Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

MẤY VẤN ĐỀ TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC NĂM 2008


MẤY VẤN ĐỀ TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC NĂM 2008




Là một nước lớn trong khu vực, chính sách ngoại giao của Trung Quốc luôn trở thành mối quan tâm sâu sắc của nhiều quốc gia. Vậy ngoại giao năm 2008 của Trung Quốc sẽ diễn ra theo chiều hướng như thế nào?. Để có thêm tư liệu tham khảo, Tòa soạn xin giới thiệu quan điểm của một số học giả Trung Quốc về đề tài này.

1. Quan hệ Trung-Nhật: vấn đề biển Đông sẽ đi theo hướng nào?

Hồ Kế Bình
Nghiên cứu viên, Viện Quan hệ Quốc tế hiện đại Trung Quốc


Năm 2008, trên vấn đề biển Đông, các cuộc thương thảo Trung - Nhật không tiến triển, cũng không thụt lùi. Các cuộc thương thảo này sẽ tiếp tục, có khả năng nâng cao cấp bậc, nhưng lập trường hai bên cách nhau quá xa, còn lâu mới đủ điều kiện đạt được thoả hiệp.
Vấn đề biển Đông không chỉ là vấn đề lợi ích kinh tế mà là vấn đề chủ quyền, vấn đề chiến lược, cần phải có quan hệ hợp tác chiến lược và bầu không khí hai bên tốt đẹp mới có khả năng giải quyết, nhưng trong tình hình trước mắt, hai bên rất khó đạt được thoả hiệp. Trước đó, Nhật Bản đã gác sang một bên những cố gắng giải quyết vấn đề biển Đông trong thời gian Thủ tướng Fukuda thăm Trung Quốc, bây giờ kỳ vọng giải quyết được vấn đề này trong năm 2008, khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm Nhật, cũng không lớn.
Trong tình hình trước mắt, vấn đề biển Đông Trung Quốc tương đối chủ động. Tôi cho rằng vấn đề biển Đông sẽ không mang lại ảnh hưởng quá lớn trong quan hệ Trung - Nhật hoặc tác động vào xu thế cải thiện quan hệ Trung - Nhật. Bởi vì nói cho cùng, vấn đề biển Đông chỉ là một bộ phận trong quan hệ Trung - Nhật, chỉ là vấn đề điều chỉnh lợi ích giữa hai nước, so sánh với bản thân quan hệ hai nước không ở cùng trong một tầng nấc. Cục diện của quan hệ Trung - Nhật hiện nay không dễ mà có được, Trung Quốc không muốn vì vấn đề biển Đông mà ảnh hưởng đến cục diện lớn Trung - Nhật, Nhật Bản cũng nghĩ như vậy. Vấn đề có thể được giải quyết tốt nhất là khi tạm thời chưa tìm được phương án mà hai bên đều có thể tiếp nhận thì hãy tiếp tục thương thảo. Đối với chính phủ của cả hai bên mà nói, cái cần làm trong năm 2008 là phải định vị rõ ràng vấn đề biển Đông trong toàn bộ quan hệ Trung - Nhật, tỉnh táo tìm con đường giải quyết, tránh làm cho vấn đề này bị nóng lên hoặc bị chính trị hoá, tránh làm cho việc liệu có giải quyết được  vấn đề biển Đông hay không trở thành tiêu chí để xem xét quan hệ Trung Nhật tốt hay xấu. Càng làm nóng lên càng không thể giải quyết vấn đề.
Ngoài ra, khả năng Chính phủ Nhật Bản xuất phát từ chính trị trong nước mà dùng vấn đề biển Đông để kiếm cớ cũng không lớn. Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã mất địa vị đa số ở Thượng nghị Viện, ắt phải nghiêm túc đối xử đối với cuộc bầu cử sắp tới tại Hạ nghị Viện. Cử tri thực sự quan tâm là vấn đề trong nước như kinh tế, dân sinh, dưỡng lão v.v. chứ không phải là vấn đề quốc tế. Fukuda hiểu rất rõ, sứ mệnh của ông là cứu đảng Dân chủ Tự do, trong bài diễn văn tựu chức của mình có tới 80% nói về vấn đề trong nước. Vì vậy tôi cho rằng, Nhật Bản cũng coi trọng cục diện quan hệ Trung - Nhật được cải thiện từng bước hiện nay.


2.  Trung - Mỹ: liệu Tổng thống mới có đi lại con đường
từ cứng rắn với Trung Quốc sang cải thiện?

Phó Mộng Du
Nghiên cứu viên, Viện Quan hệ Quốc tế hiện đại Trung Quốc


Bắt đầu từ sự kiện “11- 9”, liên tục trong 6 năm, quan hệ Trung - Mỹ đã ở vào thời kỳ ổn định bền vững dài nhất, hiếm thấy kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ, cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, thái độ cần có của hai nước Trung - Mỹ tại các điểm nóng khu vực và trên vấn đề toàn cầu đều đang được tăng cường. Trên các vấn đề như cơ chế an toàn Đông Bắc Á, chống khủng bố, cải tổ Liên Hiệp quốc v.v.. giữa Trung Quốc và Mỹ đã cơ bản hình thành quan hệ có tính chất cộng sinh.
Hiện nay đã có hơn 60 kênh đối thoại giữa Trung Quốc và Mỹ. Cơ chế đối thoại chín muồi, thành quả trực tiếp nhất mà chúng mang lại là sẽ không có vì ma sát nhỏ dẫn tới khủng hoảng lớn.
Trong cuộc bầu cử lớn ở Mỹ đang triển khai toàn diện, Trung Quốc không trở thành đầu đề câu chuyện đột xuất đặc biệt, đó cũng là tình hình ít thấy. Một mặt là, trong năm 2007, những đầu đề bàn luận về Trung Quốc như an toàn thực phẩm, tỷ giá đồng Nhân dân tệ, minh bạch hoá quân sự v.v.. đã được làm nóng lên đủ rồi, và điều quan trọng hơn là hiện nay ở trong nước Mỹ, chỉ đơn giản làm nóng lên câu chuyện Trung Quốc sẽ chẳng thu được bao nhiêu hiệu quả.
Tháng 12 năm ngoái, Trung - Mỹ vừa ký 14 hạng mục hiệp nghị thương mại và bị vong lục hợp tác thương mại. Cục diện lớn quan hệ Trung Mỹ đã triển khai, bất kể ai làm Tổng thống Mỹ đều không cần thiết phải xoay chuyển cục diện lớn này.
Năm 2008, quan hệ Trung - Mỹ nên duy trì trạng thái ổn định tương đối, từ đòi hỏi chiến lược, khuôn khổ cơ bản mà hai bên hiện nay đã xác định sẽ không vì sự thay đổi Tổng thống mà có thay đổi trọng đại.
Điều đáng chú ý nhất vẫn là vấn đề Đài Loan. Tháng 1, bầu cử “Uỷ ban lập pháp” Đài Loan, tháng 3 bầu cử Tổng thống, tháng 5 “Tổng thống” mới nhận chức, sẽ là ba thời kỳ nhạy cảm.
Vấn đề Đài Loan sẽ thử thách ở độ sâu thái độ của nước Mỹ đối với Trung Quốc. Hiện nay Mỹ phản đối việc Đài Loan độc lập trên đầu lưỡi, nhưng trên hành động đang phát ra những tín hiệu hỗn loạn, cung cấp cho Trần Thuỷ Biển chỗ dựa an toàn.

Trung Quốc hoà nhập vào xã hội quốc tế bằng thái độ có tính xây dựng, nước Mỹ cũng nên có suy nghĩ rõ ràng, ngôn hành nhất trí. Trần Thuỷ Biển đặt cọc vào nước Mỹ, hoặc nếu như không đặt cọc nhầm, thì quan hệ  Mỹ - Trung vẫn lớn hơn quan hệ Mỹ - Đài, đó cũng là hiện thực quốc tế.
Quan hệ Trung - Mỹ trong năm 2008 tràn đầy thách thức, nhưng từ trên tầm nhìn cao hơn, rộng hơn điều khiển quan hệ Trung - Mỹ đã trở thành sứ mệnh chung của hai nước.


3. Quan hệ Trung - Nga: liệu hợp tác quân sự có đi sâu không?

Phùng Ngọc Quân
Phó giám đốc, Viện nghiên cứu Nga, Viện Quan hệ Quốc tế hiện đại Trung Quốc

“Diễn tập quân sự, sứ mệnh hoà bình Trung - Nga năm 2007” là một lần diễn tập quân sự Trung - Nga qui mô lớn nhất. Trong năm 2008, hợp tác quân sự giữa Trung Quốc và Nga không chỉ giới hạn ở diễn tập quân sự, mà trong các mặt như hợp tác kỹ thuật, an ninh, điều hoà chiến lược v.v.. quan hệ hai nước, hai quân đội đều sẽ phát triển.
Đánh giá chiến lược về tình hình quốc tế của hai nước Trung - Nga là nhất trí, đó là tiền đề lớn nhất cho sự hợp tác quân sự hai nước. Nếu như hỏi quan hệ hợp tác quân sự Trung - Nga trong năm 2008 có chỗ nào cần phải chú ý, thì vấn đề đầu tiên là: sản xuất của ngành công nghiệp quân sự nước Nga liệu có thể thoả mãn được nhu cầu của Trung Quốc hay không?
Cùng với sự hồi phục và phát triển của nước Nga, chi tiêu cho quân sự đã tăng trưởng với mức độ lớn, việc đầu tiên của ngành công nghiệp quân sự nước Nga là phải thoả mãn nhu cầu trang bị trong nước. Ấn Độ đang đặt mua hàng không mẫu hạm “Nguyên soái Gorshkov” của Nga, thời hạn giao hàng đã bị đẩy lùi lại. Liệu việc Trung Quốc đặt mua trang bị vũ khí của Nga có xuất hiện tình hình tương tự như vậy hay không cần được chú ý.
Còn về mặt nghiên cứu hợp tác vũ khí, Nga và Ấn Độ đã cùng nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm, trong khi Trung - Nga cùng nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm còn đang tiến hành đàm phán. Liệu năm 2008 thành quả có tính thực chất hay không cũng nên chú ý.
So với hợp tác quân sự, làm thế nào để hợp tác kinh tế Trung - Nga giành được sự phát triển lâu dài là vấn đề còn bức thiết hơn, hiện thực hơn.
Năm 2007, thương mại của Trung Quốc với Nga đã xuất hiện thặng dư, bởi vì cùng với việc nâng cao sức mua của dân chúng Nga, nhu cầu về sản phẩm Trung Quốc của họ đã có sự gia tăng rõ rệt.
Liệu nước Nga có thể vứt bỏ mối lo đã trở thành “phụ thuộc kinh tế”, “phụ thuộc năng lượng” với Trung Quốc, liệu có vui lòng đem những điểm mạnh về năng lượng, nguyên vật liệu và kỹ thuật của mình kết hợp hữu cơ với nhân lực, tiền vốn, thị trường của Trung Quốc, để từ đó thực hiện Trung - Nga cùng phát triển, trong năm 2008 và trong thời gian dài hơn nữa đều là một vấn đề quan trọng. Tóm lại, hai nước cần có tầm nhìn xa, thông qua đi sâu hợp tác kinh tế đạt được sự đồng thuận chiến lược, thực hiện cùng phát triển.


4. Bán đảo Triều Tiên: liệu có thể ký được “Hiệp nghị hoà bình” không?

Chu Phong
Giáo sư, Viện Quan hệ quốc tế, Đại học Bắc Kinh


Tại Hội nghi cấp cao Triều - Hàn, Hàn Quốc đã đề xuất kiến nghị dùng “Hiệp định hoà bình Bán đảo Triều Tiên” thay thế cho “Hiệp định đình chiến” năm 1953. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên đồng ý sẽ cử hành hội đàm “ba bên” hoặc “bốn bên” về việc này. Giới truyền thông Hàn Quốc đưa tin, tiêu điểm của vấn đề là ở chỗ liệu Trung Quốc có đồng ý trở thành một bên của hiệp định hoà bình hay không, nhưng mối lo thực sự của Hàn Quốc là liệu mình có khả năng bị loại trừ ra ngoài hay không.
Ký “Hiệp định hoà bình” Bán đảo chí ít không phải là lợi ích  trước mắt của Triều Tiên, bởi vì “an ninh” là một con bài mà Triều Tiên có thể dùng để kẹp Hàn Quốc; còn Trung Quốc và Mỹ với tư cách là những đương sự quan trọng nhất trong tiến trình đàm phán “hiệp định hoà bình” đến nay vẫn chưa chính thức biểu thị thái độ về các vấn đề như thời gian và hình thức đàm phán v.v.. Lập trường của Mỹ là CHDCND Triều Tiên phải vứt bỏ vấn đề hạt nhân mới có thể có đàm phán hoà bình.
Khả năng ký “Hiệp định hoà bình” vào năm 2008 là không. Vấn đề then chốt của Bán đảo Triều Tiên vẫn là tiến trình phi hạt nhân hoá Bản đảo. Điểm đáng chú ý của “Hội đàm sáu bên” năm 2008 là ở chỗ, làm thế nào tiếp tục thực sự quán triệt “Hiệp nghị 213” và “Hiệp nghị 103” trong tranh cãi.
Có người lo lắng, cùng với việc hai bên Mỹ- Triều thông qua các kênh đạt được không ít đồng thuận thì “hội đàm sáu bên” sẽ bị ra rìa. Sự lo lắng như vậy là thừa. Vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, “Hội đàm sáu bên” là “hình thức đẹp nhất” về chính trị và ngoại giao để giải quyết vấn đề này. Thúc đẩy hội đàm hai bên Mỹ - Triều vốn là một trong những mong đợi của cơ chế “Hội đàm sáu bên”. Bất kể là Mỹ - Triều đạt thành hiệp nghị ở dạng nào, đều phải ký kết và xác nhận trong khuôn khổ “Hội đàm sáu bên”. “Hội đàm sáu bên” không thuyết phục CHDCND Triều Tiên nhưng đã thuyết phục

Mỹ thay đổi chính sách đối với Triều Tiên, Trung Quốc cũng kiên trì nguyên tắc, những yêu cầu hợp lý của CHDCND Triều Tiên  phải được thoả mãn và nhấn mạnh vai trò của “người hoà giải”. Vai trò và tác dụng của Trung Quốc trong “hội đàm sáu bên” không yếu đi mà đã tăng cường.
Trong khuôn khổ của “hội đàm sáu bên”, Trung Quốc hiện đứng ở vị trí có lợi. Xung đột lợi ích các bên đang sâu sắc thêm, tính phức tạp của việc buộc CHDCND Triều Tiên phải vứt bỏ hạt nhân đang tăng lên, chứ không phải giảm đi. Nhật Bản muốn giải quyết vấn đề “sự kiện con tin” và tên lửa, Hàn Quốc đang mưu cầu vai trò tích cực hơn, Nga không có nhiệt tình chính trị đối với vấn đề hạt nhân Triều Tiên, chính quyền Bush muốn có đột phá ngoại giao trên vấn đề Triều Tiên trước khi hết nhiệm kỳ, tất cả những cái này đều cần sự giúp đỡ của Trung Quốc. Lee Muyn Pack vừa trúng cử Tổng thống  Hàn Quốc là người bảo thủ, có khả năng điều chỉnh chính sách thân Triều của người tiền nhiệm. Quan hệ của Bán đảo trong tương lai đòi hỏi chúng ta phải quan sát chặt chẽ.
Ngoài ra, trong tiếng Triều Tiên có cách nói “chạy hai bên”, thế nhưng độ ăn khớp về lợi ích của Trung - Mỹ trong vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên vô cùng cao. Duy trì và giữ vững được sự điều hoà chiến lược Trung - Mỹ trong công việc tại Bán đảo là bảo đảm căn bản để cuối cùng thực hiện được giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên bằng chính trị và ngoại giao. Năng lực giao dịch giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên rất có hạn, trước khi CHDCND Triều Tiên vứt bỏ hạt nhân, nước Mỹ khó có những nhượng bộ thực chất trong việc bình thường hoá quan hệ. Chính sách, chủ trương hiện nay của Nhật Bản làm Mỹ tương đối “đau đầu”, điều hoà chính sách Bán đảo của Mỹ và Nhật là một vấn đề nữa đòi hỏi Mỹ giải quyết hiện nay.
Nước Mỹ muốn duy trì áp lực cứng rắn đối với CHDCND Triều Tiên, lại muốn duy trì sự kết nối với CHDCND Triều Tiên, đồng thời lại phải dùng cái giá phải trả và sự điều tiết mà chính trị trong nước Mỹ có thể tiếp nhận, để giải quyết vấn đề hạt nhân. Vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là vũ đài to lớn cho hợp tác chiến lược Trung - Mỹ


5. Trung Quốc đối mặt  với áp lực bên ngoài như thế nào ?

Trịnh Vĩnh Niên
Chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu chính sách Trung Quốc, Đại học Nottingham


Năm 2007, xoay quanh Thế vận hội Trung Quốc đã có rất nhiều câu chuyện bị phương Tây đưa ra. Ví dụ như, có một số người đề xuất vì vấn đề Darfur Châu Phi mà tẩy chay Thế vận hội Bắc Kinh, vấn đế nhân quyền, vấn đề tử hình của Trung Quốc cũng bị lôi ra, lại còn chuyện Đạt Lai Đạt Ma đến thăm mấy nước Âu Mỹ, được đón tiếp ở cấp cao. Những câu chuyện này có ảnh hưởng xấu đối với ngoại giao Thế vận của Trung Quốc sợ rằng còn phức tạp hơn tưởng tượng của những người bình thường.
Nói từ một góc độ nào đó thì chính trị đằng sau thế vận hội còn quan trọng hơn nhiều, so với bản thân thể dục.
Tổ chức thành công thế vận hội sẽ là một sự kiện có tính tiêu chí rằng Trung Quốc đã trở thành một quốc gia lớn mạnh. Sự phát triển của thực lực cứng của Trung Quốc ai cũng thấy, còn Thế vận hội chủ yếu là sẽ thể hiện của thực lực mềm của Trung Quốc. Tổ chức Thế vận hội có ích cho việc xây dựng thực lực mềm của Trung Quốc cũng là điều tương đối rõ, thế nhưng những câu chuyện bàn luận xấu trên ở mức độ rất lớn, sẽ làm suy yếu cơ hội phát triển thực lực mềm mà xã hội quốc tế mang lại cho Trung Quốc.
Thế giới phương Tây, chỉ có thiểu số người mong Trung Quốc thất bại. Những nhóm người khác nhau có lợi ích khác nhau của họ.Ví dụ như giới thương nhân hy vọng Trung Quốc tổ chức tốt Thế vận hội, hy vọng nhìn thấy Trung Quốc phát triển một cách ổn định, vì như vậy họ sẽ có thể kiếm được nhiều tiền hơn từ thị trường Trung Quốc. Dân chúng phương Tây cũng hy vọng Thế vận hội chỉ là một ngày hội thể dục vui vẻ không muốn nhìn thấy Thế vận hội bị chia rẽ, chính trị hoá.
Thế nhưng, cũng chẳng cần phủ nhận, xã hội phương Tây đối với Thế vận hội Bắc Kinh có sự trông đợi chính trị của họ. Đối với không ít quốc gia mà nói, Thế vận hội trở thành bước ngoặt để họ bước vào chế độ dân chủ, ví dụ Nhật Bản trong những năm 60 và Hàn Quốc trong những năm 80 của thế kỷ trước.
Những trông đợi này được bầy trên mặt bàn không hề né tránh. Tổng thống Mỹ Bush đã nói rõ, hy vọng Thế vận hội “mang lại thay đổi” cho Trung Quốc và đó cũng là một bối cảnh quan trọng của “giá trị ngoại giao” của nước Đức đối với Trung Quốc.
Còn về các vấn đề như nhân quyền, tôn giáo v.v..thực ra những áp lực do các vấn đề này mang lại trước sau vẫn tồn tại, vấn đề là xã hội phương Tây thông qua phương thức gì để gây áp lực. Có thể nói năm 2007 thế giới phương Tây  đã tìm được một số biện pháp hữu hiệu. Vậy thì, năm 2008 vấn đề mà
Trung Quốc phải đối mặt là: đối phó như thế nào?
Là mâu thuẫn trực diện hay là không thèm để ý tới? Sợ rằng những phương thức của mặt trước tốt hơn một chút, mâu thuẫn trực diện vốn là một loại thể hiện của thực lực mềm. Sau khi trải qua nhiều năm phát triển, biện pháp để Trung Quốc đối mặt với áp lực bên ngoài cũng nhiều lên rồi, nhưng cần sử dụng một cách thích đáng. Gia tăng ảnh hưởng đối với bên ngoài, không thể chính quyền lúc nào cũng diễn vai chính, lực lượng dân gian của Trung Quốc cũng phải đứng ra, xã hội đối với xã hội, sẽ tương đối có hiệu quả.

6. Vấn đề biên giới: liệu có vì lãnh thổ  mà phát sinh xung đột không ?
Quách Lực
Phóng viên Báo “ Nam Phương cuối tuần”


Nói từ một trình độ nào đó thì biên giới Trung - Ấn là một đoạn biên giới trên đất liền của Trung Quốc bị gác lại nhất và chưa được giải quyết.
Phó Tiểu Cường, nghiên cứu viên Viện Quan hệ Quốc tế hiện đại Trung Quốc cho rằng, khả năng xung đột biên giới Trung - Ấn trong năm 2008 không lớn. Quan hệ thương mại Trung - Ấn ngày càng mật thiết, ngoài ra việc tiến hành huấn luyện quân sự chống khủng bố liên hiệp giữa hai nước, quan chức quân sự cấp cao Ấn Độ tới thăm Tây Tạng đã nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau về quân sự giữa hai nước.
Với Phó Tiểu Cường xem ra vấn đề biên giới Trung - Ấn sẽ có đột phá trong năm 2008, điều then chốt, là đòi hỏi Ấn Độ phải vứt bỏ ảo tưởng, đưa ra nhượng bộ thực tế. Nếu như Ấn Độ giữ chặt biên giới năm 1962 không buông, thì khả năng có đột phá quan trọng không lớn.
Cuối năm 2007, “Thị trấn Tam Sa” đã gây ra sự kháng nghị liên tục của Việt Nam, biên giới biển và đất liền Trung - Việt một lần nữa trở thành tiêu điểm.
Ngày 27 tháng 12 năm 2002, Trung - Việt cử hành nghi thức đặt cột mốc biên giới mới  đầu tiên trên biên giới đất liền. Hiện nay trên 85% công tác đặt cộc mốc biên giới trên thực địa biên giới đất liền Trung - Việt đã hoàn thành, và trong năm 2008, toàn bộ công tác đặt cột mốc biên giới sẽ hoàn thành.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Thủ tướng hai nước nhất trí đồng ý, hai bên sẽ tiếp tục cố gắng bảo đảm chắc chắn trong năm 2008 sẽ hoàn thành toàn bộ công tác đặt cột mốc biên giới trên đất liền giữa hai nước. Hà Thắng, nghiên cứu viên Viện Quan hệ Quốc tế hiện đại Trung Quốc cho rằng, mặc dù hiện nay còn lại đều là các “khúc xương khó gặm” nhưng chỉ cần hai bên cùng cố gắng , mục tiêu do người lãnh đạo hai nước chế định khẳng định có thể thực hiện.
Theo Hà Thắng, hiện nay hai bên Trung - Việt đã đồng ý tăng cường hợp tác thực chất trong các lĩnh vực như điều tra liên hợp tài nguyên nghề cá trên vịnh Bắc Bộ, tuần tra liên hiệp hải quân và thăm dò vượt biên giới cấu tạo dầu mỏ v.v.. trên vịnh Bắc Bộ; tích cực thăm dò những việc có liên quan đến việc cùng khai thác khu vực biển ngoài cửa khẩu vịnh Bắc Bộ, cùng thúc đẩy công tác địa chấn hải dương liên hiệp tại Biển Đông có liên quan đến Trung Quốc, Việt Nam và Philippin. Hà Thắng tin rằng trong năm 2008, những lĩnh vực trên có khả năng giành được một số tiến triển và đột phá.
Còn về vấn đề tranh chấp tại Biển Đông, Trung Quốc và Việt Nam đã đồng ý tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán hiện có trên vấn đề biển, thông qua đối thoại và hiệp thương xử lý thoả đáng tranh chấp trên biển, duy trì sự ổn định ở Biển Đông và cục diện lớn hai nước. Hà Thắng cho rằng, theo nguyên tắc dễ trước khó sau, “cùng khai thác” là con đường tốt nhất và hiện thực nhất để giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông, nhưng muốn thực hiện mục tiêu “cùng khai thác”còn đòi hỏi thời gian, trước việc này các bên cần có lòng tin, càng cần có sự kiên nhẫn và bền gan.
Đối với rất nhiều người Trung Quốc mà nói, “Đảo Trân Bảo” là lịch sử khó quên, cũng vì vậy, Trung Quốc và Nga lấy đảo Hắc Hạt Tử làm ranh giới đã được nhiều người chú ý. Theo Phùng Ngọc Quân Phó giám đốc Viện Nghiên cứu Nga, Viện Quan hệ quốc tế hiện đại Trung Quốc thì việc hoạch định biên giới Trung - Nga trong năm 2008 sẽ không có quá nhiều biến số.
Phùng Ngọc Quân giới thiệu, căn cứ vào hiệp nghị có liên quan về  biên giới phần phía đông nước Nga, trong năm 2008, công tác xác định biên giới đảo Hắc Hạt Tử sẽ hoàn thành. Trước mắt hai bên các mặt như: đầu tư phát triển kinh tế và phân phối lợi ích kinh tế v.v.. vẫn còn tiếng nói bất đồng. Thế nhưng chỉ cần sự tin tưởng lẫn nhau về quân sự được thiết lập thì giao lưu kinh tế văn hoá tự nhiên sẽ trăng đến rằm thì tròn.


7. Ngoại giao khí hậu: áp lực đối với Trung Quốc lớn bao nhiêu ?

Phan Gia Hoa
Phó Chủ nhiệm Trung Tâm nghiên cứu phát triển và môi trường thành thị,
Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc

Năm 2008, các vấn đề khí hậu, giảm khí thải v.v.. áp lực của xã hội quốc tế đối với Trung Quốc chỉ có gia tăng chứ không giảm bớt.
Trước tiên, theo thống kê của các cơ quan có liên quan của nước ngoài năm 2006, lượng khí thải CO2 (ôxyt Cacbonic) của Trung Quốc đã vượt Mỹ, đứng đầu thế giới. Mặc dù Trung Quốc chưa công nhận thống kê này, nhưng trong năm 2007, rất nhiều mục tiêu tiết kiệm năng lượng, giảm bớt khí thải của Trung Quốc đã được thực hiện, nhưng do sự tăng trưởng tốc độ nhanh của tổng lượng kinh tế, nên sự gia tăng tổng lượng khí thải làm nóng nhà kính vẫn không thể tránh khỏi. Cây to gọi gió, cái cây khí thải làm nóng nhà kính của Trung Quốc vốn đã lớn, hơn nữa lại càng ngày càng lớn, khẳng định là sẽ gọi gió càng ngày càng nhiều, càng ngày càng lớn hơn.
Ngay từ năm 2001, nhiều nước đã phê chuẩn “Nghị định thư Kyoto”, Tổng thống Mỹ Bush đã biểu thị rõ ràng từ chối phê chuẩn nghị định thư này. Sau đó, Mỹ luôn luôn ra sức thúc giục các nước có lượng khí thải lớn, bất kể là các nước phát triển hay là đang phát triển phải tham dự lời hứa giảm lượng khí thải. Năm 2008, nhất định Mỹ sẽ còn làm thêm chuyện về vấn đề này.
Năm 2008, để quán triệt “Bản đồ đường đảo Bali” vừa mới đạt được, những cuộc đàm phán có liên quan đã tăng lên 4 lần. Trong chương trình bàn bạc dường như bất tận đó, nhất định là có một số thuộc phần trách nhiệm của Mỹ, các nước phát triển như Mỹ v.v.. cũng sẽ nhấn mạnh trách nhiệm của các nước đang phát triển như Trung Quốc v.v..Vì vậy, áp lực của xã hội quốc tế đối với Trung Quốc sẽ bền vững mà lặp đi lặp lại. Ngoài việc Hội nghị cấp cao APEC năm 2007 đã coi sự thay đổi khí hậu là  đầu đề bàn bạc chủ yếu; năm 2008, tại hội nghị cấp cao G8+5 họp ở Nhật Bản, trường hợp đa biên của một loạt nước lớn kinh tế như Trung - Âu, Trung - Mỹ, APEC, tính quan trọng của vấn đề khí hậu nhất định sẽ được tiếp tục tăng cường.
Chẳng cần phải nói, Thế vận hội năm 2008, vấn đề môi trường của Trung Quốc sẽ bị phóng đại hơn nữa, “Bản đồ đường đảo Bali” qui định rõ, hành động giảm khí thải của các nước đang phát triển phải “có thể đo được”, “có thể báo cáo được”, “có thể thẩm tra được”, coi đó là một nghĩa vụ, yêu cầu các nước đang phát triển triển khai lượng giảm khí thải nhà kính một cách  chắc chắn cẩn thận. Do vậy, bao gồm cả Trung Quốc, hàng năm đều phải thông báo với  quốc tế số liệu cụ thể về lượng khí thải nhà kính của Trung Quốc, điều này không chỉ là áp lực trọng đại mà quan trọng hơn là những số liệu này phải do cơ quan chính thức có thẩm quyền đưa ra, một số quốc gia có yêu cầu với Trung Quốc hơn nữa hoặc chỉ trích Trung Quốc sẽ “có thêm căn cứ”
Tất nhiên, cơ chế Nghị định thư Kyoto qui định, các nước đang phát triển đều có thể bán chỉ tiêu lượng khí thải nhà kính. Mỗi năm Trung Quốc có thể kiếm được từ hạng mục này 1 tỷ USD, cho dù so với qui mô của thị trường Trung Quốc, đó không phải là một con số to lớn, thế nhưng không thể coi thường tác dụng của điều này đối với việc thúc đẩy tiết kiệm năng lượng, thị trường năng lượng mới ở Trung Quốc .
Trong các mặt như trồng cây gây rừng, tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải, khống chế dân số v.v.. ,có thể nói, Trung Quốc là nước có sức mạnh chính sách lớn nhất, hiệu quả tốt nhất  trên thế giới.

Dương Quốc Anh (Sưu tầm và dịch)
Nguồn: Báo “Nam phương cuối tuần”(từ 14-20/1/2008)
http:// www. usqiaobao.com.  2008-01-17 18:46:34

BÀN VỀ SỨC MẠNH CỦA TRUNG QUỐC


BÀN VỀ SỨC MẠNH CỦA TRUNG QUỐC




Khi nói đến sức mạnh của Trung Quốc người ta thường đề cập tới hai nội dung chủ yếu, sức mạnh cứng (hard power) và sức mạnh mềm (soft power) hay còn gọi là sức mạnh quân sự, tiềm lực kinh tế và sức mạnh vô hình.
Sức mạnh cứng là thứ có thể đo đếm được. Đó chính là sức mạnh quân sự và kinh tế. Kinh nghiệm lịch sử trong hai thế kỷ gần đây của Trung Quốc chỉ ra rằng, nếu thiếu hoặc yếu khả năng quân sự và kinh tế thì vai trò của họ sẽ bị suy giảm và những mục tiêu trong chính sách đối ngoại sẽ không thực hiện được. Người ta còn nhớ sự yếu kém về mảng sức mạnh cứng của người Trung Quốc trong thế kỷ XIX là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thất bại trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương và buộc họ phải nhường một phần lãnh thổ của mình cho các đế quốc phương Tây và thất bại trong cuộc chiến tranh với Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Với những thất bại này, mục tiêu toàn vẹn chủ quyền quốc gia của người Trung Quốc đã không đạt được. Và từ cuối thế kỷ XX cho tới nay, người Trung Quốc đang muốn xác lập lại mục tiêu này. Trong một chừng mực nào đó, họ đã đạt tới; bằng chứng là Hồng Kông đã trở lại với Trung Quốc từ năm 1997.
1. Sức mạnh quân sự
Chúng ta trở lại với sức mạnh cứng của người Trung Quốc. Trước hết là sức mạnh quân sự. Trung Quốc được coi là một trong những cường quốc quân sự chủ yếu của thế giới. Cho dù cho đến nay chưa ai có số liệu chính thức về ngân sách quốc phòng chính thức của nước này từ các nhà hoạch định chính sách quân sự của Trung Quốc. Đây là chỉ số đầu tiên và căn bản nhất cần phải nhận biết khi đề cập tới sức mạnh quân sự của một quốc gia. Theo dự báo của một số nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế Singapo thì ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2004 là 62,5 tỷ đô la và chiếm tới 3,9% GDP. Như vậy, Trung Quốc xếp thứ 3 trên thế giới về ngân sách quốc phòng chỉ sau Hoa Kỳ và Nga, cao hơn cả Pháp, Nhật Bản, Anh và Đức([1]). Thực tế trong nhiều năm qua cho thấy, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đang gia tăng, chẳng hạn năm 2007 chính phủ nước này thông báo sẽ tăng 17,8% ngân sách  quốc phòng([2]); người ta dự tính là ngân sách quốc phòng Trung Quốc đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua.
Theo cách lý giải của người Trung Quốc, ngân sách quốc phòng gia tăng là nhằm hiện đại hóa lại lực lượng quân đội của họ. Như chúng ta biết, học thuyết quân sự của Trung Quốc đã thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau; thời Mao họ nhấn mạnh tới việc áp dụng “chiến tranh nhân dân” trong trường hợp Trung Quốc bị tấn công; còn dưới thời Đặng, học thuyết quân sự được áp dụng là “chiến tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại” điều này cũng có nghĩa là quân giải phóng nhân dân Trung Quốc phải được trang bị các loại vũ khí  hiện đại; còn từ những năm 1990 trở lại đây, học thuyết quân sự của nước này chuyển sang “chiến tranh hạn chế trong điều kiện công nghệ cao”([3]). Người ta nói, dường như Trung Quốc đang cố gắng học bài học kinh nghiệm của người Mỹ từ cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, ở đó cuộc chiến tranh diễn ra trong một thời gian ngắn và các loại vũ khí hiện đại được người Mỹ sử dụng khá phổ biến. Điều này có nghĩa là người Trung Quốc muốn trang bị cho quân đội của mình các loại vũ khí hiện đại.
Sự chuyển đổi này trong học thuyết quân sự của Trung Quốc được phản ánh trong những thay đổi về cơ cấu lực lượng quân sự. Thống kê quân sự của nước này cho thấy, về phương diện truyền thống họ coi trọng bộ binh. Cho đến nay, bộ binh vẫn là lực lượng chủ yếu của quân đội nhưng đã giảm quy mô. Từ 1985 đến 2005 số lượng binh sỹ đã giảm từ 3,9 triệu xuống còn 2,3 triệu. Và gần đây người ta nói, lục quân chỉ còn 1,6 triệu và 250.000 hải quân, 400.000 lính không quân. Quân đội Trung Quốc có 8.580 xe tăng và 4.500 các loại phương tiện chiến đấu khác.
Hiện đại hóa không chỉ là cung cấp các phương tiện kỹ thuật và vũ khí tối tân cho lục quân mà còn là tìm cách cải thiện khả năng chiến đấu của hải quân và không quân. Trung Quốc không có hải quân phản ứng nhanh (lính thủy đánh bộ hoạt động ở vùng biển xa, gọi là blue water navy). Họ chỉ có lực lượng hải quân thông thường (green water navy), khả năng chiến đấu hạn chế. Trung Quốc cũng đang tìm cách cải thiện khả năng phản ứng nhanh của lực lượng này bằng cách tăng cường mua sắm các loại phương tiện hiện đại, đặc biệt là các loại máy bay chiến đấu và các tàu khu trục của Nga. Việc hiện đại hóa hải quân và không quân của Trung Quốc, theo họ nói là nhằm nâng cao khả năng phòng thủ chứ không nhằm đe doạ ai, bởi họ theo đuổi “con đường phát triển trong hòa bình”. Tuy nhiên, những động thái của Trung Quốc nhằm hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là nâng cao khả năng chiến đấu cho lực lượng hải quân đã làm cho không ít các quốc gia láng giềng lo ngại, nhất là những nước có tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc.
Một yếu tố nữa nói lên sức mạnh quân sự của Trung Quốc đó là việc nước này sở hữu vũ khí hạt nhân. Trung Quốc tuyên bố có vũ khí hạt nhân từ năm 1964. Theo số liệu người ta công bố năm 2005, Trung Quốc có 46 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, 35 tên lửa đạn đạo tầm trung và 725 tên lửa đạn đạo tầm ngắn([4]). Trung Quốc tuyên bố rằng họ chỉ sử dụng vũ khí hạt nhân để phòng vệ và không phải là người sử dụng đầu tiên. Tuy nhiên, việc nước này có vũ khí hạt nhân cộng với tình hình phức tạp trên Bán đảo Triều Tiên làm cho nhiều quốc gia lo ngại về nguy cơ của những cuộc chạy đua hạt nhân mới ở khu vực Đông Bắc Á. Người ta đặt câu hỏi rằng, nếu vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên không được giải quyết, Nhật Bản cũng phát triển vũ khí hạt nhân để tự vệ thì điều gì sẽ xảy ra đối với an ninh của Đông Bắc Á nói riêng và của cả Đông Á nói chung?
Như vậy có thể nói rằng Trung Quốc là một cường quốc quân sự và điều này tạo cơ sở cho Trung Quốc thực hiện các mục tiêu chiến lược như đã nói ở trên.
2. Tiềm lực kinh tế
Sau đây chúng ta đề cập tới một khía cạnh nữa của “sức mạnh cứng” Trung Quốc. Đó là tiềm lực kinh tế của nước này. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tiềm lực kinh tế của một quốc gia được phản ánh chủ yếu thông qua chỉ số GDP. Theo thống kê chính thức, năm 2004 GDP của Trung Quốc đạt 1,68 nghìn tỷ đô la. Cũng chỉ số này của Mỹ là 11,7; của Nhật là 4,66; của Cộng hòa Liên bang Đức là 2,16; của Anh là 2,13; Pháp 2,0 và Nga 1,4 (đơn vị nghìn tỷ đô la)([5]). Tuy nhiên, Trung Quốc là một nước đông dân số nên GDP/người đạt 1293 US$, đây là mức thấp nhất so với các cường quốc kể trên.
Xét ở phương diện cơ cấu kinh tế, đây là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ cấu này tạo cho Trung Quốc nhiều lợi thế như các  cường quốc khác. Đương nhiên nước này còn có một lợi thế khác đó là lao động rẻ và đến lượt nó Trung Quốc trở thành nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới, nhất là về các loại hàng dệt may, đồ chơi, hàng điện máy và các loại hàng hóa thông dụng khác. Trong gần hai thập niên qua sự phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu ở Trung Quốc tập trung ở khu vực tư nhân và các tỉnh duyên hải bởi vậy tình hình phát triển ở khu vực này khả quan hơn. Năng suất lao động cao hơn, nhiều việc làm mới được tạo ra và thu nhập của người lao động cũng gia tăng đáng kể. Trong khi đó các tỉnh miền tây và các vùng nông thôn gặp nhiều khó khăn, khoảng cách giàu nghèo tiếp tục gia tăng và khu vực kinh tế nhà nước cũng đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Cho dù khu vực này đã bị thu hẹp phần nào do tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp, nhà nước dành một số ưu đãi song trang thiết bị vẫn chưa được hiện đại hóa cho nên năng suất lao động vẫn không được cải thiện bao nhiêu, thậm chí một số doanh nghiệp vẫn bị thua lỗ trong kinh doanh.
Nhìn chung, Trung Quốc vẫn chưa có một nền kinh tế được trang bị các công nghệ cao hay như người ta nói chưa có một nền kinh tế tri thức. Đây cũng là một bất lợi của Trung Quốc trong tương quan so sánh với các cường quốc kể trên, cho dù nước này đã thu hút được một lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài khá lớn trong hơn hai thập niên vừa qua.
Thực tế cho thấy, FDI tại Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng tương đối cao; luồng đầu tư đến từ Hồng Kông, Đài Loan, Mỹ và Nhật Bản được coi là quan trọng nhất. Như chúng ta biết, sự dính líu của Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới đã diễn ra cách đây nhiều thập kỷ, đặc biệt là khi nước này trở thành thành viên của IMF, WB (năm 1980) và WTO (2001).

Bảng: Các chỉ số kinh tế chủ yếu của Trung Quốc 2002-06
Đơn vị tính: Tỉ đô la Mỹ và %
Chỉ số chủ yếu
2002
2003
2004
2005
2006
GDP
12033,3
13582,3
15987,8
18308,5
20940,7
Tăng trưởng thực tế
9,1
10,0
10,1
10,2
10,7
Chỉ số giá tiêu dùng
-0,8
1,2
3,9
1,8
1,5
Thương mại quốc tế
620,8
851,0
1154,6
1421,9
1760,7
(%)
21,8
37,1
35,7
23,2
23,8
Xuất khẩu
325,6
438,2
593,3
762,0
969,1
(%)
22,4
34,6
35,4
28,4
27,2
Nhập khẩu
295,2
412,8
561,2
660,0
791,6
(%)
21,2
39,8
36,0
17,6
20,0
Giá trị sản lượng công nghiệp
3299,5
4199,0
5,480.5
7218,7
NA
(%)
16,5
27,3
30,5
31,7
16,6
Đầu tư tài sản cố định
4350,0
5556,7
7047,7
8877,4
10987,0
(%)
16,9
27,7
26,8
26,0
23,8
Bán lẻ
4813,6
5251.6
5950,1
6717.7
7641,0
(%)
11,8
9,1
13,3
12,9
13,7
Thu nhập/người của cư dân đô thị
7702,8
8472.2
9421,6
10493.0
11759,0
(%)
12,3
10,0
11,2
11,4
12,1
Thu nhập/người của cư dân nông thôn
2475,6
2622.2
2936,4
3254,9
3587,0
(%)
4,6
5,9
12,0
10,8
10,2
Tỉ lệ thất nghiệp
4
4,3
4,2
4,2
4,1
Nguồn: PRC National Bureau of Statistics (NBS), China Statistical Yearbook 2006; NBS website; USCBC

Các đối tác mậu dịch chính của Trung Quốc bao gồm Mỹ (21,1%), Hồng Kông (17,0%), Nhật Bản (12,4%), Hàn Quốc (4,7%). Đó là về xuất khẩu; còn nhập khẩu các đối tác chính là Nhật Bản (16,8%), Đài Loan (11,5%), Hàn Quốc (11,1%), Mỹ (8,0%)([6]).
Khi đánh giá về tiềm lực kinh tế của Trung Quốc, nhiều chuyên gia cho rằng, Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế thực sự, trở thành đối thủ cạnh tranh với các
thế lực chính của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chỉ  trong vòng một, hai thập niên tới. Cơ sở của nhận định này chính là việc xem xét tương quan so sánh tiềm lực kinh tế cũng như cơ chế kinh tế, những lợi thế kinh tế của Trung Quốc với các cường quốc đã nói ở trên.
3. Sức mạnh vô hình
“Sức mạnh mềm” hay người ta còn gọi đó là sức mạnh vô hình của người Trung Quốc. Sức mạnh vô hình của nước này thể hiện trên các khía cạnh sau đây,
Thứ nhất là sự ổn định chính trị, xã hội. Người Trung Quốc tự hào rằng cơ chế chính trị đổi mới của họ tạo cho đất nước rộng lớn này phát triển ổn định. Đây là điều khó giải thích đối với nhiều học giả nước ngoài, bởi nước này thực thi hệ thống chính trị nhất nguyên, quản lý Hồng Kông theo cơ chế “một đất nước hai chế độ”, thế nhưng tình hình vẫn ổn định và đất nước này tiếp tục phát triển. Cũng có người dự báo, với cơ chế “một nước hai chế độ” và với một quy mô rộng lớn như vậy thì nguy cơ của bất ổn định sẽ là điều khó tránh khỏi đối với nước này trong một, hai thập kỷ tới. Đây cũng là điều rất đặc biệt diễn ra trong thời đại ngày nay bởi ở Trung Quốc, tình hình chính trị, xã hội vận động theo xu hướng hướng tâm, trong khi đó ở Nga và nhiều nước khác tình hình lại vận động theo xu hướng ly tâm. Dẫu sao thì cho đến thời điểm này những lợi thế về ổn định chính trị xã hội vẫn là một thực tế của Trung Quốc.
Thứ hai, những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cũng được coi là một lợi thế tạo nên sức mạnh vô hình của người Trung Quốc trong suốt mấy thế kỷ qua. Lịch sử cho thấy, văn hóa Trung Quốc hay còn gọi là văn minh Trung Hoa đã có ảnh hưởng sâu rộng tới một số nước ở khu vực Đông Á, nhất là ở Việt Nam, Bán đảo Triều Tiên và cả Nhật Bản. Và ngày nay với hơn 30 triệu người Hoa sống rải rác khắp mọi nơi trên thế giới, văn hóa Trung Hoa được những người này tiếp sức cộng với những ảnh hưởng hữu hình của hàng hóa “made in China” được bán rộng rãi ở nhiều quốc gia, tiếp tục gia tăng ảnh hưởng. Rõ ràng văn hóa Trung Hoa có tầm ảnh hưởng không chỉ ở khu vực Đông Á mà còn cả trên phạm vi thế giới.
Như vậy có thể nói, Trung Quốc là một thế lực đang nổi lên mà cơ sở của nó chính là sự liên kết giữa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm, hay nói chính xác hơn, đó là sự kết gắn giữa sức mạnh hữu hình và sức mạnh vô hình. Ở đây sức mạnh hữu hình giữ vai trò chi phối và điều này tạo cơ sở thực tiễn cho Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Sức mạnh vô hình của Trung Quốc chỉ giữ vai trò hỗ trợ. Tuy nhiên đây cũng là một thế mạnh riêng của người Trung Quốc.

NGÔ XUÂN BÌNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Zhang Yunling, Emerrging New East Asian Relationlism.
2. Melissa G. Curley and Nicholas Thomas (eds.), (2007). Advancing East Asian Regionalism. London, New York, Rouled
3. Oded Shenka, (2006), The Chinese Centery: The Rising Chinese Economy and Its Impart on the Global Economy, the Balance of Power and Your Job, Upper Saddle River, N.J.: Wharton School Pub.,.
4. Nicholas Tarling, (2006), Regionalism in Southeast Asia: to Forter the Political Will, New York Routlege.
5. Suisheng Zhao, (ed.,), (2004), Chinese Foreign Policy: Pragmatism and Strategic Behavior, Armonk, N.Y.: M.E. Sharpe.
6. Kokubun Ryosei and Wang Jisi, (eds.,), (2004), The Rise of China and a Changing East Asia Order, Tokyo: Japan Center for International Exchange.
7. Maharajakrishna Rasgotra, (ed.,), (2007), The New Asian Power Dynamic, New Delhi: Oberver Research Foudation.
8. Frances McCall Rosenbluth, (ed.,), (2007), The Political Economy of Japan’s Low Fertility, Stanford, Calif.: Stanford University Press.
9. Edward Friedman and Sung Chull Kim, (eds.,), (2006), Regional Cooperation and Its Enemies in Northeast Asia: the Impact of Domestic Forces, New York: Routledge.
10. Shale Horowitz, Uk Heo, Alexader C. Tan, (eds.,), (2007), Identity and Change in East Asian Conflicts: the Cases of China, Taiwan, and the Koreas, New York; Palgrave Macmillan.


([1]) The Military Balance 2005-2006, p270
([2]) Theo BBC ngày 7/3/2007.
([3]) Shambaugh, Moderlazing China’s Military, p.222.
([4]) The Military Balance 2005-2006, p.270.
([5]) Derek McDougall, (2007), Asia Pacific in World Politi, Lynn Rienner Publishers, Inc, p.62
([6]) Derek McDougall, (2007). Asia Pacific in World Politics. Lynn Rienner Publishers, Inc, p.63

QUAN HỆ CHÍNH TRỊ GIỮA VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TỪ SAU BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ ĐẾN NAY


QUAN HỆ CHÍNH TRỊ GIỮA VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TỪ SAU BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ ĐẾN NAY

Có thể thấy, kể từ khi bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1991 đến nay, tuy chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi trong quan hệ hàng nghìn năm giữa hai nước, nhưng cũng đủ  để chứng kiến những thay đổi thật lớn lao. Từ chỗ chỉ là sự bắt đầu lại các mối quan hệ, thăm dò sau một thời gian căng thẳng, hai nước đã nhanh chóng tiến tới quá trình tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, hiểu biết nhau hơn và đã đạt được những thay đổi rõ ràng trong những năm đầu thế kỷ 21 nhằm tiến tới góp phần duy trì ổn định lâu dài giữa hai nước trong tương lai. Dựa trên những nhân tố thay đổi, tác động của quốc tế và tình hình hai nước, chúng tôi phân tích mối quan hệ chính trị này qua 3 giai đoạn.
1. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995
Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động. Chiến tranh Lạnh kết thúc, hai lực lượng mà quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc chịu ảnh hưởng là Mỹ và Liên Xô đã dần rút và giảm sự hiện diện của mình tại khu vực. Quan điểm của Trung Quốc trong tình hình quốc tế mới này là chuyển hướng sang tích cực phát triển quan hệ ngoại giao hữu nghị với những nước láng giềng trong đó có Việt Nam để tranh thủ được sự ủng hộ của những nước này. Năm 1991, Trung Quốc đã tham gia vào Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, sau đó Trung Quốc cũng được mời tham gia Diễn đàn khu vực Đông Nam Á (ARF)([1]). Năm 1992, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham tại Manlila đã bày tỏ mong muốn thúc đẩy đối thoại nhiều cấp về an ninh của các nước ASEAN. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn này dần dần có những thay đổi, muốn mở rộng, tăng cường quan hệ với các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh như vậy, hai nước đã dần tiến tới bình thường hoá bằng chuyến thăm chính thức của các nhà lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc tháng 11 năm 1991. Chuyến thăm với sự tham gia của Tổng bí thư và Thủ tướng Việt Nam đại diện cho Đảng và Chính phủ Việt Nam. Đây là một sự kiện hiếm có trong quan hệ ngoại giao, chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam rất coi trọng và mong muốn tích cực giải quyết vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc. Trong chuyến thăm này, hai nước đã đạt được bước tiến quan trọng, cùng nhau ra bản Thông cáo chung, các nhà lãnh đạo hai nước cũng đã xác định 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ Nhà nước, quan hệ giữa hai Đảng dựa trên nguyên tắc độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau([2]). Hai bên đồng ý kết thúc mối quan hệ căng thẳng trong quá khứ, thực hiện bình thường hoá quan hệ hai đảng, hai nhà nước. Qua chuyến thăm Trung Quốc và việc ra thông cáo chung cho thấy, quan điểm của hai bên đối với tình hình thế giới có những thay đổi. Có thể thấy rằng hai bên đã nhận thức được, sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, việc bình thường hoá quan hệ hai bên là phù hợp với lợi ích lâu dài và căn bản của hai nước, nó cũng đánh dấu một sự thay đổi to lớn không chỉ đối với quan hệ hai nước, mà cả khu vực. Kể từ đó trở đi, các nhà lãnh đạo hai nước duy trì các cuộc thăm viếng và tiếp xúc lẫn nhau, không ngừng hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thời kỳ đầu sau khi bình thường hoá, tuy có nhiều vấn đề tồn tại, như tranh chấp lãnh thổ, các quần đảo trên biển, phân chia đường ranh giới trên biển và đánh bắt cá, nhưng qua nhiều cuộc gặp các cấp, tăng cường đối thoại, đàm phán hai bên đã đạt được những bước tiến về vấn đề biên giới lãnh thổ([3]). Ngày 19-10-1993, đại diện Chính phủ hai nước đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ([4]), mở đường cho việc tiến tới ký kết các hiệp định biên giới, lãnh thổ trong các giai đoạn sau này. Việc ký kết những hiệp định thông qua đàm phán là bước tiến trong việc tăng cường tin tưởng lẫn nhau giữa hai nước, bảo đảm cho quan hệ hai nước đi vào quỹ đạo hợp tác. Thời kỳ này, quan hệ chính trị hai nước có mấy điểm đáng chú ý: trong quan hệ giữa hai nước đều nhắc đến đối thoại, đàm phán, hợp tác tăng cường gặp gỡ, trao đổi lẫn nhau giữa các cấp, các ngành để giải quyết các tranh chấp về biên giới và chủ quyền trên biển, đồng thời cũng coi trọng phát triển quan hệ kinh tế, thương mại. Các chuyến thăm liên tiếp của các nhà lãnh đạo mang ý nghĩa chính trị. Điểm lại một số chuyến thăm mang ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng nhiều tới quan hệ hai nước ngoài chuyến thăm Trung Quốc của các nhà lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm 1991 ra, vào tháng 12 năm 1992, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng có chuyến thăm chính thức hữu nghị Việt Nam. Đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của nhà lãnh đạo Trung Quốc kể từ khi bình thường hoá giữa hai nước và cũng là chuyến thăm sau 21 năm một Thủ tướng Trung Quốc sang thăm Việt Nam([5]). Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, Thủ tướng Lý Bằng đã hội đàm với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Hai bên cho rằng củng cố hơn nữa mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước phù hợp với lợi ích cơ bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực([6]). Sau cuộc gặp trên, hai bên đã có bước tiến đẩy nhanh công việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, thành lập những nhóm công tác cấp chuyên viên để tổ chức các cuộc đàm phán song phương về biên giới lãnh thổ.
Một mốc quan trọng khác trong quan hệ chính trị hai nước là chuyến thăm của Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã thăm chính thức Việt Nam từ ngày 19 đến 22-11-1994. Chuyến thăm lần này của Chủ tịch Giang Trạch Dân là chuyến thăm đầu tiên của nhà lãnh đạo cao nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ sau chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang thăm Việt Nam vào năm 1963. Trong chuyến thăm này, các nhà lãnh đạo của Việt Nam như Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch nước Lê Đức Anh hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân, hai bên đều cho rằng nên thúc đẩy quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác, đặc biệt là hợp tác kinh tế thương mại. Hai bên cũng cho rằng đối với những vấn đề tồn tại giữa hai bên nên thông qua đàm phán để giải quyết([7]). Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đề ra 16 chữ trong giải quyết quan hệ hai nước “Phương hướng rõ ràng, từng bước tiến lên, đại cục làm trọng, hữu hảo hiệp thương”. Hai bên đã ký kết các hiệp định, thành lập Uỷ ban Hợp tác thương mại Việt Nam-Trung Quốc; về vận tải ô tô; bảo đảm hàng hoá xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau. Hai nước đã ra Thông cáo chung Việt Nam-Trung Quốc, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc gia tăng sự hợp tác về kinh tế thương mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Trong quan hệ chính trị hai nước giai đoạn này không thể không kể đến quan hệ giữa quốc hội hai nước được thúc đẩy sau chuyến đi thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc lần đầu tiên từ sau khi bình thường hoá quan hệ hai nước của Chủ tịch quốc hội Nông Đức Mạnh từ ngày 21-2 đến ngày 1-3-1994. Mục đích của cuộc đi thăm là nhằm củng cố và tăng cường hơn nữa sự tin cậy lẫn nhau, tạo quan hệ hữu nghị láng giềng thân tình, thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật…. đồng thời đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp hai nước([8]). Trong chuyến thăm, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh cũng bày tỏ không những có thể tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt-Trung, mở ra giai đoạn hợp tác hữu nghị mới giữa Quốc hội Việt Nam và Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, mà còn có thể tìm hiểu thêm kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc, và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa hai nước([9]).
Nhìn chung, giai đoạn này quan hệ chính trị hai nước được khôi phục sau một thời gian căng thẳng. Do vậy, thông qua các cuộc viếng thăm cấp cao, các cuộc gặp gỡ, đàm phán hai nước để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Đánh giá mối quan hệ hai nước giai đoạn này có thể thấy rằng, một mặt nó phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, khu vực, mặt khác, nó cũng phù hợp với nhu cầu của hai nước. Các cuộc viếng thăm cấp cao mang ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng mạnh tới sự hợp tác, phát triển của hai bên. Nó giống như một thông điệp gửi tới các bên rằng mối quan hệ hai nước giai đoạn này đã bắt đầu được hàn gắn sau một quá trình căng thẳng([10]). Vì vậy mà giai đoạn này là giai đoạn khởi động của các cuộc gặp cấp cao và các thông cáo chung để hai bên tăng cường hiểu biết nhau hơn. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam như Tổng bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội đều đã có các chuyến thăm chính thức sang Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc giai đoạn này sang thăm Việt Nam gồm có Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Trong các cuộc gặp gỡ, hai bên đều đã đạt được những bước tiến quan trọng về hợp tác kinh tế, tăng cường giao lưu quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và ký kết hiệp định liên quan đến giải quyết biên giới lãnh thổ. Ngay sau khi bình thường hoá quan hệ, những cuộc gặp cấp cao này cho thấy hai nước đã rất coi trọng hợp tác chính trị song phương.
2. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 1999
Theo những đánh giá của chúng tôi, giai đoạn thứ hai bắt đầu từ giữa năm 1995 đến đầu năm 1999. Giai đoạn này có hai sự kiện quan trọng đối với Việt Nam, cho thấy vai trò và vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế đã có thay đổi so với trước. Và mối quan hệ giữa hai nước Việt-Trung cũng chịu ảnh hưởng nhất định bởi những thay đổi này. Thứ nhất là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), dần xoá bỏ ngăn cách giữa Việt Nam với các nước trong khối, nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.Thứ hai là Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Đây là những nhân tố quan trọng, bởi sau khi thực hiện đổi mới, chính sách ngoại giao của Việt Nam đã có những bước tiến hoà nhập vào thế giới mạnh mẽ hơn. Việt Nam chủ động tham gia, đóng góp tích cực vào sự phát triển, hoà bình của nhiều tổ chức khu vực và thế giới. Quan hệ song phương với các nước cũng được thúc đẩy, đặc biệt là với các nước lớn trên cơ sở cân bằng mối quan hệ giữa các nước lớn, tránh việc quá nghiêng về một bên sẽ làm cho Việt Nam phải đối mặt với những thách thức về an ninh, chính trị hoặc kinh tế. Vì vậy, chính sách của Việt Nam muốn thiết lập quan hệ tốt đẹp với tất cả các nước trên thế giới, trong đó với các nước lớn là một sự lựa chọn hợp lý, phù hợp với xu thế chung trong giai đoạn hiện nay, để bảo đảm một môi trường an ninh cho sự phát triển của Việt Nam, hạn chế bị lôi kéo vào vòng xoáy tranh chấp quốc tế, phụ thuộc an ninh, kinh tế, chính trị giữa các nước lớn. Chính sách cân bằng quyền lực giữa các bên có thể đôi lúc khó thực hiện được do bị ảnh hưởng của bên này mạnh hơn bên kia, nhưng nhìn tổng thể việc duy trì sự cân bằng này là cần thiết trong giai đoạn trên, giúp Việt Nam đã chấm dứt cô lập về mặt ngoại giao năm 1995, sau khi tham gia vào tổ chức ASEAN và bình thường hoá quan hệ với Mỹ([11]).
* Trong việc tham gia vào khối ASEAN: Việt Nam tham gia tổ chức khu vực ASEAN đã góp phần làm cho bầu không khí khu vực trở lên hoà bình, ổn định, không chỉ nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà bản thân tổ chức ASEAN cũng được quốc tế đánh giá cao hơn. Tháng 7 - 1995 với việc trở thành thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN, vai trò thương lượng của Việt Nam đã được tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, có được những ưu thế trong tiến trình hợp tác, tham gia vào các tổ chức liên khu vực và quốc tế như Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), ASEM([12]), tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng và phát triển kinh tế trong nước. Ngoài ra, tham gia vào ASEAN cũng làm cho nền kinh tế của Việt Nam thu được nhiều lợi ích hơn thông qua tham gia vào AFTA của khu vực, hoặc gần đây là ACFTA làm tăng cường cơ hội đầu tư và trao đổi thương mại giữa Việt Nam với của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
* Đối với vấn đề bình thường hoá quan hệ với Mỹ: Vào ngày 11 tháng 7 năm 1995, Việt Nam và Mỹ đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và nhanh chóng trao đổi đại sứ([13]). Sau đó, ngày 5 đến 7 tháng 8 năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ đến thăm Việt Nam, hai cơ quan đại diện tại hai thủ đô Hà Nội và Oasinhtơn đã được nâng cấp thành đại sứ quán, đồng thời hai bên cử đại biện lâm thời đại diện cho hai nước. Ngày 5 - 9 - 1997, hai nước trao đổi đại sứ([14]). Thông qua cải thiện quan hệ song phương, Việt Nam đã có điều kiện tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp Mỹ, thuận lợi cho việc tham gia các tổ chức quốc tế như APEC, WTO cũng như nhận được những khoản vay từ những hệ thống tài chính thế giới như IMF, WB, ADB để có thể phát triển đất nước nhanh hơn([15]). Ngoài ra các nhà đầu tư của Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á có cơ sở để đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào Việt Nam. Điều này có những tác động tới chính sách cải cách kinh tế và mở cửa của Việt Nam. Trên thực tế, bình thường hoá về quan hệ với Mỹ sẽ là một trong những nhân tố để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và địa vị của Việt Nam tại khu vực.
Trong quan hệ chính trị giai đoạn này có một số điểm. Thứ nhất, có thể thấy rằng trong giai đoạn này các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước vẫn có các cuộc gặp gỡ, thăm viếng nhau, nhưng không ra tuyên bố chung, thông cáo chung([16]) mà chỉ là những hiệp định kinh tế, thương mại. Thứ hai, những tranh chấp giữa hai bên về lãnh thổ dần dần giảm đi. Giai đoạn này thực chất là khôi phục lại lòng tin lẫn nhau, trên cơ sở và hình thức mới xây dựng lại mối quan hệ hữu hảo láng giềng([17]). Một số chuyến thăm đáng chú ý trong giai đoạn này là chuyến thăm của Tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm Trung Quốc năm 1995. Trong giai đoạn này, Tổng bí thư Đỗ Mười đã hai lần sang thăm Trung Quốc. Trong chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai từ ngày 14 đến 18 – 7 – 1997 của Tổng bí thư Đỗ Mười, hai bên đã đạt được một thoả thuận giải quyết vấn đề biên giới trên bộ trước năm 2000 và giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ chậm nhất vào năm 2000([18]). Những nhận thức chung của các nhà lãnh đạo cấp cao về việc tiến tới giải quyết vấn đề tồn tại đã tạo ra những nỗ lực để các bộ ngành hai bên tiến tới đạt được những thoả thuận quan trọng liên quan đến vấn đề biên giới lãnh thổ vào năm 1999 và 2000.
Một sự kiện khác cũng cần được nhắc đến trong mối quan hệ chính trị hai nước là ngày 28-6-1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc tại Hà Nội, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, Lý Bằng đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc sang dự và đọc lời chúc mừng Đại hội. Đây là chuyến tham dự lần đầu tiên của đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc tại một đại hội Đảng của Việt Nam từ sau bình thường hoá quan hệ, và cũng là chuyến tham dự sau 35 năm kể từ khi Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Phú Xuân dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng sang dự đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam năm 1961. Điều này cho thấy sự quan tâm của Trung Quốc đến tình hình Việt Nam, và quan hệ giữa hai Đảng đã trở nên gần gũi nhau hơn.
Thời kỳ này, nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hai lần sang thăm chính thức Trung Quốc. Ngoài ra, trong chuyến thăm Trung Quốc tháng 10-1998 của Thủ tướng Việt Nam, Phan Văn Khải, hai bên đã ký kết hiệp định mậu dịch biên giới giữa hai bên, đưa thương mại song phương vào quy củ. Trong thời kỳ này, phía Trung Quốc cũng có đầy đủ các nhà lãnh đạo cấp cao sang thăm Việt Nam như Thủ tướng Quốc vụ viện, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Chính hiệp (Mặt trận tổ quốc), Phó Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào v.v…
3. Giai đoạn từ năm 1999 đến nay
Bắt đầu từ ngày 25-2 đến 2-3-1999, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã có chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Đây là chuyến thăm Trung Quốc lần đầu tiên kể từ khi ông nhậm chức vào tháng 12 năm 1997. Trong buổi hội đàm với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, hai bên đã xác định khung và khuôn khổ mối quan hệ giữa hai nước hướng tới thế kỷ XXI, nhất trí cùng nhau cố gắng xây dựng và phát triển quan hệ Việt-Trung. Ngày 27-2-1999, hai bên đã ra bản Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc. Tuyên bố với phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, thúc đẩy quan hệ của hai nước Trung-Việt bước vào một giai đoạn phát triển mới([19]). Trong chuyến thăm này, hai bên cùng bày tỏ đàm phán giải quyết thật sớm vấn đề lãnh thổ biên giới hai nước, cùng nhất trí ký kết Hiệp ước về biên giới trên bộ hai nước trong năm 1999 và giải quyết xong vấn đề phân định Vịnh Bắc bộ trong năm 2000([20]). Sự nỗ lực này đã cho thấy hiệu quả, sau đó vào cuối năm 1999([21]) và 2000, Chính phủ hai nước lần lượt ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ, Hiệp định hợp tác nghề cá([22]) và Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới. Chuyến thăm của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã mở ra một trang mới trong hợp tác hai nước, mang đến nhiều cơ hội hợp tác hơn cho cả hai phía. Chúng tôi cho rằng, giai đoạn này có một số điểm đáng chú ý.
Thứ nhất là hợp tác giữa hai bên trong thời kỳ này đã được nâng lên một tầm cao mới, quan hệ giữa hai nước đã trở nên phát triển nhất trong cả quá trình từ sau bình thường hoá quan hệ([23]). Những cuộc thăm viếng, gặp gỡ cấp cao hàng năm([24]) tuy là một quy định bất thành văn, nhưng nó là cơ sở quan trọng để hai nước, hai Đảng tìm hiểu, thúc đẩy những hiểu biết lẫn nhau, từ đó xoá dần những khoảng cách trong quan hệ hai nước([25]). Trong những cuộc tiếp xúc, hai bên đã thống nhất phương thức hợp tác nguyên tắc chung trong quan hệ giữa hai nước là hữu nghị và láng giềng thân thiện dựa trên năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua thương lượng và bằng biện pháp hoà bình, quan hệ giữa hai nước không nhằm vào nước thứ ba và cũng không làm ảnh hưởng đến quan hệ của mỗi nước với các nước khác. Những điều này đã cho thấy rằng, quan hệ hai nước khôi phục và phát triển trên nhu cầu và lợi ích của từng nước, phù hợp với những chính sách, đường lối ngoại giao của từng nước, đó là phát triển quan hệ chính trị chủ yếu là giữa các cấp bộ ngành, các địa phương của hai Đảng, hai nước với nhau. Quan hệ song phương được tăng cường trên tất cả các mặt.
Thứ hai, những vấn đề nổi cộm trong quan hệ giữa hai nước về cơ bản đã có tiến triển bằng những hiệp định ký kết giữa hai nước. Hai bên cũng đã giải quyết những vấn đề trên qua các cuộc thương lượng, đàm phán, tiến tới ký kết được những hiệp định, giải quyết 2 trên 3 vấn đề tồn tại liên quan đến biên giới lãnh thổ, đạt được tiến triển rõ rệt về công tác cắm mốc trên đất liền([26]), đồng thời nhất trí đẩy nhanh hơn nữa tiến trình này để chậm nhất vào năm 2008 hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền và ký văn kiện mới về quy chế quản lý biên giới([27]), đặt cơ sở cho ổn định an ninh khu vực và giữa hai nước. Đây là sự nỗ lực chung của hai phía trong việc giải quyết vấn đề còn vướng mắc bằng phương thức hoà bình, đàm phán. Nó cũng có thể sẽ là tiền lệ để hai bên tiến hành giải quyết các vấn đề khác phức tạp trong tương lai. Ngoài ra trong hợp tác chung tại Vịnh Bắc bộ, hải quân hai nước đã tiến hành các chuyến tuần tra chung trên biển. Hai bên cũng đang tiến hành đàm phán về phân định cửa Vịnh Bắc bộ v.v...
Thứ ba, các nhà lãnh đạo hai nước có nhiều nhận thức chung trong nhiều vấn đề song phương và quốc tế. Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2001, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Trung Quốc, hai bên ra Tuyên bố chung nhắc lại phương châm 16 chữ, quán triệt mục tiêu và nhiệm vụ mà Tuyên bố chung Trung-Việt tháng 12 năm 2000 đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục duy trì gặp gỡ cấp cao thường xuyên, tạo thêm động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển; tăng cường hơn nữa tiếp xúc hữu nghị và giao lưu hợp tác dưới nhiều hình thức giữa các ban ngành, các tổ chức quần chúng và các địa phương hai nước([28]). Trong chuyến thăm của Tổng bí thư Giang Trạch Dân năm 2002, các nhà lãnh đạo của hai bên đã đạt được nhận thức chung trong trao đổi các vấn đề liên quan, tức là duy trì trao đổi các cuộc gặp cấp cao, mở rộng và đi sâu vào hợp tác kinh tế, lấy tinh thần hợp tác lâu dài giữa hai nước để giáo dục nhân dân hai bên, tiếp tục đàm phán đẩy nhanh công tác phân chia, cắm mốc đường biên giới trên bộ và hiệp định nghề cá, trao đổi những kinh nghiệm lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội và trị đảng trị nước; tăng cường hợp tác, giao lưu trên các mặt ngoại giao, quốc phòng, an ninh và công an v.v... Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đã phát biểu rằng “Điều đặc biệt quan trọng là, hai bên nhất định phải tăng cường tin cậy lẫn nhau. Đó chính là cơ sở phát triển ổn định lâu dài của quan hệ hai Đảng, hai nước”([29]). Đồng thời đưa ra năm kiến nghị liên quan đến hợp tác hai bên: Một là, cần tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp qua lại thăm viếng lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước; Hai là, cần không ngừng mở rộng và đi sâu hơn nữa hợp tác kinh tế-thương mại; Ba là, cần lấy tinh thần hữu nghị lâu dài để giáo dục nhân dân hai nước, đặc biệt là thanh thiếu niên; Bốn là, cần tăng cường hợp tác giữa hai nước trên vấn đề biên giới, đẩy nhanh tiến trình công tác tiếp theo về biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc bộ; Năm là, cần tăng cường giao lưu kinh nghiệm về xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước giữa hai Đảng, hai nước, tăng cường sự bàn bạc, hợp tác và phối hợp về các vấn đề quốc tế giữa hai nước, để tạo thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển của mỗi nước”([30]).
Thứ tư là bổ sung thêm khung hợp tác trong quan hệ hai nước bằng 4 tốt trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân nhấn mạnh đến mối quan hệ về láng giềng, bạn bè, đồng chí: láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ nhau, thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, cùng nhau phát triển([31]).
Thứ năm là bài phát biểu trước Quốc hội Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 31 tháng 10 đến 2 tháng 11 năm 2005 trong thời điểm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Trung Quốc. Đây cũng là lần đầu tiên Tổng bí thư, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam với tư cách là Tổng bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa. Và điều hiếm có là một vị nguyên thủ quốc gia một nước khác phát biểu trước quốc hội Việt Nam. Ngoài ra, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc. Điều này cho thấy hợp tác chặt chẽ giữa hai Đảng, hai nước.
Thứ sáu, hợp tác an ninh khu vực cũng đã có những thay đổi. Tháng 7-2001, Diễn đàn an ninh khu vực của khối các nước Đông Nam Á đã được tổ chức ở Hà Nội. Trong các vấn đề khu vực, Diễn đàn đã đạt được thoả thuận về những thủ tục nhằm giúp ngăn chặn các cuộc tranh chấp bùng nổ thành cuộc chiến tranh rộng lớn, theo đó tổ chức Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN không chỉ giữ vai trò xây dựng lòng tin giữa các nước thành viên, mà còn chính thức có quyền tham dự vào việc giải quyết các tranh chấp song phương hoặc đa phương trong vùng([32]). Trung Quốc và ASEAN đã cùng nhau ra “Tuyên bố về liên hợp hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống”, tạo ra cục diện mới cho hai bên bắt tay tấn công các loại tội phạm xuyên biên giới, như buôn bán ma tuý, di dân bất hợp pháp, cướp biển, chủ nghĩa khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm trên mạng v.v…([33]). Bên cạnh đó, vấn đề Biển Đông liên quan đến nhiều nước trong khu vực cũng đã được các bên, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc ký kết Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông. Những  hợp tác mang tính đa phương là cơ sở cho việc hai nước tăng cường niềm tin, thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ sẵn có và làm giảm những nguy cơ liên quan đến an ninh trên biển.
Nhìn chung, trong giai đoạn từ khi bình thường hoá quan hệ hai nước đến nay, quan hệ chính trị giữa hai nước trải qua những giai đoạn từ chỗ bắt đầu khôi phục lại quan hệ, niềm tin đến tăng cường hợp tác chặt chẽ với nhau trên nhiều lĩnh vực, đạt được những bước phát triển ổn định, tạo dựng được cơ sở vững chắc để hai nước cùng tiến tới giải quyết những bất đồng còn tồn tại.
Mối quan hệ chính trị hai nước phát triển trong giai đoạn qua cũng phù hợp với tình hình chung của hai nước, đáp ứng những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho cả hai nước. Chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới, hợp tác giữa hai nước sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ chính trị tốt đẹp. Đây là cơ sở để hai nước tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác, cũng như duy trì ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

LÊ TUẤN THANH
(Viện Nghiên cứu Trung Quốc)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các Thông cáo chung, Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc.
2. Vũ Quang Vinh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986-2000), Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2001.
3. Kỷ yếu quan hệ đối ngoại Quốc hội Việt Nam – Trung Quốc 1994-2006, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2006.
4. Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
6. Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành hàng tháng.
7. Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Văn Du, Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
8. Vietnamese Foreign Policy in transition, edited by Carlyle A. Thayer and Ramses Amer, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1999.
9. China and ASEAN: Changing Political and Strategic Ties, Centre of Asian Studies – The University of Hong Kong, 2005.
10. Giang Từ Hoà, Nhiệm Hướng Quần, Ký sự Ngoại giao Trung Quốc mới, Nxb Nhân dân Chiết Giang, tháng 9-1999.



([1]) Chu Húc, Chính sách đối ngoại của Trung Quốc sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Sở Nghiên cứu Ngoại giao, Khoa Ngoại giao Đại học Chính trị, Đài Bắc, tháng 6-1994, trang 149-150.
([2]) Vũ Khoan, Mốc mới trong quan hệ Việt-Trung, Tạp chí Cộng sản, Số 6-1999, trang 9.
([3]) Năm 1992, quan hệ an ninh đã có sự chuyển biến quan trọng khi trung tuần tháng 10 năm 1992, tổ chuyên gia biên giới Trung Việt tổ chức vòng đàm phán lần thứ nhất tại Bắc Kinh để trao đổi các ý kiến trong nguyên tắc tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước.
([4]) Toàn văn bài trả lời phỏng vấn cho báo chí Việt Nam ngày 14-9-2002 của ông Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng Ban biên giới, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc, http://viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20020916234331
([5]) Parshotam Mehra, China and South Asia-Some Reflections on the past and the future, China Report 30: 3 (1994), P 305.
([6]) Vũ Quang Vinh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986-2000), Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2001, trang 175-176
([7]) Giang Từ Hoà, Nhiệm Hướng Quần, Ký sự Ngoại giao Trung Quốc mới, Nxb Nhân dân Chiết Giang, tháng 9-1999, trang 279.
([8]) Báo cáo về cuộc đi thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa của đoàn đại biểu Quốc hội nước ta (từ ngày 21-2 đến 1-3-1994), Kỷ yếu quan hệ đối ngoại Quốc hội Việt Nam – Trung Quốc 1994-2006, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2006, trang 8
([9]) Chủ tịch Nông Đức Mạnh kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức hữu nghị Trung Quốc, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành tháng 3-1994, trang 3.
([10]) Trong giai đoạn này, năm 1993, Lãnh sự quán của Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương, tạo điều kiện cho công dân Việt Nam làm thủ tục sang Trung Quốc một cách thuận lợi.
([11]) Li Ma, China and Vietnam: Coping with the Threat of Peaceful Evolution, trong cuốn: Vietnamese ForeignPolicy in transition, edited by Carlyle A. Thayer and Ramses Amer, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1999, p 46.
([12]) Nguyễn Thu Mỹ, Việt Nam với sự phát triển của ASEAN: 10 năm nhìn lại, http://www.tapchicongsan.org. vn/show_content.pl?topic=5&ID=2954
([13]) Chang Pao-min, Sino-Vietnamese Relation: Prospects for he Twenty-First Century, trong cuốn: Vietnamese Foreign Policy in transition, edited by Carlyle A. Thayer and Ramses Amer, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1999, p 135
([14]) Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Văn Du, Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 208-209
([15]) Nguyễn Văn Lan, Vị thế của Việt Nam ở khu vực và thế giới trong tiến trình đổi mới và hội nhập,http://www.tapchicongsan.org.vn/show_content.pl?topic=7&ID=3523
([16]) Nông Lập Phu, Phân tích hướng phát triển của quan hệ Trung – Việt sau khi Việt Nam gia nhập khối ASEAN, in trong cuốn: China and ASEAN: Changing Political and Strategic Ties, Centre of Asian Studies – The University of Hong Kong, 2005, P 243.
([17]) Vu Hướng Đông, Đặc trưng và xu thế của phát triển quan hệ Trung – Việt, Tạp chí Đông Nam Á Tung Hoành (Trung Quốc), số 1 năm 2003, trang 24.
([18]) Vũ Quang Vinh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986-2000), Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2001, trang 177.
([19]) Quan hệ hữu nghị Trung Việt, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành, tháng 10-1999, trang 1
([20]) Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành, tháng 3 năm 1999, trang 1.
([21]) Trải qua một quá trình đàm phán mất 5 năm với 16 vòng đàm phán cấp chuyên viên, đến ngày 30 tháng 12 năm 1999, Chính phủ hai nước đã ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Sau đó, Uỷ ban liên hợp giữa hai nước đã cơ bản hoàn thành các công việc chuẩn bị cho việc phân giới, cắm mốc trên thực địa như lập 12 Nhóm phân giới, cắm mốc, thoả thuận sẽ cắm 1533 mốc giới (trước đây Pháp-Thanh chỉ cắm hơn 300 mốc giới) và ký kết văn kiện pháp lý cần thiết. Xem thêm, Toàn văn bài trả lời phỏng vấn cho báo chí Việt Nam ngày 14-9-2002 của ông Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng ban Biên giới, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc, http://viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20020916234331.
([22]) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, hai bên đã ký tắt Hiệp định phân chia Vịnh Bắc bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá làm cơ sở cho Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Dy Niên và Ngoại trưởng Trung Quốc Đường Gia Triền đã chính thức ký “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc bộ hai nước Việt Nam và Trung Quốc” và Bộ trưởng Thuỷ sản Việt Nam Tạ Quang Ngọc và Bộ trưởng Nông nghiệp Trung Quốc Trần Diệu Bang ký “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc bộ giữa hai nước Việt-Trung” vào ngày 25-12-2000.
([23]) Về ngoại giao, hai bên đã thiết lập thêm hai lãnh sự quán tại Côn Minh – Vân Nam vào ngày 30-4-2004 và tại Nam Ninh – Quảng Tây vào ngày 2-5-2004.
([24]) Các đoàn cấp cao thăm viếng lẫn nhau tăng mạnh so với các giai đoạn trước. Hàng năm, có ít nhất khoảng 2 đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước hoặc Chính phủ sang thăm lẫn nhau, cùng thảo luận những vấn đề mà hai nước cùng quan tâm, ký kết các hiệp định song phương. Theo tính toán của chúng tôi đến nay đã có khoảng hơn 30 chuyến thăm của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước sang thăm nhau kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay. Tất cả các nhà lãnh đạo từ Tổng Bí thư, đến Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội của hai nước trong thời kỳ sau bình thường hoá quan hệ đến nay đều đã có những chuyến thăm chính thức.
([25]) Đại hội 9 vào ngày 19-4-2001 tại Hà Nội Phó Chủ tịch nước Trung Quốc, Hồ Cẩm Đào đã thay mặt ĐCS Trung Quốc tới Việt Nam tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9, xem thêm: Trung Quốc: Đặc điểm chính sách ngoại giao Châu Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 23-7-2001, trang 2
([26]) Tiến trình phân giới cắm mốc giữa hai nước bắt đầu chính thức được triển khai khi cột mốc biên giới trên đất liền được cắm đầu tiên vào ngày 27-12-2001 tại cửa khẩu Móng Cái, Việt Nam và Đông Hưng, thành phố cảng Phòng Thành, Quảng Tây. Đây chính là bước tiến quan trọng của hai nước Việt - Trung trong tiến trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, đánh dấu sự thực thi chính thức của Hiệp ước biên giới trên đất liền Trung-Việt và sự khởi động chính thức của công tác phân giới cắm mốc trên thực địa biên giới trên đất liền. Tiếp sau đó, tại các tỉnh biên giới giáp biên khác với Trung Quốc, kể từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2002, các cột mốc biên giới tại các cặp cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu, Thanh Thuỷ-Thiên Bảo, Ma Lu Thàng – Kim Thuỷ Hà, Thuỷ Khẩu-Long Châu v.v…đã được tiến hành xác lập. Như tại cửa khẩu Thuỷ Khẩu-cửa khẩu Tà Lùng, ngày 7-9-2002, Trung Quốc và Việt Nam đã tổ chức riêng rẽ Lễ cắm mốc quốc giới mới số 943 (1) (2), (xem thêm: Hai nước Trung-Việt tổ chức lễ cắm mốc biên giới đầu tiên trên đất liền, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành, tháng 12 năm 2001, trang 3; Hai nước Trung-Việt tổ chức lễ cắm mốc giới tại cửa khẩu Thuỷ Khẩu – cửa khẩu Tà Lùng đường biên giới trên đất liền, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành, tháng 9 năm 2002, trang 3)
([27]) Thông cáo chung Việt Nam-Trung Quốc trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Trần Đức Lương tháng 7-2005.
([28]) Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa, Báo Nhân dân, ngày 26 tháng 12 năm 2000.
([29]) Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân hội đàm với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành, tháng 2 – 2002, trang 2.
([30]) Như trích dẫn 29, trang 3.
([31]) Như trích dẫn 29, trang 2
([32]) Diễn đàn ASEAN và vấn đề Biển Đông, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 31-7-2001, trang 6
([33]) Trung Quốc và ASEAN tăng cường hợp tác tấn công tội phạm xuyên quốc gia, Bản tin Trung Quốc do Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát hành, tháng 9 – 2003, trang 2.