu là phân tích xoay quanh mối quan hệ Nga-Việt Nam.
Vào năm 2001, trước những thay đổi to lớn của thế giới và cả trong nội tại hai nước, Việt Nam và Nga đã nhất trí chấm dứt sớm thỏa thuận 1979[3] về vấn đề sử dụng cảng Cam Ranh. Đến năm 2002 thì việc nhất trí này chính thức diễn ra với sự kiện Đại tá chỉ huy trưởng Eryomin là người cuối cùng rời Cam Ranh. Từ đó đã chấm dứt sự hiện diện của các lực lượng quân sự Nga tại cảng Cam Ranh nói riêng và toàn bộ biển Đông nói chung [4]. Trong suốt những năm sau đó, quan hệ chính trị ngoại giao giữa Nga và Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong việc thực hiện quan hệ đối tác chiến lược. Hai bên đã tổ chức được nhiều cuộc gặp gỡ ở các cấp về các vấn đề song phương và đa phương. Có thể kể đến như vào tháng 11/2006, Tổng thống V. Putin đã có chuyến thăm thứ hai tới Việt Nam[5]; đến tháng 7/2007 là chuyến viếng thăm theo chiều ngược lại của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; đến tháng 10/2008 là chuyến thăm Nga của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết[6]. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông vẫn chưa thật sự hiện diện nhiều trong giai đoạn này. Nếu có chỉ có thể kể đến một số sự kiện liên quan đến biển Đông có thể coi là nổi bật hơn cả như vào ngày 23/03/2010, hãng thông tấn Nga đưa tin Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly đã thông báo rằng Hải quân Nga sẽ giúp Hải quân Việt Nam trong việc xây dựng căn cứ đồn trú tàu ngầm, có thể là tại Cam Ranh. Tiếp đến ngày 07/05/2011, một hạm đội bao gồm Tàu Đô đốc Vinogradov, tàu chở dầu hạng trung Peche Nga và tàu cấp cứu SB-522 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Nga đã thăm Việt Nam và ghé Cảng Tiên Sa, Đà Nẵng[7].
2.      Những thay đổi liên quan đến biển Đông tính từ ngày 05/04/2012 – Lý giải nguyên nhân.
Biển Đông là một khu vực có truyền thống giao thoa nhiều lợi ích chiến lược của các cường quốc có ảnh hưởng lớn đến châu Á-Thái Bình Dương. Vì thế việc biển Đông ngày càng được gia tăng độ ưu tiên trong chính sách của các cường quốc như Nga hoàn toàn có thể xảy ra.
Nhìn chung, từ trước đến nay, Nga có hai lợi ích lớn ở Đông Nam Á là các dự án năng lượng và bán vũ khí. Nếu đánh giá một cách tổng quan thì Nga có ít lí do để xem trọng những tranh chấp trên biển Đông. Nhưng cũng như bất cứ quốc gia nào khác, Nga dĩ nhiên cũng muốn thấy khu vực này bình ổn, hoặc những bất ổn sẽ được giải quyết trên hòa bình vì những lợi ích kể trên, đặc biệt là trong mối quan hệ với Việt Nam. Chưa hết, trong chiến lược lấy lại vị thế của mình sau thời kỳ “ngủ đông”, Nga rất có thể sẽ cần một đồng minh để phát triển và mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á và với một mối quan hệ tốt đẹp có từ trước thì Việt Nam đã hiện lên như là một đối tác lí tưởng.
Nhìn lại trong những năm gần đây, bất chấp tình hình tranh chấp căng thẳng tại biển Đông ngày càng leo thang, phía Moscow hầu như không đưa ra một lời bình luận chính thức nào về vấn đề này. Bất ngờ đã xảy ra vào ngày 20/05 khi Đại sứ Nga tại Philippines đã lên tiếng “phản đối bất kỳ bên thứ 3 nào không có tranh chấp can dự vào hoạt động tranh chấp trên biển Đông” vào khu vực này và “đây là quan điểm chính thức của (chính phủ) chúng tôi. Cũng giống như Mỹ, Nga không phải là một bên tranh chấp trên biển Đông, nếu không Nga sẽ trở thành kẻ can thiệp vào công việc nội bộ của các bên tranh chấp”, với lí do “Nga quan tâm tới tự do hàng hải”[8]. Đây có thể coi là lần đầu tiên một quan chức Nga chính thức có bình luận về tình hình căng thẳng ở biển Đông. Trước đó, vào ngày 05/04/2012, tập đoàn khí đốt Gazprom của Nga đã tuyên bố tham gia dự án khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ở biển Đông mà công ty Anh BP đã phải từ bỏ dưới áp lực của Trung Quốc[9].
Nếu xem vấn đề này là một ván cờ thì có thể coi đây là một nước cờ khá mạo hiểm của Nga, vì có thể thấy rằng từ trước giờ Nga vẫn đang chơi cờ nước đôi: một mặt bán vũ khí, khí tài cho các quốc gia trong khu vực, mặt khác tiếp tục thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Cũng có thể đây là một hành động của Nga nhằm giúp Việt Nam giảm thiểu một số mối lo trước những động thái ngang ngược của Trung Quốc. Đồng thời, cũng có thể coi là sự khởi đầu cho Nga trong quá trình quay trở lại châu Á.
So sánh một cách ví von thì Nga thừa hiểu đây là một “con cá” khó câu vì sẽ làm “phiền lòng” Trung Quốc, xấu nhất có thể dẫn tới xung đột. Nga cũng sẽ phải gồng mình chịu áp lực vì cỡ cường quốc như Anh với BP và Mỹ với Exxon cũng đã phải chùn bước, còn Ấn Độ thì đã dừng hợp tác trong dự án thăm dò dầu khí ở hai lô 127 và 128 ngoài khơi hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận. Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy Nga có những lợi thế nhất định để làm cơ sở cho những hành động của mình.
Thứ nhất, Nga không hề bị lệ thuộc và càng không phải là “con nợ” của Trung Quốc, điều khác biệt với mối quan hệ khá chặt chẽ về kinh tế và tài chính của Mỹ với Trung Quốc. Do đó Nga dám đi những nước cờ táo bạo vì Trung Quốc không thể dùng áp lực kinh tế, còn Mỹ thì phải cực kỳ thận trọng.
Thứ hai, hiện Nga còn là một trong những đối tác cung cấp vũ khí lớn cho Trung Quốc. Mà Trung Quốc cũng đang mở rộng quy mô lực lượng quân đội cả về số lẫn chất lượng nhằm mục tiêu tạo áp lực cho các nước xung quanh.
Thứ ba, theo các nhà nghiên cứu thì tranh chấp ở biển Đông nếu xét trên bình diện toàn cầu thì không hẳn là vấn đề đối đầu trực tiếp với các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia,.. mà đó còn là cuộc tranh giành quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ. Do đó nên chắc chắn Trung Quốc không muốn rơi vào thế khó “lưỡng đầu thọ địch”. Đặc biệt hơn là Moscow đang không phải vướng bận vào những vấn đề lớn như Iran, Iraq, Bắc Triều Tiên,… trong khi Washington vẫn đang cần Bắc Kinh trong những vấn đề nóng bỏng như Bắc Triều Tiên.
Xét về cơ bản, dù trực tiếp hay gián tiếp thì Nga vẫn có nhiều lợi ích lớn ở biển Đông. Trong bối cảnh căng thẳng như hiện nay thì việc tập đoàn Gazprom tham gia khai thác dầu khí tại Việt Nam ít nhiều cũng thể hiện ý đố chiến lược của Moscow.
Vị thế của biển Đông phụ thuộc không chỉ vào sự dồi dào nguồn tài nguyên mà còn bởi tầm quan trọng chiến lược của vùng biển này - nơi mà Nga có tầm nhìn xa chiến lược tại khu vực. Với sự phục hồi về kinh tế và liên tiếp có những cải cách quân sự ngày càng tiến bộ, Nga đã bắt đầu tiến hành hướng về phía Đông và chắc chắn Nga sẽ không bỏ qua khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng như biển Đông chắc chắn nằm trong vành đai đó.
Trở lại với việc đưa ra bình luận của Đại sứ Nga tại Philippines vào ngày 20/05, có một điểm đáng lưu ý là Nga ủng hộ “giải pháp song phương”, điều mà Trung Quốc mong muốn và theo đuổi từ lâu. Nhiều nhà phân tích cho rằng có khả năng Nga đang dần thể hiện mình hướng gần hơn với Bắc Kinh. Nếu Nga tiếp tục bày tỏ thái độ như vậy trong việc này thì có thể coi như là gây thêm một khó khăn mới trong việc hướng tới quốc tế hóa và giải quyết đa phương của Việt Nam, Philippines,… Bất ngờ hơn là Nga còn tuyên bố muốn tập trận chung với Philippines. Đây chỉ có thể lại là một nước cờ đôi đầy ẩn ý của Moscow. Theo AP thì đây cũng có thể là một động thái quan trọng chứng tỏ Nga không hề tụt hậu vị thế so với Mỹ .
Chắc chắn rằng nếu Nga xuất hiện thì sẽ khiến tình hình diễn biến tại biển Đông thay đổi. Trong tình huống Nga tiếp tục đi những nước cờ táo bạo và Trung Quốc sẽ chỉ lên tiếng phản đối lấy lệ thì chủ quyền của Việt Nam trên những vùng biển này sẽ được củng cố vì sự khai thác tài nguyên trên một vùng biển nào đó nếu diễn ra tốt đẹp thì cũng là một hình thức xác định chủ quyền. Nhưng tất cả những giả thuyết trên chỉ là tình huống giả định, khả năng thành hiện thực còn là một câu hỏi khó và phải cần thời gian.
Trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á lần thứ 11 tại Shangri-La, Singapore với sự tham dự của đại diện tới từ 28 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương cùng với Anh, Pháp, và Mỹ kết thúc vào ngày 03/06, Nga gần như không có một động thái hay phát biểu cụ thể nào đề cập tới vấn đề biển Đông. Trong khi Mỹ thì rất mạnh dạn bày tỏ quan điểm khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta công bố “đến năm 2020, Mỹ sẽ triển khai 60% năng lực hải quân tại Thái Bình Dương, và 40% tại Đại Tây Dương, thay đổi so với tỷ lệ 50:50 hiện nay” [10]. Điều này làm nhiều người đặt câu hỏi về việc liệu rằng Nga có thật sự quan tâm đến biển Đông hay không khi mà những động thái liên quan vẫn chưa thật sự rõ ràng.
Xét về cơ bản, Nga hợp tác với Việt Nam nhằm tận dụng những ưu thế cực lớn của biển Đông cũng không khác gì việc Mỹ hậu thuẫn cho Philippines. Tuy nhiên, có thể thấy rằng hiện Nga thực sự chưa đủ sức mạnh để triển khai trên tầm quốc tế, điều này khác hoàn toàn so với Mỹ. Việc Nga đang có nhiều lợi ích chung với Trung Quốc cũng khiến Nga không thể hiện được quá nhiều trên biển Đông. Tuy nhiên, không thể vì thế mà xem thường vai trò và những gì Nga có thể làm ở biển Đông. Dưới sự lãnh đạo của Putin và việc Nga đã thành lập Bộ phát triển Viễn Đông thì rõ ràng Nga sẽ tiếp tục chú trọng phát triển chính sách hướng Đông. Và để chính sách này tiến hành tốt thì Nga phải cần một môi trường ổn định cả trong nước lẫn quốc tế. Vì thế, việc biển Đông dậy sóng rõ ràng là không tốt cho Nga, và Nga dĩ nhiên sẽ sẵn sàng duy trì mối quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây dựng với Việt Nam tại biển Đông.
Trong chuyến thăm chính thức của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tới Nga theo lời mời của Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergey Lavrov vào ngày 29/6- 3/7 thì hai bên cũng đã lên tiếng nhắc lại là mọi tranh chấp tại biển Đông nên được xử lý theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC. Theo đó, Bộ trưởng Sergey Lavrov cũng lên tiếng ủng hộ Việt Nam bằng cách kêu gọi nhanh chóng xây dựng được một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc đối với các bên về tranh chấp trên Biển Đông COC. Một tờ báo mạng chuyên ngành có uy tín tại Nga cũng vừa đăng một bài nhìn nhận về những căng thẳng đang xảy ra trên biển Đông, kèm theo một lời “cảnh báo” rằng “trong trường hợp Trung Quốc muốn tiến tới, nước này sẽ gặp phản ứng không chỉ từ phía Việt Nam, mà cả Nga và Hoa Kỳ”[11].
Qua đó, có thể thấy rằng mặc dù Nga và Trung Quốc hiện vẫn đang là hai đối tác của nhau trên trường quốc tế và có sự phối hợp chặt chẽ trên nhiều hồ sơ quốc tế để chống lại các nước phương Tây, đặc biệt là trong vấn đề Syria và Iran. Tuy nhiên, Moscow lại đang nhìn nhận sự trỗi dậy của Bắc Kinh ở châu Á-Thái Bình Dương với một thái độ nghi ngại, với sự lo sợ về vị thế của mình. Và điều này dĩ nhiên đang rất có lợi cho Việt Nam.
Trong khi những tín hiệu tích cực đến từ chuyến thăm chính thức của ông Phạm Bình Minh chưa hết nóng thì dư luận lại có dịp đổ dồn sự chú ý vào chuyến thăm chính thức Nga vào cuối tháng 7/2012 của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang nhằm tăng cường mối quan hệ đối tác chiến lược[12]. Theo thông tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra thì chuyến thăm kéo dài 5 ngày từ ngày 26 đến 30/7. Trong đó, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có cuộc gặp với Tổng thống Nga Vladimir Putin, sau đó là Thủ tướng đồng thời là Chủ tịch đảng Nước Nga thống nhất Dmitry Medvedev, và các lãnh đạo cấp cao khác[13]. Có một điều đặc biệt trong chuyến đi này là các cuộc gặp và làm việc giữa ông Trương Tấn Sang và ông Putin sẽ diễn ra ra thành phố nghỉ mát Sochi bên bờ Biển Đen. Đây là nơi mà đất nước Nga luôn dành để đón tiếp lãnh đạo của các cường quốc hoặc những quốc gia có quan hệ thân thiết và tin cậy. Điều này đã làm cho dư luận đoán được rằng ông Putin đang có thái độ coi trọng Việt Nam như thế nào.
Xung quanh chuyến đi này, dư luận cũng đang rất quan tâm là liệu vấn đề biển Đông có được đưa ra thảo luận giữa Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Putin hay không. Hiện nay Nga đang là một trong vài nước lớn có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Cơ chế đối thoại chiến lược Ngoại giao - An ninh - Quốc phòng thường niên hoạt động đều đặn và hiệu quả[14]. Việt Nam cũng là một trong những đối tác mua vũ khí nhiều nhất của Nga[15]. Liên tục trong nhiều năm qua, Nga đã bán cho Việt Nam nhiều vũ khí tối tân như máy bay tiêm kích SU-27, SU-30, hộ tống hạm Gepard, tài ngầm lớp Kilo, hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển K-300P Bastion và tổ hợp tên lửa S300[16]. Đặc biệt hơn khi đa phần những vũ khí mà Việt Nam mua từ Nga đều nhằm phòng vệ biển, nhất là trong bối cảnh tranh chấp biển Đông đang leo thang như hiện nay.
Vào thời điểm hiện tại, ta có thể thấy chỉ có Mỹ mới đủ tiềm lực “khống chế” Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông. Tuy nhiên, việc hai nước Trung Quốc và Mỹ liên tục lên tiếng chỉ trích những hành động gây hấn trên biển Đông của nhau trong thời gian qua khiến nhiều người nghĩ tới một kịch bản xấu, có thể là xảy ra chiến lạnh giữa hai ông lớn này. Điều này vô tình lại tạo nên nhiều điều kiện thuận lợi cho Nga trong việc nhảy vào can thiệp ở biển Đông.
Có một câu hỏi khác được đặt ra là liệu Nga có thật sự muốn xâm hại đến những lợi ích song phương to lớn với Trung Quốc khi can thiệp vào biển Đông hay không? Khi mà hiện tại Nga vẫn chưa xác định biển Đông là “lợi ích” gì đối với mình trong khi Mỹ đã rất mạnh bạo tuyên bố biển Đông là “lợi ích quốc gia”. Có thể thấy là dù mối liên quan lợi ích Trung-Nga rất lớn nhưng thật sự thì đây lại là mối quan hệ “bằng mặt không bằng lòng”, vẫn có những lợi ích mâu thuẫn nhau, tạo nên những cơn sóng ngầm. Moscow hiện đang nhìn nhận sự trỗi dậy của Bắc Kinh ở châu Á-Thái Bình Dương với một thái độ nghi ngại, với sự lo sợ về vị thế của mình. Vì vậy dĩ nhiên Nga đang rất muốn đẩy lùi vị thế của Trung Quốc tại tất cả các khu vực mà Nga đang hoặc sẽ có ý định nhảy vào. Vì thế mà Nga cũng sẽ không cam tâm để Trung Quốc qua mặt mình tại biển Đông, nơi đang trở thành điểm nóng quan tâm của cả thế giới.
Dù đang gặp nhiều vấn đề xấu về kinh tế, xã hội trong nước nhưng trên bình diện quốc tế thì Nga vẫn được coi là một cường quốc. Và để chứng minh cho cái gọi là cường quốc của mình thì bắt buộc Nga không được phép mất đi tiếng nói của mình tại những khu vực trọng yếu trên thế giới. biển Đông chính là một trong những khu vực trọng yếu như thế. Thêm vào đó, điều kiện địa lý của Nga rất không thuận lợi làm hạn chế nghiêm trọng sự phát triển sức mạnh trên biển, sức mạnh hải quân của Nga trong những năm gần đây. Phần lớn đường bờ biển thuộc khu vực lạnh giá, trong năm có thời gian đóng băng rất dài, tỷ lệ sử dụng bờ biển tương đối thấp. Khu vực biển Baltic và biển Đen đều có bờ biển ấm áp, có tương đối nhiều cảng không đóng băng, nhưng độ dài của tuyến đường bờ biển không lớn, khó trở thành căn cứ chủ yếu để phát triển quyền kiểm soát biển. Vì thế hơn lúc nào hết, Nga cần thông qua những đồng minh lâu năm của mình như Việt Nam để tìm kiếm ảnh hưởng tại những vùng biển có lợi ích hơn như tại biển Đông.
Hiện việc Trung Quốc liên tục phô trương sức mạnh quân đội cả trên đất liền lẫn trên biển đã khiến các quốc gia láng giềng cảm thấy bất an, tạo ra làn sóng ngầm vũ trang trên toàn khu vực. Điều này tạo cơ hội cho Nga trong việc có thêm một số hợp đồng cung cấp vũ khí. Nếu xét về cơ bản thì làn sóng vũ trang này mục đích chỉ để các nước tìm kiếm sự cân bằng trong quân sự với Trung Quốc chứ không hẳn là để gây nên chiến tranh. Vì thế Nga vẫn có thể vừa bán vũ khí dù là số lượng ít, vừa có thể hành động nhằm giữ cho tình hình biển Đông được ổn định. Đây là một nước cờ “đẹp cả đôi đường” cho cả Nga và tình hình biển Đông hiện tại.
3.               Quan hệ Nga-Mỹ, chiến lược “Trở lại châu Á- Thái Bình Dương” của Mỹ, chính sách “hướng Đông” của Nga và sự chi phối đến chính sách biển Đông của Nga theo hướng cân bằng quyền lực.
Có thể nói rằng quan hệ Nga-Mỹ hiện tại không phải là quan hệ đối đầu do sự đối kháng ý thức hệ chi phối như quan hệ Xô-Mỹ trước đây. Vào thời điểm này, đây vẫn là một trong những cặp quan hệ đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Cả Nga và Mỹ đều là những cường quốc về quân sự, có tầm ảnh hưởng trên thế giới ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là vấn đề chính trị, quân sự, an ninh quốc phòng.
Về phía Nga, mối quan hệ với Mỹ luôn được Nga coi là một trong những mối quan hệ song phương quan trọng nhất. Xét một cách tổng thể, Nga vẫn cần đến Mỹ nhiều hơn là Mỹ cần Nga. Mặc dù không coi Nga là kẻ thù nhưng Mỹ cũng chưa bao giờ có động thái nào cho thấy quốc gia này coi Nga là đối tác chiến lược.
Trong tất cả các lĩnh vực chính trị - đối ngoại, quân sự - an ninh, kinh tế - thương mại, Mỹ đã không xem Nga như là một đối tác bình đẳng. Sự nghi ngại, dè chừng, cảnh giác vẫn còn là tâm lý tồn tại dai dẳng và khá phổ biến ở cả hai phía. Về cơ bản, trên bình diện quốc tế, Mỹ dường như đang thực hiện một chính sách cân bằng giữa “đối tác chiến lược” và “đối thủ chiến lược” đối với Nga[17].
Sự trỗi dậy của Trung Quốc với những nỗ lực xây dựng chiến lược hoặc trật tự riêng sớm muộn sẽ thách thức quyền lãnh đạo của Mỹ, đe dọa đến vị thế của Nga trên trường chính trường quốc tế. Trong tình hình đó, theo lý thuyết chuyển dịch quyền lực, Mỹ có thể từ bỏ một phần đặc quyền nhưng sẽ không từ bỏ vị trí lãnh đạo thế giới mà xưa nay Mỹ vẫn đang làm rất tốt. Bên cạnh đó, Nga cũng sẽ làm mọi cách để đầy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc.
Hiện nay, vai trò và sức mạnh của Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương đã suy yếu đáng kể. Sự nổi lên của Trung Quốc càng làm nổi bật sự sa sút của Mỹ, vai trò và tầm quan trọng của Trung Quốc ngày càng được củng cố và tăng cường, ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này ngày càng sâu đậm bằng những tuyên bố và cách hành xử của chính quyền Bắc Kinh trong suốt thời gian qua tại khu vực biển Đông- Nơi mà chính phủ Trung Quốc đang thực hiện chính sách đi ra ngoài một cách rầm rộ nhất. Đứng trước một Trung Quốc đang trỗi dậy và đang cố gắng gây ảnh hưởng tại khu vực này, Mỹ đã bắt bắt đầu điều chỉnh ngay từ những năm đầu của chính quyền Obama, từng bước định hình cùng với quá trình điều chỉnh lại các ưu tiên đối ngoại quốc gia cũng như chiến lược toàn cầu của Mỹ. Với vai trò là cường quốc biển hàng đầu thế giới, Mỹ đã chủ yếu tiếp cận với châu Á - Thái Bình Dương thông qua con đường hàng hải. Hải quân Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển quyền lực của quốc gia. Hạm đội 7 trong Chiến tranh thế giới thứ 2 có một sức mạnh đáng kể, cũng như Chiến tranh Lạnh đã đóng một vai trò quan trọng trong mục tiêu bao vây và cô lập Liên Xô của Mỹ. Hiện nay, trong bối cảnh Trung Quốc đang nổi lên như là một thách thức mới, thì chiến lược toàn cầu của Washington cũng đang thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hiện nay, có thể nói rằng Nga - Mỹ là hai nước lớn trên thế giới có quyền quyết sách hoàn toàn độc lập tự chủ, có chiến lược ngoại giao dài hạn, có ảnh hưởng đặc biệt đến sự phát triển của thế giới. Việc mối quan hệ song phương này tốt hay xấu cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cục diện quốc tế. Bất cứ một vấn đề hay một sân chơi nào đó mà hai nước này tham gia đều sẽ phải chịu sự phụ thuộc rất lớn vào các động thái của chính hai nước này. biển Đông cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ.
Nga luôn muốn khôi phục vị thế siêu cường của mình còn Mỹ thì đang làm mọi cách để duy trì vị thế độc tôn của mình. Mỹ thực hiện chiến lược “trở lại châu Á – Thái Bình Dương” thì Nga cũng tiến hành chính sách “hướng Đông”. Cả hai cường quốc này đều muốn “ra mặt” và tái khẳng định vị trí, vai trò của mình tại khu vực này – nơi được xem lại địa chiến lược của các nước lớn trong thế kỷ 21. Xu hướng cân bằng quyền lực có lẽ là hợp lý nhất để giải thích cho những thay đổi chính sách của Nga tại khu vực biển Đông nói riêng và toàn cầu nói chung.
Tuy nhiên, hai quốc gia này lại đang có cách tiếp cận vấn đề khác nhau. Về phía Nga, rõ ràng những hành động của nước này có phần thiết thực hơn. Bằng chứng là Nga đã nhiều lần cởi mở với các ý tưởng tiến hành tập trận quân sự chung với Philippines trong lĩnh vực chống cướp biển, tìm kiếm cứu nạn giống như những gì họ đã triển khai với Indonesia hồi đầu năm 2011. Còn về phía Mỹ thì từ khi xảy ra xung đột đến nay, nước này đã rất mạnh dạn bày tỏ quan điểm khi tuyên bố biển Đông là lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, việc can thiệp của Mỹ khi xét về cơ bản thì chỉ là nhằm tăng cường trao đổi qua lại với ASEAN, Nhật Bản và Úc, còn việc ủng hộ ASEAN thì vẫn xoay quanh đồng minh truyền thống là Philippines, việc ủng hộ một số quốc gia khác có tranh chấp với Trung Quốc như Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ dừng lại trên bề mặt ngoại giao.
4.               Dự báo chính sách của Nga tại biển Đông trong thời gian tới và những điều kiện Việt Nam có thể tận dụng trong giải quyết tranh chấp biển Đông.
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng trường hợp Nga chấp nhận khoanh tay đứng nhìn cho mọi căng thẳng leo thang nhằm bán vũ khí trục lợi khó có thể xảy ra. Vì không những cần “miếng”, Nga còn cần “tiếng”. Việc có “miếng” mà không có “tiếng” sẽ tạo nên một hình ảnh không hề tốt đẹp cho cái gọi là “cường quốc” Nga trong con mắt dư luận quốc tế. Vì thế nước này chẳng dại gì mà đánh đổi điều đó với những con số cực hấp dẫn từ việc bán vũ khí khi có xung đột xảy ra. Tuy nhiên, cả Nga và Mỹ đều không muốn các nước có tranh chấp tại khu vực biển Đông lại đi đến cục diện xung đột vũ trang bởi cả hai nước đều có lợi ích cơ bản về tự do hàng hải, thông thương tại khu vực này.
Có thể khẳng định rằng Nga đang thực sự quan tâm và đang tích cực tìm kiếm một vai trò ngày càng lớn hơn tại biển Đông. Những động thái can thiệp một cách tích cực và mạnh bạo hơn là điều hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai gần. Qua hơn 60 năm kể từ khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao tính từ thời Liên Xô, có thể nói rằng hai nước Nga-Việt Nam hoàn toàn có thể đưa mối quan hệ này lên một tầm cao mới thông qua chuyến đi của ông Nguyễn Tấn Sang, đặc biệt là khi hai bên sẽ ký một loạt văn kiện hợp tác song phương[18]. Việc nâng tầm hợp tác rõ ràng rất có lợi cho Việt Nam trong tranh chấp biển Đông khi chắc chắn nhờ đó mà Việt Nam sẽ nhận được nhiều sự hậu thuẫn từ Nga-một nước mà Trung Quốc có liên quan nhiều lợi ích lớn. Còn Trung Quốc sẽ phải dè chừng với những hành động ngang ngược của mình khi có sự xuất hiện, can thiệp của Nga. Hay như tuyên bố của Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov trong cuộc trả lời phỏng vấn nhân kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Nga là “Cùng lạc quan nhìn về tương lai quan hệ Việt Nam-Nga”[19].
Về phía Nga sẽ là bước đi mang tính chiến lược khi Nga bắt đầu thực hiện chính sách hướng Đông thông qua Việt Nam. Vị trí và vai trò của Việt Nam trong ASEAN ngày càng được khẳng định, thông qua Việt Nam, Nga sẽ tăng cường hình ảnh và gây ảnh hưởng của mình tại khu vực này mà vốn dĩ là sân sau của Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Thông qua Việt Nam, Nga sẽ có nhiều cơ hội hợp tác cả về kinh tế quân sự lẫn an ninh quốc phòng trong đó có thể kể đến như Philippines, Indonesia chẳng hạn. Sự xuất hiện của khu trục hạm chống tàu ngầm Admiral Panteleyev, tàu chở dầu Boris và tàu cứu hộ Fotiy Krylov tại Philippines vào tháng 2/2012[20] là một minh chứng cho thấy người Nga đang thực hiện chính sách hướng Đông của mình một cách rõ nét.
Trong quá khứ Nga đã duy trì khá tốt ảnh hưởng của mình tại biển Đông trong đó có thể nói Cảng Cam Ranh đã từng là một trong những căn cứ trước đây của Liên Bang Xô Viết thời kỳ chiến tranh Lạnh và đã có trên 10.000 binh lính cùng các thành viên gia đình họ đồn trú tại Cảng Cam Ranh trong thời kỳ quan hệ giữa hai nước Nga - Việt thân thiết nhất[21]. Nhưng do nhiều lý do khác nhau, trong nhiều năm qua, quốc gia này đã hạn chế tầm ảnh hưởng của mình tại đây, chính vì thế Trung Quốc mới có điều kiện ra mặt trực tiếp, rồi sau đó Mỹ là kẻ tiếp theo nhảy vào. Cuộc tranh giành quyền lực và vị thế ở biển Đông đang diễn ra trong bối cảnh tiềm năng quân sự đặc biệt là hải quân của Trung Quốc phát triển tăng tốc và sự cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ nhằm gây ảnh hưởng của mình ở Đông Nam Á, có khả năng không chỉ sẽ phá vỡ sự ổn định trong khu vực. Trước tình hình đó, Nga đã điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình trong thời gian qua nhằm tạo ra thế chân vạc tại khu vực này từ đó cân bằng quyền lực, vị trí cùng với Mỹ và Trung Quốc. Một chiến lược phù hợp để cân bằng tương quan lực lượng sẽ là một giải pháp tốt cho cả Nga và cho tình hình chung trên biển Đông. Chúng ta hoàn toàn có thể tin vào sự phối hợp Việt Nam - Nga sẽ được tăng cường trong thời gian tới. Việc phối hợp và tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và Liên Bang Nga không chỉ là sự kế thừa và phát huy mối quan hệ truyền thống hữu nghị tốt đẹp của hai nước mà còn là sự kết hợp mang tính hiệu quả mang tính cơ học cho cả hai trong thời gian tới. Phía Việt Nam có thể tận dụng sự xuất hiện và chính sách hướng Đông của Nga nhằm mang lại nhiều kết quả tốt đẹp cho tranh chấp biển Đông theo đúng như mong muốn của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế. Ngược lại, thông qua Việt Nam, Nga bắt đầu gây ảnh hưởng mình cả về hợp tác kinh tế, quân sự, hàng hải…. tại  khu vực biển Đông nói riêng và Châu Á Thái Bình Dương nói chung vốn dĩ là “căn cứ” của Liên Xô trước đây. Từng bước xác lập lại trật tự và vị trí của Nga trên vũ đài quốc tế nhằm thực thi thế cân bằng quyền lực tại các khu vực nhạy cảm mà Nga đang quan tâm.















Danh mục tài liệu tham khảo:
1.      TS. Hà Mỹ Hương (2006), Nước Nga trên trường quốc tế: Hôm qua, hôm  nay và ngày mai, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2.      TS. Nguyễn An Hà (Chủ biên) (2011), Liên Bang Nga hai thập niên đầu thế kỷ 21, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
3.      A.P. Côchétcốp (2004), Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
4.      Nguyễn Quang Thuấn (Chủ biên) (2007), Hướng tới quan hệ hợp tác toàn diện Nga – Asean trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
5.      “Quan hệ Nga – Mỹ trước thềm bầu cử tổng thống Nga”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 043, thứ sáu, 17/02/2012.
6.      “Putin, nước Nga và thế giới”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 069, thứ tư, 14/03/2012.
7.      “Nước Nga thời Putin với những thời cơ và thách thức”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 085, thứ sáu, 30/03/2012.
8.      “Con đường trỗi dậy đầy trắc trở của nước Nga”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 093, chủ nhật, 08/04/2012.
9.      “Triển vọng quan hệ đối tác chiến lược Nga – Trung”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 111, thứ năm, 26/04/2012.
10. “Tổng thống Putin xác định đường hướng phát triển đất nước”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 131, thứ sáu, 18/05/2012.
11. “Đặc trưng và xu thế mới trong quan hệ Trung – Mỹ - Nga hiện nay”, Thông Tấn Xã Việt Nam, số 158, thứ năm, 14/06/2012.
12.  “Cam Ranh – Đệ nhất quân cảng”, Báo Công An Nhân Dân, 06/02/2011, http://antg.cand.com.vn/vi-vn/phongsu/2011/1/74338.cand
13. “Biển Đông: Liệu “gấu” Nga sẽ “vỗ ngực xưng tên”, Tuanvietnam.net, 08/06/2012, http://tuanvietnam.net/2012-06-05-bien-dong-lieu-gau-Nga-se-vo-nguc-xung-ten-
14. “Lần đầu tiên Nga lên tiếng về tình hình biển Đông”, VOV online - Đài tiếng nói Việt Nam, 21/05/2012, http://vov.vn/The-gioi/Lan-dau-tien-Nga-len-tieng-ve-tinh-hinh-Bien-Dong/210053.vov
15. “Tính toán của Nga ở biển Đông?”, BBC Vietnamese, 19/04/2012, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/04/120419_russia_scs_interests.shtml
16. “Mỹ sẽ điều 60% tàu hải quân đến Thái Bình Dương”, VnExpress, 02/06/2012, http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/06/my-se-dieu-60-tau-hai-quan-den-thai-binh-duong/
17. “Trung Quốc gây hấn để quên mâu thuẫn nội bộ?”, BBC Vietnamese, 18/07/2012, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/07/120718_russia_viet_china.shtml
18. “Chủ tịch Trương Tấn Sang sắp thăm Nga”, BBC Vietnamese , 22/07/2012, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/07/120722_sang_to_visit_russia.shtml
19. “Báo chí Nga đưa tin chuyến thăm của Chủ tịc nước”, VBA Vietnamese , 21/07/2012, http://hoidoanhnghiep.ru/vietnamese/News/16160/Bao-chi-Nga-dua-tin-chuyen-tham-cua-Chu-tich-nuoc.html
20. “Phỏng vấn Ngoại trưởng Nga nhân kỉ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại guao Việt Nam-Nga”, VBA Vietnamese , 25/01/2010, http://hoidoanhnghiep.ru/vietnamese/News/5137/Phong-van-Ngoai-truong-Nga-nhan-ky-niem-60-nam-thiet-lap-quan-he-ngoai-giao-VN-LB-Nga.html
21. Hải quân của Nga tăng cường sự xuất hiện tại biển Đông, Phunutoday, 04/06/2012,  http://phunutoday.vn/xa-hoi/quoc-phong/201206/Hai-quan-Nga-tang-cuong-xuat-hien-tai-bien-dong-2160883/
22. Putin tìm kiếm quá khứ của Liên Xô qua chiến lược biển Đông, 25/4/2012 http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/2553-putin-tim-kiem-qua-khu-cua-lien-xo




[1] Huỳnh Hồ Đại Nghĩa hiện là sinh viên năm 4, chuyên ngành Chính trị quốc tế tại Khoa Quan Hệ Quốc Tế, Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn TP. Hồ Chí Minh. Email: Dinkhuynh@gmail.com. Sđt: 0906.977.756
[2] Đây là ngày Tập đoàn khí đốt Gazprom của Nga đã nhận lời tham gia dự án khai thác khí đốt tại hai lô 5.2 và 5.3 ở biển Đông với Việt Nam.
[3] Từ năm 1979, theo hiệp định được ký kết giữa Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Xô, cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hậu cần, tên gọi đầy đủ là Điểm cung cấp vật liệu - kỹ thuật số 922 (PMTO) của Hạm đội Thái Bình Dương với diện tích khoảng 100 km2 trong thời hạn 25 năm, phục vụ một đơn vị thường trực chiến đấu mang tên Liên đội tàu chiến đấu số 17 của Hạm đội Thái Bình Dương.
[4] “Cam Ranh – Đệ nhất quân cảng”, Báo Công An Nhân Dân, 06/02/2011, http://antg.cand.com.vn/vi-vn/phongsu/2011/1/74338.cand
[5] Lần đầu tiên Tổng thống V. Putin viếng thăm Việt Nam là vào tháng 3/2001.
[6] TS. Hà Mỹ Hương (2006), Nước Nga trên trường quốc tế: Hôm qua, hôm  nay và ngày mai, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 292-293.

[7] Biển Đông: Liệu “gấu” Nga sẽ “vỗ ngực xưng tên”, Tuanvietnam.net, 08/06/2012, http://tuanvietnam.net/2012-06-05-bien-dong-lieu-gau-Nga-se-vo-nguc-xung-ten-
[8]“Lần đầu tiên Nga lên tiếng về tình hình biển Đông”, VOV online - Đài tiếng nói Việt Nam, 21/05/2012, http://vov.vn/The-gioi/Lan-dau-tien-Nga-len-tieng-ve-tinh-hinh-Bien-Dong/210053.vov

[9] “Tính toán của Nga ở biển Đông?”, BBC Vietnamese, 19/04/2012, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/04/120419_russia_scs_interests.shtml


[10] “Mỹ sẽ điều 60% tàu hải quân đến Thái Bình Dương”, VnExpress, 02/06/2012, http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/06/my-se-dieu-60-tau-hai-quan-den-thai-binh-duong/
[11] “Trung Quốc gây hấn để quên mâu thuẫn nội bộ?”, BBC Vietnamese, 18/07/2012, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/07/120718_russia_viet_china.shtml
[12] “Chủ tịch Trương Tấn Sang sắp thăm Nga”, BBC Vietnamese , 22/07/2012, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/07/120722_sang_to_visit_russia.shtml
[13] Số đã dẫn như trên .
[14] Số đã dẫn như trên.
[15] Số đã dẫn như trên.
[16] Biển Đông: Liệu “gấu” Nga sẽ “vỗ ngực xưng tên”, Tuanvietnam.net, 08/06/2012, http://tuanvietnam.net/2012-06-05-bien-dong-lieu-gau-Nga-se-vo-nguc-xung-ten-

[17] TS. Hà Mỹ Hương (2006), Nước Nga trên trường quốc tế: Hôm qua, hôm  nay và ngày mai, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 300.
[18] “Báo chí Nga đưa tin chuyến thăm của Chủ tịc nước”, VBA Vietnamese , 21/07/2012, http://hoidoanhnghiep.ru/vietnamese/News/16160/Bao-chi-Nga-dua-tin-chuyen-tham-cua-Chu-tich-nuoc.html

[19] “Phỏng vấn Ngoại trưởng Nga nhân kỉ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nga”, VBA Vietnamese , 25/01/2010, http://hoidoanhnghiep.ru/vietnamese/News/5137/Phong-van-Ngoai-truong-Nga-nhan-ky-niem-60-nam-thiet-lap-quan-he-ngoai-giao-VN-LB-Nga.html

[20] Hải quân của Nga tăng cường sự xuất hiện tại biển Đông, Phunutoday, 04/06/2012,  http://phunutoday.vn/xa-hoi/quoc-phong/201206/Hai-quan-Nga-tang-cuong-xuat-hien-tai-bien-dong-2160883/
[21] Putin tìm kiếm quá khứ của Liên Xô qua chiến lược biển Đông, 25/4/2012