Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Mỹ la tinh là sân sau của đế quốc Mỹ

Hoa Kỳ và Châu Mỹ La Tinh 


Bài viết là một biên khảo dựa trên hai tác phẩm cùng một tác giả, Greg Grandin, Giáo sư sử học, New York University: Empire’s Workshop:Latin America, the United States, and the Rise of the New Imperialism và The Colonial Massacre: Latin America in the Cold War.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ, vì nhiều lý do, đã không mấy quan tâm đến Châu Mỹ La Tinh. Thực vậy, Richard Nixon đã có lần nói “chẳng ai buồn quan tâm đến khu vực ấy”[1].Cố vấn an ninh của Nixon, Henry Kissinger, cũng diễu cợt Châu Mỹ La Tinh là một cây dao găm nhằm thẳng vào tim vùng Nam Cực. Kissinger cũng từng đùa giỡn như thế đối với Chile, Argentina, và New Zealand; và trong ba xứ, chỉ New Zealand đã thoát khỏi đổ vỡ do chính sách của Kissinger, một cái giá quá đắt cho một vùng, theo chính Kissinger, không mấy quan trọng.

Trong thực tế, Châu Mỹ La Tinh (hay Nam Mỹ) luôn giữ một vị trí quan trọng trong mọi chuyển biến ngoại giao Hoa Kỳ. Đó là vùng thường được xem như sân sau mang tính chiến lược của Hoa Kỳ, nơi các liên minh làm chính sách đối ngoại luôn tập họp để tái định vùng ảnh hưởng của Hoa Kỳ sau mỗi lần có khủng hoảng trên thế giới. Chẳng hạn, khi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm suy yếu Hoa Kỳ, các nhà ngoại giao New Deal đã tập hợp ở Nam Mỹ để hoạch định chính sách đa phương tự do (liberal multilateralism) – chính sách Hoa Thịnh Đốn đã áp đặt khá thành công ở nhiều nơi sau đệ nhị thế chiến.

Trong thập kỷ 1980s, thế hệ Tân bảo thủ đầu tiên đã trở lại Châu Mỹ La Tinh tìm cách đảo ngược chính sách – không những để chống chủ nghĩa cộng sản, mà luôn cả chính sách ngoại giao đa phương khập khiễng. Chính ở vùng Trung Mỹ đầy biến động tả phái, cánh Tân Hữu lần đầu tiên đã gieo mầm cho các nguyên tắc căn bản của cái, sau biến động 11/9, đã được biết dưới tên gọi “chủ thuyết Bush”: quyền đơn phương khai chiến mang tính ý thức hệ và đạo đức.

Một lần nữa, thế giới lại đứng trước một ngã tư lịch sử. Hoa Kỳ với quyền lực đang suy giảm – lần nầy do sự dàn trải quá mỏng lực lượng quân sự – phải đối diện với một Châu Mỹ La Tinh sôi sục; và trước ngày tòa Bạch Ốc đổi chủ vào tháng 1-2009, với sự phá sản của liên minh Tân bảo thủ sau tám năm dưới chính sách tai họa của George W. Bush, các nhà làm chính sách đối ngoại mới, một lần nữa, phải nhìn về phía Nam.

Giã biệt chủ thuyết Monroe

Trong một phúc trình gần đây, Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại (the Council on Foreign Relations – COFR), sau khi đưa ra nhận định “kỷ nguyên Hoa Kỳ làm bá chủ ở Châu Mỹ La Tinh đã chấm dứt” [2], đã đề xuất nhiều chính sách ôn hòa nhằm giúp Hoa Kỳ phục hồi vị thế trong sân sau của chính mình.

Đa số các quốc gia Châu Mỹ La Tinh ngày nay đang nằm trong tay các chính quyền tả phái hay trung tả ít nhiều khác nhau - từ chủ nghĩa bình dân của Hugo Chavez ở Venezuela đến chủ nghiã cải cách của Luiz Inacio Lula da Silva ở Brazil và Michelle Bachelet ở Chile. Tất cả đều theo đuổi một mục đích chung: khẳng định tính độc lập ngày một nhiều hơn đối với Hoa Kỳ.

Các xứ nầy hiện đang ve vản các nhà đầu tư Trung quốc, mở cửa giao thương với Âu châu, không ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố của Bush, từ chối Thỏa Ước Mậu Dịch Tự Do Châu Mỹ, và tránh né IMF – một định chế trong nhiều thập kỷ đã luôn giữ vai trò cánh tay nối dài của Wall Street và Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ.

Gần đây, Rafael Correa, Tổng Thống Ecuador, đã loan báo, chính quyền của ông sẽ không gia hạn hợp đồng cho thuê phi cảng Manta Air Field, một căn cứ quân sự lớn ở Nam Mỹ. Trước đó, Correa đã gợi ý nếu Ecuador được thiết lập một căn cứ ở Florida, ông có thể xem xét khả năng gia hạn hợp đồng. Khi Hoa Thịnh Đốn từ chối, Ecuador liền đề nghị cho Trung quốc thuê, gợi ý phi trường nầy sẽ trở thành “cửa ngõ để Trung quốc tiếp cận với Châu Mỹ La Tinh”[3].

Trước kia, một cử chỉ như vậy đã có thể bị xem như một vi phạm nghiêm trọng chủ thuyết Monroe, do Tổng Thống James Monroe công bố năm 1823, theo đó Hoa Thịnh Đốn sẽ không bao giờ cho phép Âu châu tái chiếm bất cứ phần đất nào thuộc châu Mỹ làm thuộc địa. Năm 1904, Theodore Roosevelt đã cập nhật chủ thuyết vừa nói để biện minh một chuỗi hành động xâm chiếm vùng Caribbean. T T Dwight Eisenhower và Ronald Reagan cũng đã dùng chủ thuyết nầy để hợp thức hóa các cuộc đảo chính và các hoạt động bí mật của CIA trong suốt thời chiến tranh lạnh.

Ngày nay, sự thể đã đổi khác. Như phúc trình COFR đã ghi nhận, “châu Mỹ La Tinh không còn thuộc quyền Hoa Thịnh Đốn dù để mất hay để cứu”[4]. Chủ thuyết Monroe đã lỗi thời.

Người ta những tưởng đó là tin mừng cho châu Mỹ La Tinh. Nhưng lần cuối khi một thành viên của COFR (được thành lập vào năm 1921 và được xem như phản ảnh chính sách đối ngoại của dòng chính) tuyên bố chủ thuyết Monroe đã cáo chung, kết quả, trái lại, là diệt chủng.

Dưới thời phái tự do 

Năm 1975, Sol Linowitz, trong tư cách chủ tịch Uỷ Hội Quan Hệ Hoa kỳ- Châu Mỹ La tinh (Commission on United States-Latin America Relations – COUSLAR), tuyên bố “chủ thuyết Monroe không còn thích ứng và lỗi thời trước những thực tại đã đổi thay và xu thế của tương lai”[5].

Thành viên của Ủy Hội Linowitz là những học giả và doanh gia đáng kính thuộc phái tự do (liberal establishment). Đó là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của giới làm chính sách ngoại giao ưu tú của Hoa Kỳ để đối phó với một loạt các cuộc khủng hoảng dồn dập trong thập kỷ 1970s – thất bại ở Việt Nam, chủ nghĩa quốc gia đang trổi dậy trong thế giới thứ ba, sự cạnh tranh Âu Á, giá nhiên liệu tăng vọt, đồng Mỹ kim mất giá, vụ bê bối Watergate, bất đồng chính kiến và bất ổn quốc nội. Đối diện với sự suy sụp tính chính đáng của Hoa Kỳ trên toàn cầu, COFR và các tổ chức nghiên cứu chiến lược như Brookings Institute và Trilateral Commission, mới thành hình, đã đưa ra một số đề án nhằm giúp ổn định thế lực của Hoa Kỳ và bảo đảm hệ thống toàn cầu diễn biến một cách êm đềm và hòa hoản.

Phần lớn giới trí thức và lãnh đạo các doanh nghiệp đều nhất trí là sự hăng say chống cộng – đã đưa Hoa Kỳ vào tai họa ở Việt Nam – cần được chế ngự, và những hình thức liên minh mới giữa Hoa Thịnh Đốn, Âu châu và Nhật bản cần được sáng tạo. Các người cổ súy một trật tự thế giới mới hài hòa hơn cũng đến từ khối đại công ty nòng cốt của đảng Dân chủ và cánh Rockefeller của đảng Cộng hòa.

Họ hy vọng một sự bình thường hóa chính trị toàn cầu sẽ giúp chận đứng, nếu không đảo ngược được, sự bào mòn vị thế kinh tế của Hoa Kỳ. Sự xuống thang quân sự sẽ giúp chuyển hướng tài chánh công qua lãnh vực đầu tư mang tính sản xuất, và chế ngự áp lực lạm phát đang gây âu lo trong giới quản trị trái phiếu của các ngân hàng đa quốc gia. Cải thiện quan hệ với khối Cộng sản sẽ giúp mở cửa các thị trường Liên Bang Xô Viết, Đông Âu, và Trung quốc đón nhận thương mãi và đầu tư. Họ cũng nhất trí: Hoa Thịnh Đốn cần thay đổi chính sách luôn nhìn chủ nghĩa xã hội trong thế giới thứ ba qua lăng kính chiến tranh lạnh với Liên Xô.

Vào lúc đó, giới lãnh đạo có tinh thần quốc gia và thiên tả ở châu Mỹ La tinh, cũng giống như hiện nay, đã lên tiếng đòi hỏi phải tái phân tài nguyên toàn cầu một cách công bằng hơn. Để ngăn ngừa sự lan tràn của làn sóng quá khích, giám đốc điều hành Trilateral Commission, Zbignew Brzezinsky – sau nầy giữ chức vụ cố vấn an ninh quốc gia trong chính quyền T T Jimmy Carter – đưa ra luận cứ: “đối với Hoa Kỳ, từ bỏ chủ thuyết Monroe sẽ là một quyết định khôn ngoan”[6]. Ủy hội Linowitz cũng nhất trí đưa ra nhiều khuyến nghị theo chiều hướng nầy – kể cả việc trả lại kênh đào Panama cho Panama và giảm bớt viện trợ quân sự cho vùng Mỹ La Tinh. Đó cũng là cốt lõi chính sách Mỹ La Tinh của T T Carter sau nầy.

Thời phái tự do mất ảnh hưởng

Đã hẳn, chính sự trở lại với chủ trương quân sự của cánh hữu đã đem lại một giải pháp lâm thời mạch lạc và khá thành công cho các cuộc khủng hoảng trong thập kỷ 1970s.

Với sự thống nhất trong liên minh giữa trường phái chống cộng cũ dựa trên luật pháp và trật tự, thế hệ Tân bảo thủ đầu tiên, và giới truyền giáo vừa lớn mạnh, Cánh Tân Hữu (New Right) đã tổ chức được một tập thể ngày một lớn rộng các ủy ban, các định chế, các viện nghiên cứu chiến lược, và các tạp chí chuyên đề – các cuộc thương nghị giải giới nguyên tử SALT II, Thỏa Ước Kênh đào Panama, và hệ thống tên lữa MX, cũng như chính sách của Hoa Kỳ đối với Cuba, Nam Phi, Rhodesia, Israel, Taiwan, Afghanistan, và Trung Mỹ. Tất cả các tổ chức, thỏa ước vừa kể đều nhằm mục tiêu khắc phục hội chứng Việt Nam và trả thù giới truyền thông cánh tả và dư luận quần chúng quốc nội. Một mục tiêu khác là khôi phục và chấn chỉnh chính sách đối ngoại cùa Hoa Kỳ.

Cũng như phái tự do trước đó, nhóm trí thức tân bảo thủ giờ đây cũng nhìn về phía châu Mỹ La tinh để định hướng tư tưởng của mình. Jeane Kirkpatrick, đại sứ bên cạnh Liên Hiệp Quốc dưới thời T T Ronald Reagan chẳng hạn, cũng đã chú tâm đến châu Mỹ La Tinh khi hoạch định các nguyên tắc căn bản nhằm hiện đại hóa tư tưởng Tân bảo thủ. Bà đã đặc biệt khắt khe với Linowitz khi Linowitz, theo lời Kirkpatrick, đại diện cho giới có tinh thần quốc tế bất vụ lợi và chủ hòa[7] - một cụm từ đang trở lại phổ thông hiện nay. Bà nhấn mạnh, phúc trình Linowitz muốn chuyển tải thông điệp phải từ bỏ viễn kiến chiến lược cơ sở của các chính sách Hoa kỳ từ chủ thuyết Monroe cho đến khi Jimmy Carter đắc cử tổng thống. Cốt lỏi chính sách nầy là quan niệm về quyền lợi quốc gia và niềm tin ở tính chính đáng đạo đức trong các phương cách bảo vệ quyền lợi nầy.[8]

Lúc đầu, Viện Brookings, Hội Đồng Đối Ngoại (Council on Foreign Affairs), và Ủy Hội Tay Ba (Trilateral Commission), cũng như tổ chức Bàn tròn Doanh Nghiệp (Business Roundtable), do thành phần doanh nhân ưu tú thành lập năm 1972, chống lại nỗ lực tái quân sự hóa xã hội Hoa Kỳ. Nhưng vào cuối thập kỷ 1970s, khuynh hướng bình thường hóa đã rõ rệt thất bại trong cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Âu châu và Nhật bản đã không chịu hợp tác ổn định giá trị đồng Mỹ kim, và các nền kinh tế Đông Âu, Liên Xô, và Trung quốc lại quá èo uột không đủ sức thu hút đầy đủ tư bản từ Mỹ hay đóng vai trò những đối tác thương mãi hữu hiệu. Trong suốt thập kỷ 1970s, các tập đoàn tài chánh như Ngân Hàng Chase Manhattan của gia đình Rockefellers đang đầy ắp “petrodollars” do Saudi Arabia, Iran, Venezuela, và các xứ xuất khẩu dầu hỏa ký thác. Những trung tâm nầy cần tìm cơ hội đầu tư, nhưng kinh tế Hoa Kỳ đang trong thời kỳ trì trệ và chưa thể tiếp cận thế giới thứ ba.

Trước bối cảnh đó, ngay sau khi Ronald Reagan đắc cử Tổng Thống vào cuối năm 1980, giới trí thức và giới làm chính sách dòng chính , phần lớn tự xem thuộc cánh tự do, đã hội tụ chung quanh nghị trình đối ngoại và đối nội của cuộc “cách mạng Reagan”: tháo gỡ nhà nước phúc lợi, gia tăng ngân sách quốc phòng, mở cửa thế giới thứ ba cho tư bản Hoa kỳ, và triệt để khai thác chiến tranh lạnh.

Một thập kỷ sau ngày Ủy hội Linowitz tuyên bố chủ thuyết Monroe không còn đất sống, Ronald Reagan tái khẳng định chủ thuyết nầy để biện minh cho sự bảo trợ những phần tử chống cộng đầy sắt máu ở Nicaragua, Guatamala, và El Salvador. Một vài năm sau khi Jimmy Carter tuyên cáo Hoa kỳ đã giải tỏa tâm lý hoảng sợ quá độ chủ nghĩa cộng sản, Reagan đã nhắc lại lời John F. Kennedy: “Sự khống chế của cộng sản ở bán cầu nầy là điều không bao giờ có thể thương nghị”[9].

Sự bảo trợ bất hợp pháp phong trào Contras của Reagan – nhóm sát nhân mà Reagan ca tụng như những thành phần đạo đức ngang hàng với các nhà lập quốc Hoa kỳ, và gửi quân trợ giúp gây bất ổn cho chính quyền Sandinista ở Nicaragua – và sự tài trợ các nhóm sát thủ ở El Salvador và Guatemala, lần đầu tiên đã tạo được hai nhóm hậu thuẩn chính cho phái Tân Hữu (New Right). Phái Tân Bảo Thủ đã giúp Reagan phục hồi thể chế tổng thống mang tính đế quốc trên cơ sở trí thức và hợp pháp trong khi nhóm tôn giáo hữu phái hổ trợ chính sách quân sự mới với cơ sở quần chúng.

Liên minh đối tác nầy trước hết đã được xây dựng – như đang được tiếp tục ở Iraq hiện nay – trên tử thi của 40,000 dân Nicaragua và 70,000 người El Salvador bởi đồng minh Hoa Kỳ; và 200,000 người Guatamala, phần lớn là dân quê Mayan, nạn nhân trong chiến dịch càn quét tàn bạo, một chiến dịch đã bị Liên Hiệp Quốc lên án là diệt chủng.

Sự chấm dứt thời hoàng đạo của phái tân bảo thủ

Phúc trình của Ủy Hội Đối Ngoại về châu Mỹ La Tinh gần đây, vào một thời điểm suy sụp mới của đế quốc, một lần nữa, báo hiệu sự ra đời của một đồng thuận mới, với ngôn từ tương tự như trong thập kỷ 1970s sau cuộc chiến Việt Nam. Từ mọi góc độ ngoài quân sự, biên tập viên tuần báo Newsweek, Fareed Zacharia, đã lập luận trong tác phẩm mới, The Post-American World (Thế Giới hậu-Hoa Kỳ): “sự phân phối quyền lực đang chuyển dịch, ngày một xa rời uy lực khống chế của Hoa Kỳ”[10]. Chỉ năm năm trước đó, trước cuộc tiến chiếm Iraq, Zacharia đã nhấn mạnh một điều trái hẳn – ngày nay chúng ta đang sống trong “một thế giới đơn cực”(unipolar world) trong đó Hoa Kỳ giữ một vị thế “vô tiền khoáng hậu”(unprecedented).

Thời kỳ hoàng đạo của nhóm Tân Bảo Thủ trong lịch sử, hay như ngôn từ của chính họ: “the neocons’ holiday from history”, đã cáo chung. Thảm họa ở Iraq, sự suy sụp trong gía trị đồng đô la, sự trổi dậy của Ấn Độ và Trung Quốc như hai cường quốc kỹ nghệ, thương mãi, của Liên Bang Nga như một siêu cường nhiên liệu, sự thất bại trong nỗ lực kiểm soát vùng Trung Đông, giá dầu khí nhảy vọt cũng như giá cả các nguyên liệu và thực phẩm then chốt, và một Liên hiệp Âu châu phú cường ngày một được củng cố, đã làm giấc mơ bá chủ toàn cầu của họ hoàn toàn tan vỡ.

Barack Obama rõ ràng là ứng cử viên với cương vị tốt nhất khả dĩ giúp lôi kéo Hoa kỳ lùi khỏi bờ vực bất thích ứng (the edge of irrelevance). Đã hẳn không một ứng viên vào tòa Bạch Ốc nào lại sử dụng những ngôn từ chủ bại như thế, vai trò lịch sử của Tổng Thống sắp đến không phải để thủ thắng trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu mà chính là để thương thảo giúp Hoa Kỳ tái hội nhập cộng đồng các quốc gia trên thế giới.

Parag Khanna, một cố vấn của Obama, gần đây đã đưa ra luận cứ: bằng cách tối đa hóa lợi thế văn hóa và kỹ thuật, Hoa kỳ với một chút may mắn có lẽ có thể giành được vị thế một đối tác thứ ba, trong trật tự toàn cầu mới gồm ba thành viên đồng hạng, bên cạnh châu Á và châu Âu – rõ ràng một đồng vọng của ý niệm tam phương (trilateralist position) trong thập kỷ 1970s. Tạm quên những nét tương đồng với thỏa ước Munich, nếu cử tri Hoa Kỳ hiểu rõ lịch sử, phe Cộng hòa có thể có lợi khi gán lên Obama nhãn hiệu không phải một Neville Chamberlain (1869-1940), mà là một Fernando VII (1784-1833) của Tây Ban Nha, hay một Clement Richard Attlee (1428-1471) của Anh quốc (mỗi người đã lãnh đạo đất nước mình trong thời khắc mạt vận của đế quốc).

Như vậy, một câu hỏi cần được đặt ra: Nếu Obama thắng cử vào tháng 11 tới và muốn theo đuổi một chính sách biểu dương quyền lực một cách duy lý hơn, ít mang tính ý thức hệ cực đoan hơn – có lẽ dùng châu Mỹ La Tinh như địa bàn phát động chính sách mới – liệu chính sách nầy có thể một lần nữa gây ra một phản ứng mang tính quốc gia chủ nghĩa (gạt bỏ đường lối Rockefellerism khỏi đảng Cộng Hòa, xua đẩy Jimmy Carter khỏi tòa Bạch Ốc, và vũ trang các nhóm cảm tử ở Trung Mỹ?).

Đã hẳn, hiện đang có nhiều tổ chức nghiên cứu chiến lược (think tanks) bảo thủ cuồng nhiệt, từ Hudson Institute đến Heritage Foundation, sẵn sàng leo thang thánh chiến hơn cả Bush, như một phương cách thoát khỏi vũng lầy hiện nay. Nhưng trong thập kỷ 1970s, phái Tân Hữu đang trên đà đi lên; phái hữu hiện nay rõ ràng đang mục rữa. Do đó, phái nầy có thể đổ hết trách nhiệm cuộc khủng hoảng trầm trọng và dai dẳng hiện đang bao trùm Hoa Kỳ lên đầu cấp lãnh đạo đương nhiệm trong khi đề nghị những giải pháp – gia tăng quân đội, tiếp tục gia tăng áp lực mở cửa thế giới thứ ba, và đẩy mạnh chủ nghĩa thị trường tự do kinh điển – nhằm lôi kéo cấp lãnh đạo đương nhiệm nhập cuộc.

Ngày nay, phe Hữu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc khủng hoảng dai dẳng và nguyên nhân trực tiếp của nó – cuộc chiến Iraq. Giả dụ John McCain, bằng một cách nào đó, thắng cử vào tháng 11 tới, ông ta cũng không thể hành xử như một Ronald Reagan đại diện cho một trào lưu đang lên, mà chỉ có thể như một Jimmy Carter đang tìm cách duy trì một liên minh đang trên đà rã đám.

Sự mục rữa của phe Hữu như một lực lượng tinh thần đã phơi bày lộ liễu qua phản ứng đầy cảm tính trước những bước tiến của phe Tả (hay Trung Quốc) ở châu Mỹ La Tinh. Sự sinh động đầy tự tin của Jeane Kirkpatrick khi dùng châu Mỹ La Tinh để gây lúng túng cho chính quyền Carter giờ đây đã nhường chỗ cho tiếng rên la tuyệt vọng. Frank Gaffney thuộc Trung Tâm Chính Sách An Ninh (Center for Security Policy) luôn dò hỏi người chung quanh là “Ai đã làm mất châu Mỹ La Tinh? (Who lost Latin America?). Ông ta than phiền, châu Mỹ La Tinh hiện nay đã trở thành một khối nam châm thu hút quân khủng bố Hồi giáo và cái nôi nuôi dưỡng các phong trào chính trị đối nghịch… Lãnh đạo then chốt các trào lưu nầy chính là Hugo Chavez, nhà độc tài tỷ phú Venezuela, người đã phát động cuộc thánh chiến chống Hoa Kỳ.

Ngoại giao hù dọa

Nhưng sự kiện phe Hữu chưa thể giăng biểu ngữ khắp châu Mỹ La Tinh trong một tương lai gần không hề có nghĩa là chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ ở Tây Bán Cầu sẽ được phi quân sự hóa(demilitarized). Xét cho cùng, chính Bill Clinton, không phải George W. Bush, với sự thúc dục của Lockheed Martin năm 1997, đã đảo ngược chính sách cấm vận quân sự (cấm bán vũ khí kỹ thuật cao) đối với châu Mỹ La Tinh của chính quyền Carter theo khuyến cáo của phúc trình Linowitz. Chính quyết định nầy đã phát động làn sóng thi đua võ trang một cách nguy hiểm và phung phí ở Nam Mỹ. Chính Clinton, không phải Bush, đã gia tăng viện trợ quân sự cho chính quyền khát máu Colombia và các tập đoàn cung cấp lính đánh thuê Blackwater và Dyncorp, leo thang cuộc chiến vô hiệu chống nạn buôn lậu ma túy của Hoa Kỳ ở châu Mỹ La Tinh.

Trong thực tế, một sự đối chiếu chớp nhoáng giữa phúc trình Linowitz và Hội Đồng Đối Ngoại về Nam Mỹ đã đem lại một phương cách ôn hòa để đo lường xem cấp lãnh đạo khuynh tả đương nhiệm đã chuyển dịch về phía hữu bao xa trong ba thập kỷ qua. Điều đáng khen là Hội Đồng đã khuyến cáo Hoa Thịnh Đốn bình thường hóa quan hệ với Cuba, thương nghị với Venezuela, và bớt quan tâm đến sự khả dĩ nạn khủng bố Hồi giáo dùng Nam Mỹ làm căn cứ địa, ngược với lập trường của phái Tân Bảo Thủ. Douglas Feith, nguyên thứ trưởng quốc phòng, sau biến cố 11/9, đã đưa ra sáng kiến hoản tấn công Afghanistan, thay vào đó, nên oanh tạc Paraguay, xứ có cộng đồng Shiite đông đảo, nhằm gây bất ngờ cho tổ chức al-Qaeda phái Sunni.

Tuy nhiên, đối với phần phúc trình Linowitz đã gặp phản ứng giận dữ từ Jeane Kirkpatrick – Hoa Kỳ không nên áp đặt”giới hạn cho tính đa dạng ý thức hệ trong các quốc gia khác”[11] và người dân Mỹ La Tinh”có thể và sẽ tự xét đoán lợi và bất lợi của giải pháp Cuba”[12] -Hội Đồng không còn giữ thái độ cởi mở. Hội Đồng nhấn mạnh Venezuela là một vấn đề Hoa Kỳ cần phải giải quyết – mặc dù chính quyền Caracas đã được hầu hết các xứ Mỹ La Tinh công nhận tính chính đáng, như một đồng minh, ngay cả một đồng minh thân cận. Người dân Mỹ La Tinh “có thể hiểu rõ điều gì lợi cho họ”, như phúc trình mới của Hội Đồng thú nhận, nhưng Hoa Thịnh Đốn vẫn sáng suốt hơn, vì vậy, phải ủng hộ chủ trương “công bình xã hội” (social justice) như một chiêu bài lôi kéo dân Venezuela và Mỹ La Tinh rời xa Chavez.

Khi phúc trình của Hội Đồng luôn đặt từ “công bình xã hội” trong vòng kép, điều đó có nghĩa từ nầy được dùng như một chiến thuật khuyến mãi hơn là dấu hiệu các đại công ty và ngân hàng Mỹ sẵn sàng dành cho các nhà lãnh đạo có tinh thần quốc gia Mỹ La Tinh một số nhượng bộ thiết thực. Bảy thập niên trước đây, Franklin Roosevelt đã ủng hộ quyền các xứ Mỹ La Tinh quốc hữu hóa các quyền lợi của Hoa Kỳ, kể cả tài sản của Standard Oil ở Bolivia và Mexico, khi tuyên bố đã đến lúc mọi người ở Tây bán cầu có quyền giành “một phần tài nguyên chính đáng và công bằng” (fair share) của mình. Ba thập kỷ trước đây, Ủy Hội Linowitz đã khuyến cáo thiết lập một số quy tắc hay luật ứng xử (code of conduct) ấn định trách nhiệm các doanh nghiệp, các công ty nước ngoài ở Tây bán cầu và quyền quốc hữu hóa các kỹ nghệ và tài nguyên của các quốc gia trong vùng.

Ngược lại, Hội Đồng lại nhạo báng những nỗ lực khiêm tốn hơn của Chavez nhằm tạo lập những công ty hợp doanh (joint ventures) với các tập đoàn dầu hỏa đa quốc gia, đồng thời chỉ đưa ra những hứa hẹn suông. Khuyến cáo chính của Hội Đồng – nhằm biến Brazil thành một mắc xích chính trong một trật tự hậu Bush, hậu Chavez ở Tây Bán Cầu (post-Bush, post-Chavez hemispheric order) – chỉ thúc dục xóa bỏ trợ cấp và thuế quan bảo vệ khu vực nông doanh khả dĩ cổ súy một “Đối Tác Nhiên Liệu Sinh Học” (Biofuel Partnership) với khu vực canh nông khổng lồ của Brazil. Điều nầy sẽ là một tai họa cho môi sinh khi cổ súy thành lập những đồn điền cơ giới hóa trong vùng Vịnh Amazon Basin, trong khi chẳng làm gì để tạo công ăn việc làm hay tái phân phối của cải, tài nguyên một cách công bình hơn.

Khống chế bởi đại diện khu vực tài chánh trong nền kinh tế Hoa Kỳ, Hội Đồng chẳng khuyến cáo gì khác hơn là tiếp tục các chính sách tự do mậu dịch luôn thất bại trong vòng hai mươi năm qua – biện minh cho một chiêu bài vì chiêu bài “tự do mậu dịch” vừa nói chỉ “tự do” như thứ “công bình” trong cụm từ “công bình xã hội”của các đại công ty.

Chủ thuyết OBAMA ?

Cho đến nay, Barack Obama chẳng hứa hẹn gì tốt đẹp hơn. Vài tuần trước đây, Obama đã đến Miami đọc một bài diễn văn quan trọng về châu Mỹ La Tinh trước Hiệp Hội Quốc Gia Người Mỹ Gốc Cuba (Cuban American National Foundation). Đây rỏ ràng không phải là diễn đàn để thảo luận nghiêm túc về một chính sách hứa hẹn đối thoại với nhân dân các xứ Nam Mỹ.

Thực vậy, các ưu tiên cho một cuộc đối thoại mang tính nhân bản có lẽ đã khác nhiều nếu cử tọa không phải là những người Cuba lưu vong hữu khuynh giàu có, mà là những người gốc La Tinh nhập cư ở Los Angeles, những người đã làm sống lại phong trào lao động Mỹ , hay những gia đình Trung Mỹ định cư ở Postville, Iowa, nơi nhà cầm quyền Bộ Tư Pháp và Nhập cư đã phát động một cuộc càn quét các nhà máy đóng thịt hộp, bắt nhốt hơn 700 công nhân nhập cư bất hợp pháp. Obama đã kêu gọi cải tổ toàn diện chính sách nhập cư và hứa sẽ thực thi nghị trình Bốn Tự Do của Franklin Roosevelt cách đây 68 năm, gồm cả quyền giải thoát khỏi nghèo khó (freedom from want) mang tính dân chủ xã hội. Trong thực tế, Obama đã dành hầu hết thì giờ ve vản cử tọa Mỹ gốc Cuba lưu vong.

Tảng lờ những khuyến cáo không mấy cực đoan của Hội Đồng Đối Ngoại, ứng cử viên Obama hứa sẽ duy trì cấm vận đối với Cuba. Ông còn đi xa hơn. Theo giọng điệu Frank Gaffney, Obama lên án chính quyền Bush đã đánh mất châu Mỹ La Tinh, đã cho phép Trung Quốc, Âu châu, và những kẻ mỵ dân như Hugo Chavez tự do điền “vào khoảng trống” (into the vacuum). Obama còn nêu viễn tượng ảnh hưởng của Iran xâm nhập Nam Mỹ, đơn cử ví dụ “mới đây, Tehran và Caracas mới cùng thiết lập một ngân hàng liên doanh với lợi nhuận từ dầu khí”[13]

Dù người ta nghĩ thế nào về Hugo Chavez, một đường lối ngoại giao quan tâm đứng đắn đến công luận Mỹ La Tinh cũng phải công nhận một điều: Hầu hết những nhà lãnh đạo trong vùng không những không xem Chavez là một “vấn đề”, mà đã hợp tác với ông trong các sáng kiến kinh tế chính trị như Ngân Hàng Phương Nam (Bank of the South), một IMF và một Liên Hiệp các Quốc Gia Nam Mỹ theo dạng Liên Hiệp Âu Châu[14], vừa ra đời cách đây mấy tuần lễ. Và bất cứ một Tổng Thống Mỹ nào thực tình muốn giúp người dân Mam Mỹ thoát khỏi nghèo khó cũng phải làm việc với các lãnh đạo cánh tả với sắc thái ít nhiều khác nhau ở châu Mỹ La Tinh.

Nhưng quan trọng hơn cả là lập trường của Obama đối với Colombia. Các nhà phê bình từ lâu đã nói rõ hàng tỉ đô la viện trợ quân sự cho các lực lượng an ninh Colombia – nhằm đánh bại phe chống đối FARC và giảm thiểu số lượng cocaine sản xuất – đã cản trở mọi nỗ lực thương thảo một giải pháp chấm dứt cuộc nội chiến ở xứ nầy và rất có thể sẽ làm lan tràn bất ổn đến các vùng Andean lân cận. Điều đó thực sự đã xẩy ra vào tháng 3-2008 khi Alvaro Uribe ra lệnh bỏ bom căn cứ quân chống đối ở Ecuador (có thể với sự hổ trợ tiếp vận của Hoa Kỳ từ căn cứ không quân Manta Airforce Base, lý do khiến Correa muốn nhượng căn cứ nầy lại cho Trung Quốc). Để biện minh cho cuộc không tập, Uribe đã công khai khẳng định quyền tấn công phòng ngừa đơn phương theo đúng chủ thuyết Bush. Đáp lại, Ecuador và Venezuela đã điều động quân đội đến dọc biên giới Colombia, đưa Nam Mỹ đến bờ vực thẳm chiến tranh.

Điều đáng lưu ý hơn là trong vụ xung đột nầy, tuyệt đại đa số các quốc gia Caribbean và Mỹ La Tinh đã đứng về phía Ecuador và Venezuela, cực lực lên án cuộc không tập và tái khẳng định chủ quyền tối thượng của mỗi quốc gia trong vùng như đã được Franklin Roosevelt công nhận từ lâu. Tuy nhiên, Obama thì trái lại. Obama đã công khai chấp nhận nỗ lực của chính quyền Bush biến quan hệ của Colombia với các xứ láng giềng trong vùng Andean theo chiều hướng quan hệ giữa Israel và đa số các quốc gia lân cận trong vùng Trung Đông. Trong bài nói chuyện ở Miami, Obama đã cam kết” ủng hộ quyền tấn công quân khủng bố đang ẩn náu dọc biên giới với các xứ láng giềng của Colombia”[15].

Điều đáng quan ngại hơn là việc Obama ủng hộ Sáng Kiến Merida (Merida Initiative), một sáng kiến đã bị nhóm nhân quyền Amnesty International lên án là đã áp dụng giải pháp Colombia (Colombian solution) cho Mexico và Trung Mỹ, tung tiền giúp quân đội và cảnh sát các xứ nầy càn quét các băng đảng buôn lậu ma túy và cướp bóc. Đã hẳn, đây là những tội ác nghiêm trọng trong các xứ liên hệ cần được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, thật là một điều tai hại khi lấy Colombia – một xứ với chính quyền bị các nhóm đánh thuê giết mướn (death-squads) xâm nhập khắp mọi cấp và nơi các cán bộ nghiệp đoàn và tổ chức chính trị thường xuyên bị đe dọa và giết chóc- làm mẩu mực áp đặt lên các xứ Mỹ La Tinh.

Obama không những ủng hộ Sáng Kiến Merida mà còn muốn mở rộng sáng kiến nầy đến các xứ Nam Mỹ. Ông tuyên bố ở Miami: “Chúng ta còn phải đẩy mạnh xa hơn về phía Nam”[16].

Cũng như trong thập kỷ 1970s, hình như một lần nữa, những thông tin về sự cáo chung của chủ thuyết Monroe quả đã được thổi phồng quá đáng. Thực vậy, sau gần 60 năm xao lãng sân sau của mình vì bị thu hút vào Trung Đông và Trung, Nam Á, Ngũ Giác Đài vừa mới tái lập “Đệ Tứ Hạm Đội” (U.S. Fourth Fleet) chịu trách nhiệm trong vùng Caribbean và duyên hải Trung và Nam Mỹ. Như lời của Đề Đốc James Stevenson, đó là một cử chỉ tượng trưng nhằm gửi “một tín hiệu đứng đắn đến ngay cả các dân tộc không mấy ủng hộ Hoa Kỳ”[17].

Những biến động ở Colombia trong thời gian gần đây, cũng như ở Bolivia, và Venezuela trong thượng tuần tháng 9-2008 (trục xuất đại sứ Hoa Kỳ và những biến chuyển liên hệ sau đó) là những bằng chứng khác của khuynh hướng vừa nói.



Chú thích

[1] ”people don’t give a shit” about this place.

[2] …the era of the United States as the dominant influence in Latin America is over.

[3] China’s gateway to Latin America.

[4] China’s gateway to Latin America.

[4] Latin America is not Washington’s to lose, nor to save.

[5] … inappropriate and irrelevant to the changed realities and trends of the future.

[6] It would be wise for the United States to make an explicit move to abandon the Monroe Doctrine.

[7] disinterested internationalist spirit of appeasement.

[8]… abandoing the strategic perspective which has shaped U.S. policy from the Monroe Doctrine down to the eve of the Carter administration, at the center of which was a conception of the national interest and a belief in the moral legitimacy of its defense.

[9] Communist domination in this hemisphere can never be negotiated.

[10] the distribution of power is shifting, moving away from American dominance.

[11] define the limits of idiological diversity for othernations.

[12] …can and will assess for themselves the merits and disadvantages of the Cuban approach.

[13] just the other day Tehran and Caracas launched a joint bank with their windfall oil profits.

[14] an alternative to The International Monetary Fund and the Union of South American Nations, modeled on the European Union.

[15] support Colombia’s right to strike terrorists who seek safe-havens across its

borders.

[16] We must press further south as well.

[17] the right signal, even to the people that you know aren’t necessarily our greatest supporters.

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

NHÌN LẠI CHÍNH SÁCH CHÂU Á CỦA MỸ TỪ NỬA SAU NHỮNG NĂM 50 THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX


NHÌN LẠI CHÍNH SÁCH CHÂU Á CỦA MỸ TỪ NỬA SAU NHỮNG NĂM 50 THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX

Đăng ngày: 17-07-2012, 10:42 | Danh mục: Bài viết Tạp chí » Năm 2007 » Số 11
Lịch sử lập quốc của Mỹ được tính từ ngày 04/7/1776, tức là ngày nước Mỹ công khai tuyên bố trước toàn thế giới về nền độc lập của mình. Vì vậy, so với các cường quốc tư bản Anh, Pháp thì Mỹ là một quốc gia còn rất non trẻ. Để có thể xác lập được vị thế của mình trên trường quốc tế, nước Mỹ tự nhận thấy không thể đi theo lối mòn của các cường quốc tư bản Châu Âu mà phải tìm cho mình một hướng đi mới. Đó là việc Mỹ sử dụng lợi thế của một nước đi tiên phong trong việc giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa thực dân để khuếch trương, mở rộng vị thế của mình đối với các nước Châu Mỹ Latinh nói riêng và đối với thế giới nói chung trong đó có các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
1. Bắt đầu bằng các Hiệp định thương mại và chính sách mở cửa
Trong số các nước Châu Á thì Nhật Bản không phải nước đầu tiên để cho Mỹ thiết lập mối quan hệ về thương mại mà là nước đầu tiên được Mỹ lựa chọn cho việc phục vụ chính sách của Mỹ ở khu vực này. Không phải ngẫu nhiên mà vào năm 1853, Mỹ cử Thiếu tướng hải quân Matthew Perry chỉ huy Đoàn tàu 7 chiếc tiến vào Edo yêu cầu Nhật Bản mở cửa. Dưới nhãn quan của các chiến lược gia của Mỹ thì Nhật Bản là điểm đến lý tưởng nhất cho phép Mỹ rộng đường trong việc thiết lập mối quan hệ thương mại với các nước khác trong khu vực. Một năm sau vào tháng 3 -1854, Hiệp ước Kanagawa được ký kết cho phép các thương nhân Mỹ được tự do buôn bán ở hai cảng biển Hakodate và Shimoda cũng như được đặt lãnh sự quán tại Shimoda.
Sau khi buộc Nhật Bản mở cửa, Mỹ tiến thêm một bước yêu cầu Nhật Bản trao cho Mỹ nhiều quyền lợi hơn giống như những quyền lợi mà Trung Quốc đã ưu đãi cho nước Anh. Không còn sự lựa chọn nào khác, Nhật Bản đành phải chấp nhận ký với Mỹ Hiệp ước bất bình đẳng nhưng núp dưới tên gọi là Hiệp ước " Hòa bình và Thương mại" vào năm 1858. Theo nội dung của bản Hiệp ước thì ngoài hai cảng Shimoda và Hakodate, các cảng và các thành phố sau đây được mở cửa vào các mốc thời gian tương ứng theo trình tự như sau: Kanagawa ngày 04-7-1859, Nagasaki ngày 04-7-1859, Nigata ngày 01-01-1860 và Hyogo ngày 01-10-1863. Ngoài ra, tại các cảng và thành phố kể trên công dân Mỹ có quyền được cư trú và được hưởng quyền lãnh sự tài phán. Đối với Trung Quốc, ngay từ những năm 40 của thế kỷ XIX, Mỹ đã thiết lập mối quan hệ  với nước này thông qua việc ký kết Hiệp ước Vọng Hạ vào năm 1844. Thế nhưng mãi đến cuối thế kỷ XIX thì Mỹ mới có điều kiện để xâm nhập một cách mạnh mẽ vào Trung Quốc. Để có thể chen chân vào thị trường Trung Quốc, Mỹ đã sử dụng chính sách mở cửa nhằm duy trì “nguyên trạng” (status quo ante bellum) lãnh thổ Trung Quốc. Tháng 9 - 1899, Mỹ đã đưa ra chính sách mở cửa đối với Trung Quốc (The open door policy) với các nội dung như sau:
- Hàng hóa của các nước phải theo chế độ thuế quan của Trung Quốc và do Chính phủ Trung Quốc thu thuế.
- Không can thiệp vào lợi ích của các nước theo những điều đã ký.
- Tàu thuyền các nước đi lại trong thương cảng thuộc phạm vi các nước không được đánh thuế nhập khẩu cao hơn thuế suất qui định cho tàu thuyền của nước mình kể cả trên lĩnh vực xe lửa.
Với cách thức đó, trên thực tế Mỹ đã có được một vị thế ngang hàng với các cường quốc tư bản  Anh, Pháp trong việc phân chia phạm vi ảnh hưởng trên lãnh thổ Trung Quốc.
2. Đến việc thực hiện chiêu bài “ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc” và làm "trọng tài" trong các cuộc tranh chấp quốc tế
Một điều cần phải nhận thấy là khi nước Mỹ đủ sức để vươn ra bên ngoài thì cũng chính là lúc trên thế giới không còn "đất trống". Những năm cuối thế kỷ XIX  cho đến đầu thế kỷ XX, phần lớn các thị trường trên thế giới hầu như đã phân chia xong. Vì vậy, để có một chỗ đứng "dưới ánh nắng mặt trời", nước Mỹ không thể tiến hành các hoạt động bành trướng như các nước thực dân khác mà tìm cho mình một con đường đi riêng. Cho nên không thể phủ nhận điều mà nhà sử học Kenton Clymer nhận xét “Sự bành trướng của Mỹ trong những năm 1890 như một nỗ lực thôn tính thương mại hơn là lãnh thổ.... ngay cả trong trường hợp Philippin, động cơ kinh tế là chiếm ưu thế bởi đó là căn cứ thích hợp để từ đó thâm nhập vào thị trường được coi là rộng lớn của Trung Quốc, nơi mà Mỹ không hề có một ý muốn thiết lập một thuộc địa thực sự”(1). Chính sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong nước cộng với sức ép ngày càng gia tăng của các tập đoàn lũng đoạn và nguồn vốn khổng lồ mà Mỹ xuất khẩu ra thị trường thế giới đã buộc giới cầm quyền Mỹ quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài trong đó khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực Mỹ đặc biệt chú ý. Rõ ràng là, đã đến lúc Mỹ “tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm hàng công nghiệp và ngành tài chính ngân hàng. Nếu chiếm được đất đai, cũng không được sử dụng cho các mục đích nông nghiệp mà cho các căn cứ hải quân ở Hawaii, biển Caribbean và Philippines – những căn cứ có thể bảo vệ cho nền ngoại thương đang càng mở rộng này”(2).
Theo cách nhìn của các chiến lược gia Hoa Kỳ thì Philippin có vị trí chiến lược quan trọng và lợi hại ở Châu Á. Ngoài ra, Philippin còn là bàn đạp và là trạm trung chuyển cho tham vọng của Mỹ vào bất cứ nước nào ở khu vực Thái Bình Dương và Viễn Đông, đặc biệt là đối với Trung Quốc. Khống chế được Philippin là khống chế được con đường buôn bán thương mại trên biển và điều đặc biệt quan trọng là ngăn chặn được sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng của các nước đế quốc khác. Thượng nghị sỹ Beneredge đã phát biểu trong một bài diễn văn rằng, “Quần đảo Philippines mãi mãi là của chúng ta. Thị trường Trung Quốc rộng lớn lại ở đằng sau Philippines. Chúng ta không thể quên trách nhiệm của chúng ta đối với quần đảo đó, không thể bỏ qua cơ hội mở ra cho chúng ta tiền đồ ở phương Đông”(3).
Để thực hiện, ngưòi Mỹ bắt đầu tạo dựng lên một nguyên cớ "hợp pháp" để cho phép Mỹ có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Năm 1898, tại thủ đô Habana xảy ra một sự kiện chống đối ách thống trị của Tây Ban Nha. Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là William Mckinley lấy cớ là "bảo vệ kiều dân của mình", phái chiến hạm đến Habana. Khi chiến hạm do Tổng thống William Mckinley phái đến tiến gần vào cảng Habana thì bị trúng mìn chìm. Mỹ đổ lỗi cho Tây Ban Nha và phát động cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha.
Đối với Philippin, lúc đầu Mỹ lấy danh nghĩa là "bạn của Philiippin " giúp Philippin tiến hành cuộc đấu tranh chống thực dân Tây Ban Nha. Thế nhưng sau khi đánh bại thực dân Tây Ban Nha Mỹ lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Philippin (1899 - 1903) và biến Philippin thành thuộc địa của Mỹ.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong khi Mỹ đang tìm mọi cách củng cố quyền lực ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thì Nhật Bản cũng đang tìm cách mở rộng quyền lực của  mình ở khu vực này. Bằng chứng là Nhật Bản tiến hành cuộc chiến tranh với Nga (1904 - 1905) và không che giấu tham vọng tấn công xâm lược Philippin. Trước tình hình đó, thái độ của Mỹ đối với cuộc chiến tranh Nga - Nhật là ủng hộ Nhật Bản mặc dù về phía Mỹ cũng nhận thức ra được sự nguy hiểm từ Nhật nếu như Nhật chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Nga. Đấy là điều dễ hiểu khi mà Hội nghị Portsmouth lâm vào bế tắc thì Mỹ là nước đứng ra làm cầu nối và đóng vai trò trọng tài dàn xếp mối quan hệ giữa Nhật Bản với Nga. Đối với Hiệp ước Anh - Nhật đựơc ký kết năm 1902  đến năm 1905 được hiệu chỉnh cho phù hợp với tình hình mới thì Mỹ được coi là một thành viên bí mật của hiệp ước đó.
Theo sự thỏa thuận bí mật giữa Tổng thống Roosevelt với Nhật Bản thì về phía Nhật Bản yêu cầu có "một sự hiểu biết rất tốt về nhau hay một Hiệp ước trong thực tế, nếu không muốn nêu tên" giữa Nhật Bản, Anh và Mỹ. Đáp lại lời yêu cầu đó, Tổng thống Roosevelt cho rằng: “Ông cảm thấy tin tưởng, rằng không cần bất kỳ sự thỏa thuận nào thì nhân dân Mỹ cũng đã hoàn toàn tán thành với chính  sách của Liên hiệp Anh và Nhật Bản trong việc duy trì nền hòa bình chung tại Viễn Đông, rằng bất kỳ lúc nào có nhu cầu cần hành động thích đáng của Chính phủ Mỹ cùng với Nhật Bản và Liên hiệp Anh nhằm mục đích trên, Mỹ có thể thực hiện một cách rất tự tin nếu như họ coi hành động đó là hành động của Mỹ thực hiện theo trách nhiệm của bên tham gia hiệp ước”(4).
Với lời cam kết trên chúng ta có quyền khẳng định rằng Mỹ là thành viên bí mật của hiệp ước Anh – Nhật.  Minh chứng cho vấn đề này là việc Mỹ đã có những hành động hợp tác chặt chẽ với Liên hiệp Anh và Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật với trách nhiệm giúp đỡ Nhật Bản như những gì mà Anh đã dành cho Nhật Bản trước đó. Bởi hơn ai hết Mỹ nhận thức được sự nguy hiểm từ phía Nga nếu như liên minh Nga – Nhật được thiết lập thì quyền lợi cũng như vị thế của Mỹ ở Viễn Đông sẽ bị suy giảm.
Riêng đối với vấn đề Triều Tiên thì Mỹ bày tỏ sự ủng hộ đối với việc quân đội Nhật thiết lập quyền bá chủ ở Triều Tiên với một mức độ cần thiết vì theo Nhật Bản thì Triều Tiên là nguyên nhân trực tiếp để dẫn đến cuộc chiến tranh. Thế nhưng thực chất của vấn đề này không phải bắt nguồn từ Triều Tiên mà nguyên nhân trực tiếp là  bắt nguồn từ vấn đề kiểm soát Mãn Châu và nguyên nhân gián tiếp là sự kiểm soát của Trung Quốc. Rõ ràng là giữa Mỹ và Nhật Bản đã có một sự thỏa thuận ngầm khi Nhật Bản đưa ra một tuyên bố chính thức không can thiệp vào Philippine thì Mỹ cũng đồng ý để Nhật Bản rảnh tay ở Triều Tiên. Sự thỏa thuận này đã được tờ Kokumin, một tờ báo nguyệt san của Chính phủ Nhật Bản thừa nhận:
Trên thực tế đây là một hiệp ước giữa Nhật Bản, Anh và Mỹ. Chúng ta có thể tin rằng chỉ khi Anh đã trở thành đồng minh của chúng ta, thì Mỹ cũng trở thành một bên của hiệp ước này. Do các điều kiện đặc thù trong nước, Mỹ không thể ký kết bất kỳ một hiệp định mở nào, nhưng chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng, Mỹ luôn là đồng minh của chúng ta, mặc dù điều đó không được ghi trong một hiệp ước chính thức nào cả; chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của một nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới – Tổng thống Rosevelt, Mỹ sẽ giải quyết các vấn đề phương Đông của mình trong sự hợp tác với Nhật Bản và Liên hiệp Anh”(5).
3. Và cuối cùng là đóng vai trò “người quyết định” để giải quyết các vấn đề Châu Á theo cách riêng của người Mỹ
Khu vực Viễn Đông và Thái Bình Dương là khu vực gắn bó một cách thiết thực đến quyền lợi của Mỹ, thế nhưng kết quả của sự phân chia quyền lợi giữa các nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất thông qua Hội nghị Vecxai đã không hề đếm xỉa đến lợi ích của Mỹ ở khu vực này. Vì vậy, từ chỗ là quan hệ đồng minh với Mỹ, Anh và Nhật Bản đã trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Mỹ ở khu vực Viễn Đông và Thái Bình Dương.
Ngày 12-11- 1921, Mỹ đứng ra triệu tập Hội nghị Oasinhtơn với sự   tham gia của 9 nước bao gồm Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Ý, Hà Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Kết quả của Hội nghị Oasinhtơn được thể hiện qua ba vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Mỹ đã ký với Anh, Pháp và Nhật Bản “Hiệp ước không xâm lược ở Thái Bình Dương” (13-02-1921) nhằm tiếp tục duy trì khu vực này ở trong tình trạng nguyên trạng với mục đích là bảo vệ quyền lợi của Mỹ khi Mỹ chưa có điều kiện mở rộng phạm vi ảnh hưởng đối với khu vực rộng lớn và giàu có về tài nguyên thiên nhiên này. Đồng thời với điều đó, Mỹ đã buộc Anh và Nhật Bản thủ tiêu Hiệp ước liên minh Anh – Nhật được ký kết vào năm 1902.
Thứ hai, Mỹ buộc các nước Anh, Pháp, Nhật, Ý, Bồ Đào Nha và Hà Lan  công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” cũng như tạo cơ hội đồng đều” đối với tất cả các nước liên quan đến các hoạt động thương mại và công nghiệp trên lãnh thổ Trung Quốc.              
Với cách làm đó, trên thực tế, Mỹ đã hợp thức hóa được sự có mặt của Mỹ trên lãnh thổ Trung Quốc, điều mà Mỹ không đạt được trong Hội nghị Vecxai.
Thứ ba, Mỹ đã ký với các nước Anh, Pháp, Ý, Nhật Hiệp ước ( 06 – 02- 1922) về “hạn chế vũ trang và hải quân”,theo đó tỉ lệ hải quân của Mỹ được nâng lên ngang hàng với Anh (525000 tấn)  và vượt qua Nhật Bản (315000 tấn) đã buộc Anh từ bỏ nguyên tắc hạm đội hải quân của Anh bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại cũng như làm giảm sức mạnh trên biển của Nhật Bản.
Như vậy, Hội nghị Oasinhtơn đã giải quyết được những vấn đề vướng mắc trong quan hệ giữa Mỹ với Anh và Nhật Bản liên quan đến lợi ích của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương và Trung quốc. Với kết quả của Hội nghị Oasinhtơn, Mỹ đã khẳng định được vị thế của mình và thiết lập một khuôn khổ mới do Mỹ chi phối ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Nhìn lại chính sách Châu Á của Mỹ trong nửa sau những năm 50 của thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy chính sách đối ngoại của Mỹ được triển khai hết sức linh hoạt tùy theo từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử cụ thể thích ứng với từng nước cụ thể. Đối với Nhật Bản và Trung Quốc trong giai đoạn đầu là thông qua các Hiệp định thương mại và “mở cửa” để có được một chỗ đứng “dưới ánh nắng mặt trời” như các nước tư bản phương Tây khác. Đến giai đoạn thứ hai với danh nghĩa là nước tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (chống chủ nghĩa thực dân Anh giành độc lập cho Bắc Mỹ trong những năm cuối thế kỷ XVIII) nên Mỹ sử dụng lợi thế đó để gạt Tây Ban Nha ra khỏi Philippin và biến Philippin thành nơi che chắn và bảo vệ quyền lợi của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương. Đồng thời lợi dụng cuộc chiến tranh Nga – Nhật, Mỹ trở thành một nhân tố quan trọng đóng vai trò trung gian hòa giải giữa Nga và Nhật tại Portsmouth vào năm 1905. Và giai đoạn thứ ba, sau khi trở thành “một nhân tố không thể thiếu’ trong những vấn đề thế giới, nước Mỹ tự trao cho mình quyền chủ động giải quyết các vấn đề quốc tế theo cách riêng của Mỹ, ít nhất là ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Và đấy là cơ sở tạo nên đường lối đối ngoại kiểu Mỹ (American way) cho phép Mỹ vươn lên thành một siêu cường sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và “có quyền” can dự vào các vấn đề trọng yếu của toàn cầu.

NGUYỄN VĂN TẬN
(Phó giáo sư,  Tiến sĩ, Đại học Khoa học Huế)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Minh Chơng, Cuộc cách mạng Philippin (1896-1898) – một trăm năm nhìn lại, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 1998.
2. Eric Foner, Lịch sử mới của nước Mỹ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
3. Nguyễn Lê Nghị, Lê Minh Đức, Lịch sử nước Mỹ, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1994.
4. Nguyễn Huy Quí, Lịch sử cận đại Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
5. Jean Pierre Pichou, Văn minh Hoa Kỳ, Nxb. Thế giới,  Hà Nội, 1998.
6. Tiếp cận nghiên cứu Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà nội, 2000.
7. The Treat of Portsmouth 1905, ICAS Historical Document, http:// icasinc.org
8. Vĩnh Sính, Nhật Bản cận đại, Nxb. TP Hồ Chí Minh, 1991.






(1) Tiếp cận nghiên cứu Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế học, Hà nội, 2003, trang 75.
(2) Eric Foner, Lịch sử mới của nước M, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, trang 595.
(3) Cao Minh Chơng, Cuộc chiến tranh Philippin-Mỹ 1899- 1903, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội, 1998, trang32-33.
(4) Dẫn theo tài liệu lịch sử  nghiên cứu Mỹ - Hàn; Số1905-0729-DOC; Bản thỏa thuận Taft-Katsura ngày 29.7.1905.http;//www.icasinc.org /
(5) Tài liệu đã dẫn

QUAN HỆ NHẬT – TRUNG: HOÀ GIẢI VÀ THÁCH THỨC


QUAN HỆ NHẬT – TRUNG: HOÀ GIẢI VÀ THÁCH THỨC




Với chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Nhật Bản Abe vào tháng 4 năm 2006 và chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo trong tháng 4/2007, quan hệ Nhật-Trung có vẻ như đã được bình thường hóa sau một thời gian khá dài ở trong tình trạng “nóng về kinh tế, lạnh về chính trị”. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa hai nước cho đến nay, không chỉ có vấn đề chính trị mà còn đang ẩn chứa nhiều xung đột lợi ích về kinh tế, quân sự v.v...Vì vậy, tại sao hai nước lại phải hòa giải với nhau và liệu quan hệ giữa hai nước có thực sự phát triển một cách êm ấm hay không đang là câu hỏi chưa có câu trả lời rõ ràng. Do đó, bài viết này sẽ điểm lại quan hệ Nhật-Trung trong vài năm gần đây cũng như dự báo mối quan hệ này trong tương lai gần.
Có thể nói, bước vào thế kỉ 21, quan hệ Nhật-Trung đã ở trong tình trạng tồi tệ nhất kể từ sau khi hai nước kí kết Hiệp ước hòa bình hữu nghị vào năm 1978. Trong suốt mấy năm qua, cho dù người ta nghe thấy cả hai bên vẫn tuyên bố là đối tác quan trọng của nhau, muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ phát triển hơn nữa v.v... Nhưng, các hành động trong thực tế đều có vẻ đi ngược lại với những tuyên bố đó. Kể từ năm 2001 đến năm 2005, ngoại trừ một vài cuộc gặp cấp cao một cách “bắt buộc” giữa thủ tướng hai nước tại các hội nghị quốc tế ra, hai nước đã  không thực hiện trao đổi các chuyến thăm cao cấp lẫn nhau như trước đó. Lí do dẫn đến tình trạng này chủ yếu là do việc Thủ tướng Nhật Bản Koizumi đến viếng đền thờ Yasukuni-nơi có thờ cúng cả những tội phạm chiến tranh loại A trong Chiến tranh Thế giới II của Nhật Bản bất chấp lời cảnh báo từ phía Trung Quốc.
Sự câu nệ đối với vấn đề đến viếng một ngôi đền, hay nói đúng ra việc lợi dụng lá bài lịch sử của các nhà lãnh đạo cũng như của những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan của hai nước đã đẩy mối quan hệ xấu đi nhanh chóng. Có thể nói như vậy là bởi trong thời gian trước đó đã có những nhà lãnh đạo Nhật Bản tới viếng ngôi đền này nhưng phản ứng của Trung Quốc đâu có dữ dội như vậy? Còn với Thủ tướng Koizumi cho dù tuyên bố đến viếng ngôi đền với tư cách cá nhân để bày tỏ lòng kính trọng với tổ tiên thì cũng không cần thiết trong 4 năm cầm quyền năm nào cũng đến viếng ngôi đền này cho dù biết rằng sẽ gây ra phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao hai bên lại sử dụng “vấn đề lịch sử” để làm căng thẳng mối quan hệ vốn đang tốt đẹp? Phải chăng bởi đã đến lúc Trung Quốc đã xác lập được vai trò quan trọng trên trường quốc tế và phát triển đến giai đoạn không cần đến vốn ODA của Nhật Bản nữa hay đây vẫn chỉ là “kịch bản” để ép Nhật Bản phải cung cấp tiếp ODA. Hoặc đây chính là lá bài để kiềm chế Nhật Bản vươn lên trở thành một cường quốc đầy đủ cũng như làm cho lung lay liên minh Nhật-Mỹ. Trái lại, phải chăng Nhật Bản muốn trở thành “một nước bình thường” và không muốn bị Trung Quốc lấy vấn đề lịch sử làm lá bài mặc cả trong mọi vấn đề.
Có thể nói, việc Trung Quốc phê phán Nhật Bản dự định ngưng cung cấp ODA cho Trung Quốc, phớt lờ quan hệ với Nhật Bản trong khi thúc đẩy mạnh mẽ chính sách ngoại giao thân thiện với các nước láng giềng, công khai tuyên bố chống Nhật Bản trở thành nước ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc v.v...Trong khi đó, việc Thủ tướng Nhật Bản vẫn đến viếng đền Yasukuni, tiến hành các bước để sửa đổi hiến pháp, nâng Cục phòng vệ thành Bộ quốc phòng và tăng cường quan hệ an ninh với Mỹ là những câu trả lời  cho các câu hỏi trên.
Chính vì vậy, từ năm 2004 quan hệ Nhật-Trung ngày càng căng thẳng hơn. Điều này không chỉ thể hiện trong các tuyên bố và các hành động ngoại giao mà nó còn được thể hiện cả trong hành động thực tế. Trước hết vào tháng 5/2004,  phía Trung Quốc đã tiến hành thăm dò dầu mỏ tại khu vực còn đang tranh cãi về chủ quyền trên biển, tiếp đến Trung Quốc cho tàu ngầm xâm phạm lãnh hải Nhật Bản và cho máy bay bay vào vùng không phận hai bên đang tranh chấp. Để đáp trả, các bộ của Nhật Bản đã cho phép các công ty Nhật tiến hành thăm dò dầu mỏ tại khu vực tranh chấp và Chính phủ Nhật cũng tuyên bố sẽ sử dụng cả biện pháp quân sự để bảo vệ ngư dân và các giàn khoan trên biển nếu cần thiết. Nhưng có lẽ năm 2005 mới là năm quan hệ hai nước xấu nhất. Ngay từ đầu năm 2005, ở Trung Quốc đã có hơn 44 triệu người tham gia vào phong trào kí tên vào đơn trên mạng In-tơ-net phản đối Nhật Bản trở thành nước ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đến tháng 4/2005, khi Chính phủ Nhật cho phép các trường học nước này được sử dụng cuốn sách lịch sử mới thì ở nhiều nơi của Trung Quốc đã nổ ra các cuộc biểu tình chống Nhật Bản. Những người tham gia biểu tình còn sử dụng hành động bạo lực tấn công vào các nhà hàng, công ty thậm chí vào cả lãnh sự quán của Nhật Bản tại Trung Quốc. Lúc đầu, “Chính phủ Trung Quốc đã đồng tình thậm chí là cho phép những hành động bạo lực của các cuộc biểu tình([1])”. Nhưng sau đó, có lẽ chính bản thân Chính phủ Trung Quốc lo ngại rằng có những phần tử lợi dụng chính các cuộc biểu tình này để chống lại Trung Quốc. Và nếu như vậy sẽ lại xảy ra một sự kiện “Thiên An Môn” nữa, nên mới quyết định cấm tổ chức biểu tình tiếp. Đây quả thực là cú sốc lớn của Trung Quốc dành cho người Nhật Bản. Tuy nhiên, cuối tháng 5/2005 Trung Quốc còn gây ra sự kiện làm cho người Nhật cảm thấy “muối mặt” hơn. Đó là việc Trung Quốc đã đột ngột gọi Phó Thủ tướng Trung Quốc Ngô Nghi đang ở thăm Nhật Bản về nước, bất chấp đã có lịch hội đàm với Thủ tướng Koizumi. Đặc biệt, việc Trung Quốc gọi phó thủ tướng về nước mà không hề có lời xin lỗi phía Nhật Bản cũng như họ đưa ra lí do “bận công việc ở trong nước” nhưng ngay sau đó lại tiến hành thăm Mông Cổ đã làm cho người Nhật cảm thấy bị coi thường.
Nhưng rốt cuộc, có vẻ như cả hai bên đều đã nhận ra rằng, việc duy trì mối quan hệ căng thẳng như vậy chẳng những không giải quyết được vấn đề gì mà còn cản trở thực hiện chiến lược của mỗi bên cũng như ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của mình. Chẳng hạn với Nhật Bản, việc tiếp tục đến ngôi đền Yasukuni sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc lấy cớ để ngăn cản Nhật Bản trở thành ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hoặc, lôi kéo các nước ở Châu Á tạo thành một liên minh chống lại Nhật Bản v.v... Còn với Trung Quốc, nếu cứ bám lấy “vấn đề lịch sử” để chống Nhật chỉ càng làm cho Chính phủ Nhật, nhất là thế lực cực hữu ở Nhật càng có thái độ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, càng đẩy Nhật liên minh chặt chẽ hơn đối với Mỹ, can thiệp sâu hơn đối với vấn đề Đài Loan  hoặc dùng sức mạnh kinh tế để lôi kéo các nước chống lại Trung Quốc v.v... Chính vì vậy, bước sang năm 2006, cả hai bên đều tìm cách làm dịu đi mối quan hệ đang căng thẳng. Về phía Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã cho thành lập một tiểu ban đặc biệt nghiên cứu biện pháp cải thiện quan hệ với Nhật Bản, dùng lời lẽ phê phán nhẹ nhàng hơn đối với vấn đề viếng đền thờ Yasukuni cũng như kêu gọi Chính phủ Nhật cải thiện quan hệ song phương v.v... Về phía Nhật Bản, ngoài các đoàn đại biểu của các đảng phái và các tổ chức kinh tế sang thăm Trung Quốc để tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc ra, bản thân Chính phủ Nhật Bản cũng đã tiến hành bước đi cụ thể nhằm cải thiện quan hệ giữa hai nước. Điều này được thể hiện rõ trong việc Ông Shinzo Abe một người thuộc phái có đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc khi trở thành thủ tướng đã chọn Trung Quốc là nước đến thăm đầu tiên của ông.
Có thể nói, việc chọn không phải Mỹ là nước tới thăm đầu tiên khi trở thành thủ tướng là bước đi dũng cảm của nhà lãnh đạo Nhật Bản. Đúng như một học giả Trung Quốc nhận xét: “ Việc Thủ tướng Abe chọn Trung Quốc là điểm đến đầu tiên đã không chỉ mở ra tiền lệ trong lịch sử ngoại giao Nhật Bản sau chiến tranh mà còn gây chấn động trong đảng cầm quyền và đảng đối lập ở nước này”([2]). Do vậy, đây dù là sự “xuống thang” hay là “chiến thuật” của Nhật Bản đi chăng nữa thì, với  chuyến thăm này, Thủ tướng Abe cũng đã làm “tan băng” trong quan hệ giữa hai nước. Sau các cuộc hội đàm, hai bên đã đạt được nhiều thỏa thuận quan trọng trong việc cải thiện và phát triển quan hệ song phương, vấn đề khu vực và vấn đề cải cách Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc v.v... Đặc biệt, hai bên đã đạt được thỏa thuận trên nguyên tắc việc “xây dựng mối quan hệ cùng có lợi dựa trên lợi ích chiến lược chung” do Thủ tướng Abe đề xuất. Liên quan đến vấn đề “lịch sử”, hai nước còn nhất trí thành lập “nhóm nghiên cứu chung lịch sử Trung-Nhật” do các giáo sư, các nhà nghiên cứu của các trường Đại học và Viện nghiên cứu của hai nước đảm nhiệm. Ngoài ra, Thủ tướng Ôn Gia Bảo còn đưa ra 5 đề nghị để thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Đây có lẽ là  một điểm thú vị khi nghiên cứu quan hệ giữa hai nước kể từ khi bình thường hóa ngoại giao. Đó là vì, từ năm 1972 đến nay, quan hệ Nhật-Trung đã không ít lần xảy ra sóng gió mà nguyên nhân chủ yếu là do phía Nhật Bản có những hành động liên quan đến lịch sử. Mỗi lần như vậy, phía Trung Quốc đều phản ứng gay gắt khiến cho quan hệ hai nước trở lên căng thẳng nhưng sau đó bao giờ Trung Quốc cũng lại là phía chủ động đưa ra những kiến nghị, những nguyên tắc để bình thường hóa và thúc đẩy quan hệ hai nước. Có thể nói đây là chiến thuật “vừa đấm vừa xoa” của Trung Quốc, nhưng qua đây cũng cho thấy “nhân tố” Nhật Bản là không thể thiếu đối với sự phát triển của Trung Quốc.
Sau chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Abe, quan hệ Nhật-Trung nhất là quan hệ chính trị đã trở lên nồng ấm hơn nhưng, có lẽ chỉ tới khi Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tiến hành thăm Nhật Bản vào tháng 4/2007 thì quan hệ giữa hai nước mới thực sự “tan băng”. Bởi đây là chuyến thăm Nhật Bản đầu tiên của nhà lãnh đạo cao cấp Trung Quốc sau đúng 7 năm. Trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Ôn Gia Bảo, hai bên đã đạt được những thỏa thuận quan trọng nhằm cụ thể hóa những nội dung để xây dựng “mối quan hệ cùng có lợi dựa trên lợi ích chiến lược chung”. Những thỏa thuận này đã được đề cập đến trong bản Thông cáo báo chí chung với một số điểm chính dưới đây:
a- Giao lưu cấp Thủ tướng, đối thoại kinh tế cấp cao Nhật-Trung, đối thoại giữa Bộ ngoại giao hai nước, giao lưu phòng vệ, tăng cường giao lưu giữa nhân dân và thanh thiếu niên hai nước, giao lưu văn hóa.
b- Tăng cường hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực năng lượng, môi trường, nông nghiệp, y tế, tài chính v.v...
c- Hợp tác trong khu vực và cộng đồng quốc tế như cải cách liên hiệp quốc, cuộc đàm phán 6 bên ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
d- Giao lưu đầu tư.
e- Đạt được nhận thức chung về xử lí vấn đề Biển Đông
Riêng về vấn đề hợp tác kinh tế, cuối cùng Trung Quốc cũng đã “chấp nhận” việc Nhật Bản chấm dứt viện trợ ODA cho Trung Quốc vào năm 2008. Ngoài ra, phía Nhật Bản còn đồng ý đẩy nhanh quá trình xử lí số vũ khí hóa học (được xác định khoảng 400.000 quả đạn) mà quân đội Nhật Bản đã bỏ lại ở Trung Quốc sau Chiến tranh Thế giới II[3].
Tuy nhiên, cũng không ít ý kiến nhấn mạnh đến những vấn đề đáng chú ý khác trong chuyến thăm Nhật Bản lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Thứ nhất, đó là sau hơn 20 năm mới lại có một  lãnh đạo của Trung Quốc đọc bài diễn văn trước quốc hội Nhật Bản. Trong bài diễn văn, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã cảm ơn chính phủ và nhân dân Nhật Bản đã viện trợ kinh tế và giúp đỡ công cuộc xây dựng và hiện đại hóa của Trung Quốc. Song, cũng không quên nhắc lại lịch sử quan hệ “từ cổ chí kim” để nhắc nhở lại công ơn của Trung Quốc đối với Nhật Bản cũng như tội ác của Nhật Bản đối với Trung Quốc. Thứ hai, trong suốt thời gian ở thăm Nhật Bản, Thủ tướng Ôn Gia Bảo không một lần nhắc đến vấn đề đền thờ Yasukuni. Đây là hiện tượng chưa từng có trong những chuyến viếng thăm Nhật Bản của lãnh đạo Trung Quốc trong những năm gần đây. Ngoài ra, ông cũng không nhắc đến vấn đề “nô lệ tình dục” và tranh chấp chủ quyền giữa hai nước đối với đảo Senkaku, đây là điều “làm mất đi nguyên tắc lớn trong các chuyến thăm của lãnh đạo Trung Quốc tới Nhật Bản trong thời gian gần đây”([4]).
Sự phụ thuộc lẫn nhau, ý đồ chiến lược của mỗi bên đã buộc chính phủ hai nước đều phải xuống thang với nhau và đi đến thỏa thuận “xây dựng mối quan hệ cùng có lợi dựa trên lợi ích chiến lược chung”. Song, mối quan hệ giữa hai nước có thuận chèo xuôi mái hay không? Duy trì tình hữu nghị được bao lâu vẫn còn là câu trả lời còn bỏ ngỏ vì giữa hai nước vẫn còn nhiều trở ngại khó giải quyết, thậm chí có thể nói không thể giải quyết:
Thứ nhất là vấn đề lịch sử: Sau một thời gian đầy sóng gió, quan hệ giữa hai nước có vẻ như đã bình yên trở lại bởi một loạt động thái của lãnh đạo hai nước dựa trên quan điểm “lấy lịch sử làm bài học, hướng tới tương lai”. Đó là thành lập “nhóm nghiên cứu chung lịch sử Trung-Nhật”, lãnh đạo Trung Quốc cố không nhắc đến ngôi đền Yasukuni và những vấn đề liên quan khác còn Thủ tướng Nhật Bản kiềm chế không đến viếng ngôi đền Yasukuni v.v...Tuy nhiên để thống nhất quan điểm lịch sử và duy trì tình trạng như hiện nay có vẻ không đơn giản. Lí do là:
- Nhóm nghiên cứu chung lịch sử khó có thể đi đến thống nhất quan điểm về các sự kiện lịch sử bởi hai bên có nhận thức lịch sử khác nhau, có chế độ chính trị khác nhau và họ mang tình cảm đối với dân tộc của họ. Cho nên, vấn đề “lịch sử” mãi mãi vẫn chỉ là “vấn đề lịch sử”.
- Cho dù lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu nhưng, Thủ tướng Nhật Bản vẫn chưa tuyên bố dứt khoát là có đến viếng ngôi đền Yasukuni nữa hay không. Điều này khiến cho các học giả Trung Quốc gọi là “chiến thuật mơ hồ” đối với vấn đề lịch sử, thậm chí cho rằng “Dường như ông Shinto Abe đang sử dụng vấn đề này như một con bài cân bằng trong quan hệ với Trung Quốc và củng cố uy tín chính trị trong nước Nhật Bản”([5]).
- Hiện nay, cùng với kinh tế phát triển, vị thế của Trung Quốc đang ngày càng nâng cao trên trường quốc tế thì sự trỗi dậy lòng tự hào “Trung Hoa” của người dân càng cao. Do đó, những vụ Lư Cầu Kiều, vụ thảm sát Nam Kinh v.v...sẽ càng khứa sâu vào nỗi đau dân tộc, rất khó xóa đi. Việc không ít lần người dân Trung Quốc tiến hành các hoạt động để tố cáo tội ác của Nhật và biểu tình chống Nhật trong đó, đỉnh cao là cuộc biểu tình chống Nhật năm 2005 là những minh chứng cụ thể. Trái lại, sau 35 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tình cảm của người dân Nhật Bản đối với Trung Quốc cũng suy giảm nghiêm trọng. Người Nhật không chống lại Trung Quốc theo cách làm của người Trung Quốc nhưng tình cảm của họ đối với Trung Quốc được thể hiện rõ nét qua các cuộc điều tra dư luận trong nước. Theo cuộc điều tra dư luận do Hãng điều tra dư luận Chuyo tiến hành tháng 2 năm 2006 thì, chỉ có 6,9% số người trả lời cho rằng  quan hệ Nhật-Trung hiện nay tốt, có đến 66,7% trả lời không tốt. Đối với câu hỏi “cảm giác thân thiện đối với Trung Quốc” thì tỷ lệ số trả lời “có” cũng giảm mạnh. Nếu tại cuộc điều tra được tiến hành năm 1978, có 62,1% số người được hỏi trả lời là “thân thiện với Trung Quốc” và 25,6% trả lời “không thân thiện” thì, đến năm 2005 các con số tương ứng là 32,4% và 63,4%. Có nghĩa là vị trí giữa các tỉ lệ này đã đổi chỗ cho nhau. Hơn nữa, hiện nay ở Nhật Bản vẫn tồn tại “thuyết đe dọa của Trung Quốc”. Do vậy, mối hiềm khích dân tộc sẽ là một trong những nhân tố gây cản trở lớn nhất để chính phủ hai nước thực hiện chính sách “hữu nghị đời đời bền vững”.
Thứ 2 là vấn đề Đài Loan: Cũng giống như Mỹ, cho đến nay Chính phủ Nhật Bản vẫn tuyên bố ủng hộ Chính sách “một nước Trung Quốc” nhưng cũng chưa bao giờ cam kết bằng văn bản ngoại giao là sẽ “không ủng hộ chủ trương Đài Loan độc lập”. Ngoài ra, Nhật Bản vẫn kiên quyết phản đối việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Đài Loan như trong “Luật chống li khai” của Trung Quốc và ngày càng có nhiều tuyên bố và hành động nhằm bảo vệ Đài Loan. Chẳng hạn, trước tình hình Trung Quốc ngày càng bố trí nhiều quân đội và các loại vũ khí tiên tiến nhằm vào Đài Loan, Nhật Bản cùng Mỹ ra tuyên bố bảo vệ hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan. Điều này có nghĩa là nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan thì Mỹ và Nhật Bản sẽ nhảy vào can thiệp. Hơn nữa, Nhật Bản vẫn để cho các quan chức Nhật Bản thăm Đài Loan cũng như cho phép các quan chức Đài Loan sang Nhật. Ngay đầu tháng 6 năm 2007, khi mà quan hệ hai nước mới hòa dịu lại, Nhật Bản không những cho phép Lí Đăng Huy- người bị phía Trung Quốc coi là nhân vật cầm đầu thế lực độc lập ở Đài Loan sang thăm mà còn cho phép ông ta đến viếng ngôi đền Yasukuni đầy tranh cãi.
Như vậy, đối với một bên sẽ giải quyết bằng mọi giá và một bên phản đối đến cùng mọi hành động sử dụng vũ lực, “vấn đề Đài Loan” sẽ còn là nhân tố tác động tiêu cực đến quan hệ hai nước. Tuy nhiên, có thể “Đài Loan” còn là một “lá bài” để cả hai bên mặc cả với nhau chẳng hạn như đối với vấn đề trở thành Ủy viên thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc của Nhật Bản.
Thứ ba là tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên: Mặc dù hiện nay cả hai bên đều nhất trí tìm cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, nhưng đây là vấn đề khó nhượng bộ nhau bởi nó liên quan đến vấn đề chủ quyền, năng lượng và an ninh quốc gia. Đối với quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là đảo Điếu ngư) đang nằm trong kiểm soát của Nhật Bản nên phía Nhật Bản chắc chắn sẽ không chấp nhận mọi đề xuất của Trung Quốc liên quan đến việc chia xẻ chủ quyền. Ngược lại, với mục đích xây dựng chiến lược phòng thủ trên biển từ xa, Trung Quốc cũng không chấp nhận quần đảo này thuộc của riêng Nhật Bản.
Ngay cả tranh chấp về vấn đề khai thác năng lượng ở ngoài khơi biển Hoa Đông cũng chưa giải quyết được cho dù đã qua 9 vòng đàm phán. Mặc dù hai bên đồng ý giải quyết tranh chấp nguồn năng lượng dưới đáy biền bằng việc cùng khai thác tại đường trung gian trên biển. Nhưng việc xác định đường trung gian chạy qua khu đặc quyền kinh tế chồng lấn lên nhau của hai bên vẫn chưa được rõ ràng. Hơn nữa, Nhật Bản vẫn e ngại việc Trung Quốc tiến hành khai thác khí đốt ở gần đường trung gian sẽ hút hết nguồn khí nằm trong khu vực thuộc quyền kiểm soát của Nhật Bản. Do đó, cho dù đạt được thỏa thuận cùng khai thác nhưng, khai thác ở chỗ nào mới là cốt lõi của vấn đề.
Thứ tư là vấn đề an ninh, quốc phòng: Đây cũng là một trong những thử thách khó khăn để phát triển quan hệ Nhật-Trung. Trong những năm gần, đây hai nước luôn có những tuyên bố bày tỏ lo ngại về chính sách quân sự cũng như việc thành lập những liên minh mới để kiềm chế lẫn nhau. Cho dù hai bên đều bác bỏ những lời cáo buộc của nhau nhưng trên thực tế, chính sách và hành động của hai nước lại chứng minh rõ ràng cho những cáo buộc đó. Đó là:
Về phía Trung Quốc: Có thể nói cho đến nay Trung Quốc đã và đang thực hiện chiến lược an ninh quốc gia hết sức tinh vi và đa dạng. Nó được thể hiện trên hai khía cạnh là: xây dựng an ninh đối ngoại và hiện đại hóa quốc phòng. Về an ninh đối ngoại, Trung Quốc tìm cách củng cố an ninh của mình bằng việc vừa tham gia vào các tổ chức trong khu vực, vừa thắt chặt quan hệ song phương với từng nước trong tổ chức đó, nhất là các nước liên quan nhiều đến an ninh của Trung Quốc. Điều này được thể hiện rõ trong việc thành lập và nâng cao vai trò của Tổ chức hợp tác Thượng Hải như hiện nay, việc tham gia hợp tác đầy đủ trên các lĩnh vực với tổ chức ASEAN, duy trì mối quan hệ chiến lược với Pakistan, CHDCND Triều Tiên v.v... Tất nhiên, chiến lược này của Trung Quốc còn nhằm làm suy yếu vai trò của Nhật Bản tại các khu vực này.  Riêng phía đông, Trung Quốc bị Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và những căn cứ quân sự của Mỹ ngăn chặn. Vì vậy, một mặt Trung Quốc lấy vấn đề lịch sử để lôi kéo Hàn Quốc vào liên minh chống Nhật, mặt khác Trung Quốc đang ra sức lấn chiếm các đảo trong khu vực biển Đông và hiện đại hóa quốc phòng nhất là lực lượng hải quân để tạo ra phòng tuyến ngăn chặn từ xa.
Về hiện đại hóa quốc phòng, trong 18 năm liên tiếp ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng hàng năm ở hai con số. Tháng 3/2007, Đại hội đại biểu nhân dân toàn Trung Quốc đã thông qua ngân sách quân sự năm tài chính 2007 là khoảng 45 tỉ USD, tăng 17,8% so với năm tài chính trước. Nhưng theo tính toán của các chuyên gia quân sự Mỹ thì ngân sách quốc phòng của Trung Quốc trong năm nay ở vào khoảng từ 80 đến 120 tỷ USD. Với khoản ngân sách lớn như thế này, Trung Quốc sẽ phát triển được nhiều tên lửa tầm xa, lực lượng tàu ngầm và có khả năng có được tàu sân bay. Như vậy, Nhật Bản luôn nằm trong tầm ngắm của vũ khí của Trung Quốc. Đó là lí do tại sao Nhật Bản luôn yêu cầu Trung Quốc phải minh bạch ngân sách quân sự.
Để đối phó lại Trung Quốc, Nhật Bản cũng không chịu ngồi yên. Trong thời gian qua, Nhật Bản cũng đang thực hiện chiến lược an ninh gây lo ngại cho Trung Quốc.
Thứ nhất, Nhật Bản thực hiện chính sách ngày càng mở rộng liên minh quân sự với Mỹ như: mở rộng phạm vi can thiệp trong Hiệp ước bảo đảm an ninh Nhật-Mỹ; cùng Mỹ nghiên cứu và sản xuất những loại vũ khí tiên tiến, để Mỹ triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa trên đất Nhật Bản v.v...
Thứ hai, Nhật Bản đã nâng cấp “Cục phòng vệ Nhật Bản” lên thành Bộ quốc phòng, điều này có nghĩa là vai trò của quân đội Nhật Bản sẽ được mở rộng hơn. Ngoài ra, Nhật Bản đang tích cực xúc tiến sửa đổi Bản hiến pháp năm 1946, đặc biệt là sửa điều 9 vốn được xem như là tượng trưng cho chính sách hòa bình của Nhật Bản.
Thứ ba, tìm cách mở rộng thêm hệ thống an ninh mới. Để bảo đảm an ninh và quyền lợi ở khu vực Đông Nam và Nam Á, Nhật Bản cũng đang thực hiện chính sách đối ngoại mạnh mẽ và năng động hơn. Ngoài việc tăng cường quan hệ với tổ chức ASEAN và các nước thành viên trong tổ chức ra, Nhật Bản đã và đang tìm cách thành lập thêm hệ thống an ninh mới ở khu vực này. Chẳng hạn, Nhật Bản đã kí kết Hiệp ước an ninh với Ôxtralia vào tháng 3/2007 và đang cùng Mỹ, Ôxtralia và Ấn Độ bàn bạc thành lập cơ chế đối thoại chiến lược. Rõ ràng điều này sẽ tạo ra một thế kiềm chế Trung Quốc nên báo chí Trung Quốc đã phê phán đây là tổ chức NATO ở Châu Á.
Thứ năm là vấn đề Nhật Bản trở thành Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Thoáng nhìn thì có vẻ như Trung Quốc đang nắm trong tay lá bài này để mặc cả với Nhật Bản nhưng, thực ra  đây cũng lại là thách thức lớn đối với Trung Quốc. Chắc chắn Trung Quốc không bao giờ muốn Nhật Bản trở thành nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ để có thể trở thành một cường quốc đầy đủ. Việc Trung Quốc lấy cớ Nhật Bản “không thức tỉnh đối với bài học lịch sử” để ngăn cản chính là vì mục đích đó. Nhưng, có vẻ hiện nay Nhật Bản đang “nhún mình” đối với Trung Quốc bằng cách không khuấy lên vấn đề lịch sử. Vì vậy, Trung Quốc sẽ mất đi lá bài của mình. Để tiếp tục ngăn cản Nhật Bản, Trung Quốc sẽ buộc phải dùng đến những lí do khác. Nhưng nếu làm như vậy sẽ làm cho thế lực cực hữu (thậm chí cả người dân) ở Nhật Bản có lí do chống lại Trung Quốc. Chính vì vậy, Trung Quốc chính là người đứng trước ngã ba của sự lựa chọn chính sách đối với Nhật Bản và mọi động thái của Trung Quốc chắc chắn sẽ tác động đến quan hệ hai nước.
Tóm lại, sau nhiều năm bị đóng băng, quan hệ Nhật-Trung đã ấm trở lại. Bởi sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế hiện nay đã quá lớn cũng như những toan tính chiến lược chắc chắn sẽ buộc hai nước cùng phải tạm thời gác lại những bất đồng cùng nhau xây dựng mối “quan hệ hữu nghị” đời đời. Do đó, trong thời gian tới quan hệ hai nước vẫn sẽ phát triển theo chiều hướng tích cực. Quan hệ hai nước sẽ phát triển sâu hơn và rộng hơn trong lĩnh vực kinh tế, năng lượng, bảo vệ môi trường, giao lưu nhân sự v.v... Tuy nhiên, những trở ngại đề cập ở trên, nhất là khi những chiến lược của mỗi bên chủ yếu nhằm cản trở nhau sẽ ảnh hưởng mạnh đến quan hệ hai nước. Đặc biệt tôi cho rằng, trong những trở ngại của quan hệ hai nước, thì trở ngại về “lòng tự hào và sự tổn thương dân tộc” sẽ khó điều chỉnh nhất và có tính quyết định nhiều nhất đến quan hệ Nhật-Trung trong tương lai.

NGUYỄN THANH BÌNH
(Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Vĩnh Long, “Đông Nam Á trong quan hệ Mỹ – Nhật - Trung và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam”. Tạp chí nghiên cứu & thảo luận; số 8 tháng 7/2006.
2. Những kiến nghị cho quan hệ Nhật-Trung từ nay về sau, Ủy ban phát triển kinh tế Nhật Bản. Tháng 4/2006.
3. Báo điện tử Vietnamnet
4. Tài liệu tham khảo đặc biệt.
5. Tin trên trang Web của Bộ ngoại giao Nhật Bản: www.mofa.go.jp




([1]) Joseph S.Nye “Tam giác chiến lược Đông Á”, đăng trên WWW.lanhdao.net ngày 30/10/2006.
([2]) Vương San, “Những điều chỉnh trong chính sách đối với Trung Quốc của Shinzo Abe và quan hệ Trung-Nhật”; Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 15/4/2007.
([3]) www.mofa.go.jp/mofaj/area/china/visit/0704_kh.html
([4]) Tài liệu tham khảo đặc biệt; ngày 11/6/2007.
([5]) Tài liệu tham khảo đặc biệt; 13/4/2007

MỘT SỐ LUẬN BÀN VỀ MÔ HÌNH THỐNG NHẤT BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN


MỘT SỐ LUẬN BÀN VỀ MÔ HÌNH THỐNG NHẤT BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN




Khi luận bàn về mô hình thống nhất hai miền Triều Tiên người ta thường nghĩ đến trường hợp của nước Đức thống nhất 10/1990. Nhưng nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mô hình thống nhất kiểu Đức không áp dụng được cho Bán đảo Triều Tiên do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử chiến tranh, các điều kiện về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội … mà cụ thể là: Chiến tranh Triều tiên (1950-1953), Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên có lực lượng quân sự hùng mạnh và thậm chí có cả vũ khí hạt nhân, người dân CHDCND Triều Tiên ít được tiếp cận với các phương tiện thông tin từ bên ngoài, dân số Hàn Quốc chỉ gấp đôi dân số CHDCND Triều Tiên trong khi dân số Tây Đức gấp những 3 lần dân số Đông Đức và Hàn Quốc cũng chưa đủ mạnh để có thể đảm bảo nâng mức sống của CHDCND Triều Tiên lên ngang bằng với Hàn Quốc trong vòng 5 năm, vv…
Vì vậy, thống nhất Triều Tiên sẽ khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Tuy nhiên, kinh nghiệm thống nhất của nước Đức cũng giúp Triều Tiên học hỏi được rất nhiều điều và lường trước được những hạn chế (khó khăn) nảy sinh khi thống nhất hai miền.
Hơn nữa, quá trình thống nhất phải xuất phát từ nguyện vọng và sự hợp tác của cả hai bên, chứ không phải là bên nào áp đặt bên nào và đồng thời cũng cần có một sự thay đổi bước ngoặt trong giới lãnh đạo của CHDCND Triều Tiên. Hàn Quốc với sức mạnh kinh tế hùng hậu và dân số đông hơn nên là người tiên phong, nhưng chỉ nên mách bảo cho CHDCND Triều Tiên về cơ chế thị trường chứ không nên áp đặt nó. Thống nhất cần phải được thực hiện từ từ và từng bước, nó có thể sẽ mất hàng thế hệ kể từ thời điểm chuẩn bị sáp nhập cho tới khi trở thành một thực thể kinh tế thống nhất. Và các quan điểm chính trị của CHDCND Triều Tiên sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến Hàn Quốc theo cách mà nó đã không thực sự diễn ra ở nước Đức. Một trong những bài học mà Hàn Quốc có thể học được từ nước Đức là, không nên thống nhất hoàn toàn chừng nào mà CHDCND Triều Tiên còn chưa chuẩn bị cho việc hình thành một nền kinh tế thị trường thực sự.
Dưới hệ thống chính trị năng động mới, trong bối cảnh toàn cầu thay đổi với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, hai miền Triều Tiên cần phải phát triển những cách thức và nguyên tắc mới để điều tiết quan hệ của chúng. Bởi vì hai bên có sự khác biệt về thể chế và quan niệm khác nhau về những đòi hỏi của tình hình mới. Mỗi bên cần phải phát triển chiến lược và chính sách riêng của mình trong sự phối hợp với bên kia, và đồng thời tạo ra một sự điều chỉnh hợp lý và có lợi cho cả hai bên. Vì vậy, nên thực hiện hội nhập từng bước hơn là thống nhất hai miền ngay lập tức.
Để có được một nước Triều Tiên độc lập và thống nhất, trước tiên cần phải bàn đến hai vấn đề. Thứ nhất là,cách thức và chiến lược thống nhất. Thứ hai là, cần một mô hình thống nhất thích hợp cho một nhà nước thống nhất trong tương lai và công cụ để biến nó thành hiện thực.
Cho đến nay các luận bàn về thống nhất Bán đảo Triều Tiền đều tập trung vào quá trình đi đến thống nhất. Những quan tâm chủ yếu trong các cuộc luận bàn về quá trình đi tới thống nhất đó là:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho thống nhất bằng cách cải thiện quan hệ với các nước láng giềng của Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên (thoả thuận hợp tác khu vực và nhận diện lẫn nhau);
- Các cách tiếp cận thống nhất (theo chế độ Liên bang, theo Thuyết chức năng và Thuyết chức năng mới);
- Các cách làm giảm căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên (ví dụ: hội nhập hay cùng tồn tại hai miền); trao đổi và hợp tác liên Triều;
- Thay đổi, cải cách về chính trị và kinh tế ở cả hai miền.
Tuy nhiên các nghiên cứu này vẫn chưa tìm ra được một mô hình thích hợp và khả thi nhất cho việc thống nhất hai miền trong hiện tại và tương lai.
Khái niệm thống nhất và hội nhập:
Sau đây chúng ta thử xem xét hai khái niệm liên quan đến thống nhất, đó là: thống nhất và hội nhập. Thống nhất chính trị là một quá trình sáp nhập các hệ thống chính trị riêng rẽ thành một hệ thống chính trị duy nhất. Hội nhập xã hội là một quá trình hoá giải những xung đột đang diễn ra hoặc tiềm ẩn bắt nguồn từ những khác biệt hay những khoảng cách về văn hoá. Khái niệm thứ nhất liên quan đến việc xây dựng một nhà nước trong khi khái niệm thứ hai liên quan đến việc xây dựng một dân tộc hay một quốc gia. Vì vậy, một nhà nước bị chia cắt có thể sáp nhập về mặt chính trị mà chưa hội nhập về mặt xã hội. Chẳng hạn như, Lebanon và Nigeria đã đạt được một mức độ cao về xây dựng nhà nước nhưng mức độ hội nhập dân tộc (quốc gia) còn thấp của nó đã dẫn đến những xung đột nội bộ gay gắt (nội chiến). Một bài học đắt giá có thể rút ra từ cuộc nội chiến ở Yemen do việc sáp nhập chính trị nóng vội gây ra. Thống nhất chính trị mà thiếu tái hội nhập xã hội chính là nguyên nhân gây xung đột chia rẽ. Trường hợp thống nhất nước Đức năm 1989-1990 cho chúng ta thấy việc sáp nhập hai đảng phái và hai nền văn hoá chính trị là khó khăn như thế nào. Có thể rút ra một điều rằng, ở nước Đức sự thống nhất quốc gia có lẽ chỉ đạt được về mặt chính trị còn sự thống nhất toàn diện thực sự về mọi mặt thì còn lâu mới đạt được.
Dù sao thì chúng ta cũng thấy rằng, trong những năm đầu của thập niên 1990, hai miền Nam-Bắc Triều Tiên đã đạt được một bước tiến mới trong quá trình hoà giải. Quan hệ mới giữa hai miền trong thập niên 1990 đã thể hiện một bước đột phá trong quan hệ liên Triều; nó phản ánh việc công nhận sự tồn tại thể chế của nhau trong sự thay đổi của môi trường chính trị thế giới. Bước đột phá mới trong giai đoạn 1991-1992 đó là, hai miền đã nhận thức được rằng cùng tồn tại là điều kiện tiên quyết để duy trì hoà bình và ổn định trong kỷ nguyên sau Chiến tranh Lạnh. Hai bên cũng đã nhận ra một chân lý, đó là tái thống nhất Triều Tiên sẽ không trở thành hiện thực (ngoại trừ việc xử dụng vũ trang và nổi loạn) nếu không thiết lập một khung khổ cho việc cùng tồn tại hoà bình và thúc đẩy trao đổi và hợp tác giữa hai miền. Những nỗ lực bình thường hoá quan hệ thù địch trong quan hệ liên Triều đã đem lại kết quả qua việc ký kết hai hiệp định lịch sử vào 12/1991, Không quá khích; Hợp tác và Trao đổi (còn gọi là Hiệp định Cơ sở) và một Tuyên bố Chung về Phi hạt nhân hoá trên Bán đảo Triều Tiên. Kết quả mà các hiệp định này đem lại là khả năng và triển vọng hoà bình và tái thống nhất Triều Tiên đã được cải thiện một cách đáng kể, mặc dù chương trình vũ khí hạt nhân khả nghi của CHDCND Triều Tiên - hiện đang được đặt dưới sự thanh tra giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), đang đe doạ an ninh trên Bán đảo Triều Tiên.
Thách thức trong kỷ nguyên sau Chiến tranh Lạnh đó là thay đổi mối quan hệ liên Triều, chuyển từ đối đầu sang cùng tồn tại trong một nền hoà bình và trật tự. Nhiệm vụ thể chế hoá quá trình hoà bình trên Bán đảo Triều Tiên sẽ mất nhiều thời gian. Tranh luận về vấn đề hạt nhân cho thấy khó khăn như thế nào trong việc xoá bỏ những nghi ngờ và thù địch giữa hai bên.
Dù sao thì, bằng cách mở ra một kênh đối thoại ở cấp chính phủ, hai miền đã nhận thức được rằng nên dựa vào ngoại giao và đối thoại hơn là dựa vào sự ép buộc và đe doạ chiến tranh. Nói cách khác là, hai miền đã quyết định “chơi trò chơi” ngoại giao và đàm phán hơn là “chơi trò chơi” chiến tranh và xung đột. Kết quả là, triển vọng thể chế hoá quá trình hoà bình trên Bán đảo Triều Tiên đã được cải thiện một cách đáng kể.
Seoul cho rằng, tái thống nhất Triều Tiên chỉ có thể đạt được một cách dần dần từng bước bởi vì có rất nhiều khác biệt về kinh tế và hệ tư tưởng giữa hai miền. Vì vậy, nhiệm vụ trước tiên là tạo ra một khung cảnh hoà bình ổn định ở cả hai bên Seoul và Bình Nhưỡng và đồng thời làm cho Washington, Bắc Kinh và Tokyo tin tưởng vào một nền hoà bình ổn định trên Bán đảo Triều Tiên. Sự mất niềm tin sau Chiến tranh Triều Tiên (1950-53) đã mách bảo một điều rằng cần phải thực hiện “hiệp ước không quá khích” trước khi dự định thực hiện bất kể một thoả thuận nghiêm túc nào về thống nhất hoà bình. Vì vậy, đối với Seoul, cùng tồn tại hoà bình cần phải được coi như là bước khởi đầu quan trọng nhất. Ngược lại, CHDCND Triều Tiên lại cho rằng, cần thực hiện thống nhất theo kiểu “toàn bộ và một lần”, chia cắt càng kéo dài thì càng khó thực hiện thống nhất, và việc cùng nhận diện sự tồn tại riêng biệt của nhau hiện nay sẽ càng kéo dài thêm sự chia cắt trên Báo đảo Triều Tiên. Vì vậy, Bình Nhưỡng yêu cầu quân đội Mỹ phải rút khỏi Hàn Quốc và tiến hành đàm phán chính trị ngay lập tức để đẩy nhanh tiến trình tái thống nhất.
Ngay cả mô hình Cộng hoà Liên bang Dân chủ (Democratic Confederal Republic) đã kêu gọi sự hình thành một lực lượng ‘quân sự quốc gia kết hợp’ và một chính sách ngoại giao chung trước khi hội nhập chính trị hai miền. Nói tóm lại, CHDCND Triều Tiên coi tái thống nhất như một sự kết thúc, với cái tên gọi chung là “Cộng hoà Liên bang Dân chủ Triều Tiên”, trong khi Hàn Quốc coi nó như một quá trình thống nhất từ từ, từng bước sau khi thiết lập một “Cộng đồng Quốc gia Triều Tiên” (Korean National Community).
Với những quan điểm về thống nhất mà hai bên đã thể hiện cho thấy, cả hai bên đều không thực sự thích thú việc thống nhất cho lắm mà chỉ sử dụng các cuộc đối thoại, đàm phán thống nhất như một hình thức chiến tranh lạnh chính trị nhằm áp đặt ý đồ của mình đối với bên kia.
Không chỉ có sự khác biệt cơ bản giữa hai miền trong cách thức đi đến thống nhất mà hai miền còn có vị trí rất khác nhau trong chiến lược hình thành một chính phủ thống nhất. Hàn Quốc muốn một sự tự do, một cuộc tổng tuyển cử (mọi người dân Triều Tiên đều được tham gia bầu cử) dưới sự quản lý và giám sát của Liên Hiệp Quốc hoặc một tổ chức nào đó tương tự. Và nên dành quyền đại diện đa số cho Hàn Quốc vì Hàn Quốc có đông dân số hơn CHDCND Triều Tiên. Ngược lại, CHDCND Triều Tiên muốn một liên bang có cơ cấu lỏng lẻo hơn. Cuộc tổng tuyển cử không nên tiến hành dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc mà nên là các nước trung lập hoặc các đảng phái thích hợp nào đó. Bởi vì Bắc Triều Tiên đã chống trả lại lực lượng của Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, nên Liên Hiệp Quốc khó mà tránh khỏi không có thành kiến với CHDCND Triều Tiên. Sự lựa chọn hợp lý nhất là tiến hành tổng tuyển cử do chính người dân Triều Tiên tổ chức và dưới sự giám sát của nước ngoài. Quyền đại diện của mỗi bên không nên chỉ dựa vào qui mô dân số mà nên xét đến cả qui mô diện tích lãnh thổ. CHDCND Triều Tiên còn đề xuất một ‘Hội nghị phối hợp các đại diện’ của các đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội đến từ hai miền. Đề xuất này sẽ tạo ra một cơ cấu đại diện theo chức năng chứ không chỉ dựa theo qui mô dân số. Mô hình Liên bang mà CHDCND Triều Tiên dự thảo sẽ được hình thành một cách tạm thời, trong khi chính phủ hai bên vẫn có toàn quyền tự chủ.
Mặc dù có sự thay đổi đáng kể trong cách tiếp cận thống nhất của cả hai miền, CHDCND Triều Tiên nói chung vẫn phản đối sự hiện diện của bất cứ một lực lượng quân đội nước ngoài nào tại Hàn Quốc, đặc biệt là của Mỹ. CHDCND Triều Tiên coi sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Hàn Quốc chính là lực cản lớn nhất của quá trình đàm phán thống nhất. Hơn nữa, CHDCND Triều Tiên còn sợ rằng cuộc đua vũ trang giữa hai miền tiếp diễn sẽ gây nguy hại đến tiến trình thống nhất và đề xuất một sự cắt giảm quân sự chung của hai bên (mỗi bên cắt giảm khoảng 100 nghìn quân nhân). Trong khi đó Hàn Quốc vẫn cảm thấy rằng, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Hàn Quốc là rất cần thiết để đảm bảo hoà bình và ổn định của khu vực Đông Á nói chung và cho sự ổn định và chuyển đổi dần dần của hệ thống chính trị Triều Tiên nói riêng. Hàn Quốc cho rằng, nên duy trì một lực lượng quân sự cân bằng giữa hai miền cho tới khi đạt được các điều kiện về thống nhất hoà bình. Vì thực tế như chúng ta đã biết, chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đã nổ ra ngay sau khi lực lượng quân đội của Mỹ và Nga rút khỏi hai miền được một năm.
Một phân tích so sánh về thái độ và chính sách của các hệ thống chính trị - xã hội cùng tồn tại ở các nước bị chia cắt đã chỉ ra rằng, trong mỗi một trường hợp cụ thể, sự duy trì và phát triển của một hệ thống riêng biệt thường ưu tiên về mặt thứ bậc của các giá trị hơn là thành tựu chung của quốc gia. Mâu thuẫn giữa mục tiêu ý thức hệ của việc duy trì hệ thống và những đòi hỏi của việc thống nhất quốc gia đã được giải quyết hầu hết bằng cách ưu tiên cho các nhu cầu duy trì hệ thống. Các kịch bản thống nhất hầu như đều được nhìn nhận dưới những cách mà ở đó các thành tựu thống nhất đi đôi với chiến thắng cuối cùng của một hệ thống đối với hệ thống còn lại hay ít nhất là bởi sự thay thế của hệ thống này cho hệ thống kia. Cho đến nay, sự thống nhất mà các quốc gia bị chia cắt có được là nhờ, hoặc là chiến tranh hoặc là do một hệ thống bị sụp đổ hoàn toàn trước hệ thống kia, ví dụ như trường hợp của Việt Nam, Yemen, Đức và Căm Pu Chia. Và nước Đức cũng không thể thống nhất được nếu không có sự chuyển đổi của hệ thống cũ ở Đông Đức. Với thách thức vượt qua những khó khăn trong vấn đề Đài Loan, Chính phủ Trung Quốc đã đề xuất mô hình thống nhất “một quốc gia hai chế độ”. Về thực chất thì hệ thống này cũng vẫn chỉ coi Đài Loan như là một bộ phận trực thuộc hệ thống bá quyền của Trung Quốc mà thôi. Việc phủ nhận quyền bình đẳng giữa hai hệ thống khác nhau này của Trung Quốc đã gây trở ngại cho việc xây dựng mô hình thống nhất Bán đảo Triều Tiên theo kiểu “một quốc gia hai chế độ”. Có vẻ như việc thực hiện thống nhất là không hiện thực trừ phi có sự hội nhập giữa hai hệ thống đối lập này, vì cả hai bên đều e ngại lẫn nhau về mục tiêu thống nhất cuối cùng của mỗi bên. Nhưng việc theo đuổi thống nhất và các cách thức thống nhất loại trừ lẫn nhau hiện nay của cả hai hệ thống không có nghĩa là sẽ không thể tiến hành những bước chuẩn bị cho quá trình tái thống nhất Bán đảo Triều Tiên.
Sau đây là một số đề xuất giải pháp trước mắt mang tính khả thi:
Loại trừ khả năng thống nhất bằng vũ lực, hai miền dường như đang đứng trước hai sự lựa chọn: một là tiếp tục kéo dài tình trạng cùng tồn tại đối đầu như hiện nay, hai là chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tìm ra những giải pháp tối ưu nhất để đi tới mục tiêu cuối cùng là hình thành một Liên bang Triều Tiên hay một Khối cộng đồng Triều Tiên (Korean Commonwealth or Confederation). Kinh nghiệm của Đức cho thấy, hai miền Triều Tiên nên ký kết với nhau một bản Hiệp ước về Cơ sở Quan hệ Liên Triều bao gồm các điều khoản sau:
1. Công nhận lẫn nhau như những nhà nước độc lập trong một quốc gia, hai bên đều phải cam kết hướng tới mục tiêu cuối cùng là tái thống nhất quốc gia.
2. Thúc đẩy an ninh và hoà bình của quốc gia và khu vực, hai bên đều phải tránh sử dụng vũ lực để đối phó lẫn nhau và cùng nhau phát triển các hệ thống quân sự tin cậy.
3. Tránh khiêu khích và xích mích lẫn nhau. Theo điều khoản 1 của Hiệp ước này thì hai bên đều phải tôn trọng những khác biệt trong hệ thống chính trị - xã hội của nhau, tránh can thiệp vào các chính sách đối nội và đối ngoại của nhau. Hiệp ước này không chịu sự chi phối của bất kỳ một hiệp ước nào khác đang tồn tại của hai bên.
4. Để thúc đẩy tiếp tục đối thoại và hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa hai bên, hai bên phải phối hợp thiết lập ra một Uỷ ban tư vấn về Hợp tác liên Triều.
- Uỷ ban này sẽ bao gồm hai bộ phận.: Uỷ ban Tư vấn bao gồm các đại diện cấp cao của các chính phủ và các tổ chức xã hội Chữ thập đỏ và Hội đồng Tư vấn bao gồm những người đại diện do nghị viện và các tổ chức tôn giáo, kinh tế và văn hoá của hai bên đề cử. Hai bên tổ chức và chọn lựa các đại biểu chung của mình mà không có sự tham gia của bên thứ ba nào khác.
- Uỷ ban Tư vấn có nhiệm vụ hoạch định tương lai phát triển các trao đổi liên Triều hiện nay, nghĩ ra những phương thức trao đổi mới, và giải quyết các vấn đề liên quan đến câu hỏi liệu, khi nào, và làm thế nào để việc thiết lập một Liên bang Triều Tiên hay một Khối cộng đồng Triều Tiên có thể được coi như là một bước khởi đầu hướng tới mục tiêu cuối cùng là tái thống nhất hoàn toàn và lâu dài.
- Văn phòng Uỷ ban Tư vấn đặt ở Bàn Môn Điếm nơi mà sau này sẽ có thể phát triển dần thành một Trung tâm Trao đổi liên Triều.
1. Hai bên thiết lập các Văn phòng Trao đổi ở thủ đô của cả hai miền.
Kịch bản Hiệp ước này nhằm mục tiêu tạo ra một cơ chế bước đệm cho cả hai bên, giữa hiện trạng và tương lai của một Khối cộng đồng Triều Tiên hay một cơ cấu Liên bang sẽ được hình thành giữa hai bên.
Với tình hình của CHDCND Triều Tiên hiện nay thì, các chính sách hướng tới thống nhất hai miền của chính phủ Hàn Quốc chỉ có thể đạt được mục tiêu khi mà nó hướng tới những lợi ích thiết thực của CHDCND Triều Tiên (ví dụ như mang lại lợi ích về mặt kinh tế). Mặc dù hai bên đã có một loạt các trao đổi về mậu dịch, viện trợ, khoa học, công nghệ, du lịch, văn hoá, thể thao, triển lãm, …. nhưng có thể nói hoạt động trao đổi và quan hệ liên Triều cho đến nay vẫn còn rất hạn chế, vì vậy cần thúc đẩy hơn nữa các hoạt động trao đổi giữa hai bên trong phạm vi có thể.
Trong lúc có vẻ như quá sớm để hình thành một cơ cấu Liên bang hay Khối cộng đồng Triều Tiên ở thời điểm này thì hai miền có thể thiết lập một thể chế tạm thời như đã đề cập ở trên (Hiệp ước về Cơ sở Quan hệ liên Triều).
Một mặt, để đối phó với tình hình mới luôn có những bất ổn và chiến tranh rình rập, cần phải thiết lập một mạng lưới phối hợp giải quyết tốt hơn về mặt thể chế ở miền Nam dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng thống và Bộ Thống nhất thông qua những phân tích chính sách chiến lược phương Bắc của Seoul. Mặt khác, để giảm bớt khó khăn, Hàn Quốc nên thúc đẩy quan hệ hợp tác với Mỹ và Nhật Bản trong việc hình thành các chính sách đối với CHDCND Triều Tiên.
Hàn Quốc không nên loại trừ khả năng thương mại hoá các viện trợ kinh tế và các viện trợ ngoại giao khác (nỗ lực của Bình Nhưỡng nhằm bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Washington, Tokyo và Châu Âu) để duy trì tiến trình của CHDCND Triều Tiên trong việc thực hiện Hiệp ước Bắc-Nam năm 1991-1992 và tiến trình đàm phán bốn bên.
Kinh nghiệm của Đức cho thấy những động thái phát triển mới (ngoài dự đoán) có thể dẫn tới một sự sụp đổ bất ngờ hay một sự thay đổi mạnh mẽ của hệ thống thứ hai. Thay vì cảm thấy tình hình phát triển hiện nay là không chắc chắn, Hàn Quốc cần phải chuẩn bị ứng phó với mọi kịch bản có thể xảy ra. Vì vậy, những gánh nặng và áp lực đối với Hàn Quốc là lớn hơn rất nhiều so với những gì mà Tây Đức phải gánh chịu sau sự sụp đổ không mong đợi của Đông Đức năm 1990.

VÕ HẢI THANH
(Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á)
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ronald Meinardus, Liberal Times, Challenges for Korea's Unification: A German perspective, 11-21-2002.
2. Kim Yung-Bong, Professor of Economics
Chung-Ang
 University, Conditions for Unification in the 21st Century, Unified Korea Economy, January 2000.
3. Nicholas Eberstadt and Judith Banister, Divided Korea: Demographic and Socio-Economic Issues forReunification
4. Speeches, Testimony, Papers, The Economics of Korean Unification, Marcus Noland Institute for International Economics, Paper prepared for Foresight Magazine February 2000
5. Dr Rhee Tong-chin, Korea Times 30 January 2001, "Will Korea Be Unified-Under What Circumstances?"
6. Jonathan D. Pollack, Korean Unification: Illusion or Aspiration? Winter/Spring 2001 – Volume VIII, Issue 1.
7. Colonel Richard B. Bundy, Korean Unification: Opportunities and Threats.
8. Ronald Meinardus, Challenges for Korea's Unification: A German perspective, Liberal Times,11-21-2002.
9. Ministy of Unification, white paper, Overview of South Korea s Policy toward North Korea Prior to the Kim Dae-jung Administration, 21.08.2002.
10. Peace and Cooperation, White Paper on Korean Unification 1996, Ministry of National Unification, Republic of Korea.
11. Jonathan D. Pollack, Chung Min Lee, Preparing for Korean Unification: Scenarios and Implications
12. Sam Vaknin, The Cost of Unification German Lessons for Korea, published by United Press International (UPI)
13. The Costs and Benefits of Korean Unification, Marcus Noland Institute for International Economics, Sherman Robinson, International Food Policy Research Institute, Li-Gang Liu, Institute for International Economics
14. By Jong-chul Park, The Policy of Peace and Prosperity: Its Characteristics and Challenges, The Korea Society Quarterly, Volume 4, Number 1