Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Nhật Bản công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013

Nhật Bản công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013


Ngày 9/7, Nhật Bản đã công bố Sách Trắng Quốc phòng năm 2013 sau khi được thông qua tại cuộc họp nội các giữa Thủ thướng Shinzo Abe và các bộ trưởng. 
Đây là Sách Trắng Quốc phòng đầu tiên được ban hành dưới thời chính quyền của Thủ tướng Shinzo Abe, trong đó đặc biệt
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. (Nguồn: AFP)
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. (Nguồn: AFP)
nhấn mạnh những quan ngại về các hành động hàng hải mạnh mẽ của Trung Quốc và chương trình hạt nhân tranh cãi của Triều Tiên.
Sách Trắng Quốc phòng năm 2013 gồm 450 trang, nhấn mạnh những lo ngại của Tokyo về việc gia tăng các hoạt động hàng hải tiềm ẩn nguy hiểm của Trung Quốc, nhất là việc Bắc Kinh xâm phạm lãnh hải và vùng trời Nhật Bản. Sách Trắng cũng chỉ trích Bắc Kinh thiếu hợp tác và giải thích không đúng sự thật sau vụ một tàu chiến Trung Quốc khóa radar tàu khu trục của Lực lượng Phòng vệ Bờ biển Nhật Bản hồi tháng Một; đồng thời hối thúc Bắc Kinh hành động theo luật pháp quốc tế, thay vì sử dụng vũ lực.
Sách Trắng cũng bày tỏ lo ngại về chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên, cho rằng việc Bình Nhưỡng phát triển các tên lửa đạn đạo có thể vươn tới nước Mỹ là minh chứng cho thấy chương trình này đã bước vào giai đoạn phát triển mới.
Ngoài ra, Sách Trắng cũng đề cập đến chủ đề an ninh mạng, trong đó nêu rõ Nhật Bản cần tăng cường khả năng đối phó với các cuộc tấn công mạng đang ngày càng trở nên tinh vi. Bên cạnh đó, Sách Trắng cũng cho biết chính phủ của Thủ tướng Abe đang lên kế hoạch biên soạn các nguyên tắc chỉ đạo trong lĩnh vực quốc phòng nhằm đưa ra định hướng dài hạn cho chính sách quốc phòng vào cuối năm nay, đồng thời xem xét khả năng cho phép Nhật Bản tấn công ngăn chặn trong trường hợp phải đối mặt với đe dọa về tên lửa đạn đạo.

Về môi trường an ninh, Sách Trắng nhấn mạnh liên minh an ninh Nhật-Mỹ có vai trò thiết yếu và việc triển khai máy bay Osprey MV-22 ở Okinawa sẽ góp phần đem lại hòa bình, ổn định trong khu vực. Sách Trắng cũng bảo vệ quyết định của Tokyo hồi tháng 3 vừa qua về việc cho phép các công ty trong nước tham gia sản xuất linh kiện máy bay chiến đấu tàng hình F-35 của Mỹ.
Theo Sách Trắng, sự tham gia này sẽ giúp bảo vệ, duy trì và phát triển công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản và giúp ích cho liên minh Nhật-Mỹ./.
Nguồn: http://www.vietnamplus.vn

Bước phát triển lịch sử trong quan hệ với Indonesia

Bước phát triển lịch sử trong quan hệ với Indonesia


Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ có chuyến thăm chính thức cấp Nhà nước tới Indonesia từ ngày 27-28/6. Chuyến thăm này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước ngày càng gắn bó và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang trong giai đoạn bản lề để tiến tới hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Trước thềm chuyến thăm, phóng viên TTXVN tại Jakarta đã có cuộc phỏng vấn Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Nguyễn Xuân Thủy.
Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cho biết Indonesia là quốc gia có vai trò quan trọng trong ASEAN, luôn tích cực đóng góp cho việc xây dựng và phát triển vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực. Việt Nam luôn đánh giá cao và coi trọng quan hệ với các nước trong khu vực, trong đó có Indonesia. Hai nước có nhiều điểm tương đồng về truyền thống, lịch sử, văn hóa và đã xây dựng mối quan hệ hữu nghị truyền thống hơn nửa thế kỷ qua.
Chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Indonesia có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới có tính lịch sử trong quan hệ giữa hai nước.
Kể từ năm 2003 tới nay, hai nước đã có những thỏa thuận quan trọng làm nền tảng phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện. Năm 2003, nhân chuyến thăm của Tổng thống Indonesia Megawati Soekarno tới Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp định khung về Khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện hướng tới thế kỷ 21.
Tháng 9/2011, trong chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Indonesia, lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận thúc đẩy quan hệ hướng tới đối tác chiến lược. Hai bên đã ký Chương trình hành động Việt Nam-Indonesia giai đoạn 2012-2015 nhằm triển khai toàn diện giữa hai nước.
Dự kiến, trong chuyến thăm này, hai bên sẽ nâng quan hệ trở thành đối tác chiến lược. Lãnh đạo hai nước cũng sẽ chứng kiến lễ ký kết một loạt thỏa thuận hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như dẫn độ và tương trợ tư pháp, năng lượng, tài chính, hàng hóa nông nghiệp.
Theo dự kiến, ngày 27/6, sau lễ đón chính thức cấp Nhà nước, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ có cuộc gặp riêng, sau đó hội đàm với Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono; cùng Tổng thống chứng kiến Lễ ký các văn bản thỏa thuận, gặp gỡ báo chí và dự Quốc tiệc do Tổng thống Indonesia chủ trì.
Sáng 28/6, Chủ tịch nước sẽ đến viếng và đặt vòng hoa tại Nghĩa trang Anh hùng Kalibata; hội kiến Chủ tịch Quốc hội (Hạ viện) Indonesia; tiếp Bộ trưởng Các doanh nghiệp Nhà nước cùng 10 doanh nghiệp lớn của Indonesia, đến chào và dự tọa đàm với doanh nghiệp hai nước.
Chiều 28/6, Chủ tịch nước sẽ đến thăm Ban Thư ký ASEAN, gặp gỡ và nói chuyện với các Đại sứ, Trưởng phái đoàn đại diện thường trực các nước ASEAN tại Jakarta và cán bộ, nhân viên Ban Thứ ký ASEAN.
Trước khi rời Jakarta về nước, Chủ tịch nước sẽ đến thăm Đại sứ quán Việt Nam tại Indonesia, nói chuyện với cán bộ, nhân viên Cơ quan đại diện Việt Nam, phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại ASEAN và dại diện lưu học sinh và cộng đồng người Việt Nam tại Indonesia.
Về những kết quả nổi bật trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Indonesia thời gian qua, Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cho biết hai nước đã thiết lập được quan hệ hợp tác chặt chẽ và tin cậy lẫn nhau. Hai bên đã xây dựng được cơ chế hợp tác và phối hợp chặt chẽ không chỉ trong gia đình ASEAN mà trong cả các thể chế, diễn đàn quốc tế và khu vực rộng lớn hơn như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, FEALAC,.. về nhiều vấn đề nổi cộm của khu vực và thế giới như hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác kinh tế, biến đổi khí hậu…
Hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước cũng đạt được những kết quả tương đối khả quan. Trong hai năm 2011-2012, dù môi trường kinh tế thế giới không thuận, nhưng thương mại song phương đều đạt trên 4,6 tỷ USD. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Indonesia các mặt hàng như gạo (789.665 tấn), điện thoại các loại và linh kiện, sắt thép các loại (301.464 tấn), dầu thô (157.416 tấn); nhập khẩu của Indonesia giấy các loại (263.894 tấn), dầu mỡ động thực vật, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện, hóa chất. Kim ngạch thương mại hai chiều trong sáu tháng đầu năm 2013 đạt khoảng 2,1 tỷ USD.
Ngoài ra, hai bên đang nỗ lực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực quốc phòng (trao đổi, hợp tác huấn luyện hải quân…), đàm phán vùng đặc quyền kinh tế, giáo dục. Hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines đã mở đường bay thẳng Thành phố Hồ Chí Minh-Jakarta đạt kết quả khả quan, góp phần tăng cường du lịch và kết nối thương mại giữa hai nước.
Về tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và Indonesia trong thời gian tới, Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy nhấn mạnh hai nước có nhiều tiềm năng hợp tác trong các lĩnh vực năng lượng, khai mỏ, nông nghiệp, chế biến thủy-hải sản, du lịch, giáo dục.
Indonesia là nước đi trước trong phát triển công nghiệp năng lượng (khai thác dầu, khí hóa lỏng, than và các loại quặng…), do đó có thể giúp Việt Nam về kinh nghiệm quản lý phát triển bền vững cũng như đầu tư cùng thăm dò và khai thác.
Về nông nghiệp, hai nước có những thế mạnh có thể hợp tác liên kết với nhau góp phần tăng cường an ninh lương thực và giảm nghèo.
Trong lĩnh vực du lịch, cả hai đều có những điểm đến nổi tiếng thế giới. Nói đến Việt Nam, du khách thường nhắc đến Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, phố cổ Hội An, bãi biển Nha Trang, đảo Phú Quốc, và nói tới Indonesia, người ta nhớ đến Đảo rồng Komodo, cố đô Yogyakarta, khu nghỉ mát ở đảo Bali, Lombok… Đây là vốn quý góp phần thúc đẩy hợp tác về văn hóa, du lịch và giao lưu nhân dân.
Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy cho rằng để nâng cao hiệu quả hợp tác, hai bên cần nâng cao vai trò của các cơ chế, bộ máy đã có như Ủy ban Hợp tác chung, Ủy ban Hỗn hợp. Bản thân mỗi bộ, ngành của từng nước cần chủ động, tích cực triển khai thực hiện các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã có, hỗ trợ quảng bá cho nhau, đồng thời có những chính sách ưu tiên hỗ trợ cho doanh nghiệp hai bên để đầu tư, làm ăn có hiệu quả. Hai nước đều có dân số trẻ cần tăng cường đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động. Đây là lĩnh vực cần khai phá thêm. Doanh nghiệp hai nước cũng cần chủ động, tăng cường trao đổi cơ hội hợp tác và đầu tư hơn nữa./.
Nguồn: www.vietnamplus.vn

Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman

Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman


Trong hai năm 1945 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman.

Có lợi cho toàn thế giới
Trong bức thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman ngày 16/2/1946 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 91- 91), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong các hội nghị quốc tế.

thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang
Trang 1 bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, trong đó bày tỏ Việt Nam mong muốn được “hoàn toàn độc lập” và ý nguyện thiết lập “hợp tác đầy đủ” với Hoa Kỳ. Ảnh: Tư liệu của Cục Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “An ninh và tự do chỉ có thể được bảo đảm bằng sự độc lập của chúng ta đối với bất kỳ một cường quốc thực dân nào, và bằng sự hợp tác tự nguyện của chúng ta với tất cả các cường quốc khác. Chính là với niềm tin vững chắc này mà chúng tôi yêu cầu Hợp chủng quốc với tư cách là những người bảo vệ và những người bênh vực Công lý thế giới, thực hiện một bước quyết định trong sự ủng hộ nền độc lập của chúng tôi.
Điều mà chúng tôi đề nghị đã được trao cho Philippines một cách quý báu. Cũng như Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Mỹ. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới”.
Nhìn xa hơn về quá khứ, người ta thấy rằng những bức điện, thư của Hồ Chí Minh, với tư cách Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, gửi Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã có “ tiền đề” từ những mối quan hệ của Hồ Chí Minh (và Việt Minh) với lực lượng Mỹ chống Nhật ở Hoa Nam trước đó.
Sau khi Nhật tấn công Trân Châu cảng (7/12/1941) mở đầu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Mỹ đặt Đông Dương trong khu vực tác chiến của Quân đoàn không quân số 14 của Mỹ, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Hoa Nam và bắc Đông Dương.
Những tiếp xúc của Hồ Chí Minh với lực lượng Mỹ được thiết lập từ tháng 3/1945, sau sự kiện trung úy R. Shaw được Việt Minh cứu thoát ở vùng núi Cao Bằng ngày 2/11/1944 và đưa trở lại Côn Minh. Ngày 29/3/1945 ở Côn Minh, Hồ Chí Minh gặp tướng C. Chenault tư lệnh không đoàn 14 và hai người đã có những mối thiện cảm.

thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang
thư, Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ, Obama, Trương Tấn Sang
Trang 2 và 3 của bức thư
Hồ Chí Minh cũng đã làm cho người Mỹ hiểu hơn về Việt Minh và cuộc chiến đấu của giành độc lập của người Việt Nam. Sau đó, người Mỹ bắt đầu coi Việt Minh như một lực lượng đồng minh chống Nhật tích cực và có thể phối hợp các nỗ lực.
Cho đến đầu tháng 5/1945, hai sĩ quan OSS (Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ, tiền thân của CIA) đã có thể đều đặn gửi báo cáo về từ Tân Trào. Ngày 17/7/1945, đội tình báo Mỹ mang biệt danh Con nai gồm 5 người do thiếu tá A. Thomas chỉ huy đã nhảy dù xuống Tân Trào.
Họ huấn luyện các kỹ năng quân sự cho 40 người được chọn từ số 110 quân du kích của Đàm Quang Trung. Đầu tháng 8/1945, trung đội Bộ đội Việt – Mỹ (tên đặt chính thức của Hồ Chí Minh) đã được thành lập và ngày 20/8/1945 trung đội này đã tham gia chiến đấu với quân Nhật ở Thái Nguyên dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.
Việc hỗ trợ trang bị và huấn luyện chiến đấu cho một lực lượng nhỏ người địa phương trong vùng núi rừng Việt Bắc không giữ vai trò đáng kể về mặt quân sự trong việc kết thúc chiến tranh với Nhật ở Đông Dương. Người Mỹ biết rõ điều đó. Hồ Chi Minh cũng biết rõ điều đó.
Điều quan trọng hơn của những mối quan hệ với lực lượng Mỹ mà Hồ Chí Minh chủ trương thiết lập chính là tăng thêm lực lượng ngoại giao, uy thế chính trị của Việt Minh để giành độc lập cho dân tộc và tạo ra những tiền đề cho việc xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập trên trường quốc tế sau này.
Con đường hòa bình
Ngay sau khi giành lại được độc lập, bên cạnh việc củng cố, xây dựng chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những hoạt động tích cực mở rộng quan hệ quốc tế.
Với Chính phủ Mỹ, trong hai năm 1945 – 1946, Hồ Chí Minh đã có 8 thư và điện gửi Tổng thống Harry Truman, 3 thư và điện gửi Bộ trưởng Ngoại giao James Byrnes.
Trong thư gửi ông James Byrnes ngày 1/11/1945, Hồ Chí Minh đề nghị gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để “xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”, và theo Người, giới trí thức Việt Nam “tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên trì tìm cách hoà bình, tìm con đường hoà bình để đem lại hoà bình cho nhân dân, cho đất nước Việt Nam với đầy đủ nội dung về quyền dân tộc.
Với con đường hòa bình, Hồ Chí Minh hướng đến điều hòa sự đa dạng về xu hướng chính trị, chế độ xã hội giữa các nước để các dân tộc gần gũi nhau, hiểu biết nhau, để mở rộng sự hợp tác hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước láng giềng và khu vực, hướng tới hòa bình và thịnh vượng.
Năm 1955, Người phát biểu: “Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách hoà bình, tin chắc rằng các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hoà bình được”.
Điều được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh với Tổng thống Harry S. Truman cho đến nay không hề cũ.
Những dòng cuối cùng trong Thông điệp của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đăng trên tờ Washington Post ngày 27/7/2013 đã kế thừa rõ nét tinh thần đó: “Mặc dù ở hai bờ xa cách của Thái Bình Dương bao la, nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ cùng chia sẻ một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của một châu Á – Thái Bình Dương, hòa bình, hợp tác, thịnh vượng. Hôm nay, khi tôi tới thăm đất nước và nhân dân Hoa Kỳ, chúng ta cùng chia sẻ niềm vui vì ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gần 70 năm trước về mối quan hệ “hợp tác đầy đủ” giữa hai dân tộc đã thành hiện thực”.
  • TS Ngô Vương Anh
  • Nguồn: www.vietnamnet.vn

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

Đối thoại giữa Asean và Việt Nam trong quá trình giải quyết “Vấn đề Cămpuchia” (1985 - 1991)

Đối thoại giữa Asean và Việt Nam trong quá trình giải quyết “Vấn đề Cămpuchia” (1985 - 1991)
                           TS. Phạm Phúc Vĩnh
                        Giảng viên, Trường Đại học Sài Gòn.
                     Nguồn bài viết: Hội sử học Đồng Tháp
1. Nhu cầu đối thoại với ASEAN về “vấn đề Cam-pu-chia” của Việt Nam
Sau đại thắng mùa xuân 1975, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam bắt đầu gặp nhiều khó khăn, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nghiêm trọng (lạm phát gia tăng với tốc độ phi mã: năm 1978: 128%, năm 1981 lên đến 131%,... ). Chỗ dựa quốc tế - ngoại lực quan trọng nhất của Việt Nam lúc này là Liên Xô cũng đang lâm vào khủng hoảng, nên viện trợ của Liên Xô đối với Việt Nam giảm đi và chuyển từ viện trợ không hoàn lại sang cơ chế hợp tác hai bên cùng có lợi,... đẩy Việt Nam lún sâu vào cuộc khủng hoảng.
Mặt khác, việc đưa quân sang giúp nhân dân Căm-pu-chia đánh bại chế độ diệt chủng Pôn-pốt đã tạo ra thêm những khó khăn, phức tạp mới trong hoạt động đối ngoại. Sau sự kiện này, quan hệ Việt – Trung trở nên căng thẳng, Trung Quốc và Mĩ cáo buộc Việt Nam xâm lược Căm-pu-chia và thúc đẩy Liên hiệp quốc ra Nghị quyết yêu cầu Việt Nam rút khỏi Căm-pu-chia, vận động hầu hết các nước trong Nghị viện châu Âu và các nước trong khu vực Đông Nam Á đình chỉ viện trợ kinh tế, siết chặt cấm vận, cắt đứt quan hệ, đẩy Việt Nam vào thế bị cô lập với khu vực và thế giới phương Tây. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong đầu thập nhiên 80 là phải phá thế bị bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển của đất nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc của ĐCS Việt Nam lần thứ V (tháng 3/1982) đã có những thay đổi trong chính sách đối ngoại. Văn kiện Đại hội đã xác định: “Nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng phối hợp, cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình và ổn định”[1]. Đối với các nước khác thì sẵn sàng “thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước về kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền bình đẳng cùng có lợi”[2].
Tuy nhiên, những tuyên bố mới về đường lối đối ngoại của Việt Nam dường như không được các nước ASEAN cũng như phương Tây đón nhận và ủng hộ. Nguyên nhân của tình trạng đó không nằm ngoài việc quân tình nguyện Việt Nam vẫn còn đóng trên lãnh thổ Căm-pu-chia. Việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” và rút quân khỏi nước này chính là “chìa khoá” để Việt Nam mở cánh cửa giao lưu tiếp xúc với các nước trong khu vực và trên thế giới, thoát khỏi sự bao vây cô lập để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” liên quan đến nhiều bên khác nhau, trong đó Việt Nam, Trung Quốc và ASEAN có một vị trí rất quan trọng. Chính vì vậy, Việt Nam đã tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc và ASEAN để tìm giải pháp tháo gỡ vấn đề này.
Để tìm cách đối thoại với Trung Quốc nhằm tìm hướng giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia”, tháng 7/1982, thông qua Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Đông Dương, Việt Nam đã tuyên bố “mong muốn có quan hệ hoà bình hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc trong cùng tồn tại hoà bình và nối lại đàm phán Việt - Trung”[3] và ngày 17/7/1982, Việt Nam đã chủ động rút một phần quân tình nguyện ở Căm-pu-chia về nước và tuyên bố sẽ tiếp tục rút như vậy hàng năm. Những tín hiệu tích cực mà Việt Nam đưa ra đã không được phía Trung Quốc đáp lại. Tuy nhiên, trong vòng 1 của cuộc đàm phán Xô – Trung diễn ra 3 tháng sau đó (10/1982), Trung Quốc đã đưa vấn đề rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Căm-pu-chia làm một trong ba điều kiện tiên quyết mà Liên Xô phải thực hiện để tiến tới bình thường hoá quan hệ Xô – Trung [4] và từ chối đàm phán trực tiếp với Việt Nam để giải quyết vấn đề Cam-pu-chia. Chủ trương này được Trung Quốc duy trì liên tục đến cuối năm 1988. Chủ trương này của Trung Quốc đã làm cho kênh đối thoại với Trung Quốc để cùng giải quyết vấn đề Căm-pu-chia trong giai đoạn này đối với Việt Nam là hoàn toàn bế tắc. Hướng duy nhất còn lại đối với Việt Nam chính là đối thoại với ASEAN.
2. Đối thoại ASEAN - Việt Nam về “vấn đề Căm-pu-chia” (1985 - 1991)
Trong lúc Trung Quốc không đáp lại những thiện chí của Việt Nam, ASEAN đã có thái độ ngược lại. Tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 18 họp tại Thái Lan (2/1985), Ngoại trưởng các nước ASEAN đã thống nhất sẽ đối thoại trực tiếp với Đông Dương mà chủ yếu là Việt Nam để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” và đồng thời cử In-đô-nê-xi-a làm đại diện của ASEAN trong việc xúc tiến quá trình đối thoại với Việt Nam. Trước tín hiệu tích cực đó của ASEAN, tại Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Đông Dương (8/1985), Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân vào năm 1990, nếu có giải pháp sẽ rút sớm hơn.
Trong bối cảnh thuận lợi như trên, ngày 29/7/1987, Ngoại trưởng In-đô-nê-xi-a (với tư cách là nước đại diện của ASEAN) đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam, hai bên đã ra thông cáo chung, đánh dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa Việt Nam và ASEAN xung quanh “vấn đề Căm-pu-chia” và mở ra thời kì của những cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Hun-xen và Xi-ha-núc. Để thúc đẩy đối thoại với ASEAN về “vấn đề Căm-pu-chia”, ngày 11/10/1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra Thông cáo chung về việc rút quân tình nguyện Việt Nam ở Căm-pu-chia về nước đợt 6 vào tháng 11/1987.
Những kết quả thuận lợi này đã giúp Việt Nam xác định hướng đi mới trong việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia”: nếu chưa thể nối lại đàm phán với Trung Quốc thì Việt Nam có thể chuyển sang hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế để giải quyết vấn đề này. Nghị quyết 13 “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” ngày 25/5/1988 của Bộ chính trị đã xác định: “Vấn đề Căm-pu-chia” phải được giải quyết với Trung Quốc, nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa muốn trực tiếp giải quyết với ta về “vấn đề Căm-pu-chia”. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên trì mở ra nhiều hướng khác (Hun-xen – Xi-ha-núc, Việt Nam – In-đô-nê-xi-a, Việt Nam – Thái Lan, ASEAN – Đông Dương, Việt Nam – Mĩ)… để thúc đẩy và kéo Trung Quốc vào giải quyết. Dù giải quyết trực tiếp với Trung Quốc hay với các đối tượng khác, thì việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” cũng phục vụ cho mục tiêu bình thường hóa với Trung Quốc, không nhằm chống lại Trung Quốc”[5]. Và ngày 26/5/1988, Việt Nam tiếp tục tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ tư lệnh Việt Nam tại Căm-pu-chia.
Những chủ trương và hành động thể hiện quyết tâm giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” của Việt Nam như trên đã được ASEAN đón nhận một cách tích cực. Trong cuộc họp hàng năm của ASEAN diễn ra từ 03/7/1988 đến 05/7/1988 tại Băng-cốc (Thái Lan), các đại biểu đã bày tỏ niềm tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đã từ bỏ các mục tiêu quân sự của mình ở Căm-pu-chia và đang hướng toàn bộ nỗ lực vào con đường ngoại giao.
Nếu như trước đây, ASEAN và cộng đồng quốc tế cho rằng Việt Nam là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh khu vực, thì giờ đây họ đã nhận ra được rằng, mối đe dọa đó chính là Khơ-me đỏ chứ không phải Việt Nam. Nhằm giải quyết viễn ảnh Khơ-me đỏ có thể giành được thế thượng phong quân sự sau khi quân Việt Nam rút toàn bộ, ASEAN với sự ủng hộ của Mĩ đã nhấn mạnh rằng “Trung Quốc nhất thiết phải có mặt trong việc đề ra các bảo đảm quốc tế cho những thỏa thuận đạt được giữa các nước trong vùng quanh “vấn đề Căm-pu-chia”. Đồng thời cũng cần thành lập một lực lượng quốc tế gìn giữ hòa bình đông đảo ở nước này”[6]. Chính trong tình thần của lập trường này, tại Hội nghị JIM-1 (Jakarta Informal Meeting) từ 25 đến 27/7/1988, ASEAN đã đưa ra đề nghị giải giáp tất cả các phe Khơ-me đang xung đột ở Căm-pu-chia và sự cần thiết phải có một lực lượng vũ trang quốc tế ở nước này để thực hiện quyết định vừa kể. Đề nghị này phản ánh rõ ràng ý đồ của ASEAN là không muốn để bên nào chiếm được thế thượng phong ở Căm-pu-chia sau khi quân đội Việt Nam rút đi và trong lúc chờ tổng tuyển cử.
Trong bầu không khí ngày càng trở nên hòa dịu của quan hệ Việt Nam – ASEAN, tháng 8/1988, Thủ tướng Thái Lan Thạt-chai Xu-ha-vản đã tuyên bố rằng cần xem các nước Đông Dương không phải như là những chiến trường mà là những thị trường có thể trong tương lai. Theo ý ông, “cần giải quyết càng nhanh càng tốt “vấn đề Căm-pu-chia” và đã có tất cả các dấu hiệu cần thiết để mau chóng đạt được những thỏa hiệp tương xứng”[7]. Sau đó, ngày 08/8/1988, Thạt-chai Xu-ha-vản tuyên bố sẽ khuyến khích các nhà doanh thương Thái Lan tăng các hoạt động thương mại với Lào và Việt Nam, điều này theo ông sẽ góp phần làm dịu tình hình trong vùng và nhấn mạnh rằng Thái Lan sẽ thúc đẩy buôn bán với Việt Nam và Lào mà không cần xem xét đến việc Việt Nam rút quân khỏi Căm-pu-chia.
Như vậy, sự hợp tác giữa Việt Nam với ASEAN đã mở ra một hướng giải quyết mới (quốc tế hóa) cho “vấn đề Căm-pu-chia” mà không nhất thiết phải phụ thuộc quá nhiều vào việc Trung Quốc có chấp nhận đàm phán với Việt Nam hay không.
Trước những kết quả đạt được giữa Việt Nam và ASEAN như trên, thêm vào đó là tình hình quan hệ Xô – Mĩ, Xô - Trung trở nên lắng dịu, “vấn đề Căm-pu-chia” từng bước được quốc tế hóa, ngày 15/12/1988, Việt Nam đã chính thức đề nghị Trung Quốc tổ chức cuộc gặp cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao để bàn về việc giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” và bình thường hóa quan hệ hai nước.
Việc tiếp tục trì hoãn việc nối lại đàm phán với Việt Nam để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” giờ đây không còn phù hợp với tình hình quan hệ quốc tế và lợi ích của Trung Quốc nữa. Cuối cùng, ngày 24/12/1988, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã thông báo mời một Thứ trưởng ngoại giao của Việt Nam đi Bắc Kinh vào giữa tháng 01/1989 để trao đổi với Trung Quốc về “vấn đề Căm-pu-chia” và bình thường hoá quan hệ Việt – Trung. Như vậy, Trung Quốc đã chấp nhận đối thoại với Việt Nam để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia”.
Đầu năm 1989, Việt Nam đã nối được kênh đàm phán với Trung Quốc để giải quyết vấn đề Căm-pu-chia, nhưng khi tiến hành đàm phán, Trung Quốc lại muốn Việt Nam thỏa thuận theo hướng giải quyết mặt nội bộ của giải pháp Căm-pu-chia, chủ yếu là vấn đề chính quyền và vấn đề quân đội của các bên Căm-pu-chia trong thời kỳ quá độ (thời gian ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử) theo quan điểm của Trung Quốc, đồng thời khẳng định rằng nếu có thảo luận và đạt kết quả này thì mới có giải pháp, nếu không thì mặt quốc tế có thỏa thuận cũng không giải quyết được và khó bàn về quan hệ hai nước. Ngược lại, lập trường của Việt Nam là vấn đề nội bộ Căm-pu-chia phải do các bên Căm-pu-chia giải quyết. Sự khác biệt về lập trường giữa hai nước đã làm cho quá trình đàm phán Việt – Trung vừa được mở ra lại rơi vào tình trạng bế tắc. Một lần nữa, Việt Nam lại tiếp tục hướng về ASEAN để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia”.
Sau những thỏa thuận đạt được ở Hội nghị JIM-1, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh rút quân khỏi Căm-pu-chia nhằm thúc đẩy xu thế đối thoại và tiến đến quốc tế hóa “vấn đề Căm-pu-chia” để tranh thủ các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế, kiềm chế những đòi hỏi của Trung Quốc. Và những nỗ lực của Việt Nam đã giành được sự ủng hộ của các nước ASEAN tại Hội nghị JIM-2 (02/1989). Tuy nhiên, các nước ASEAN vẫn trước sau như một, không chấp nhận thế thượng phong của Chính phủ Hun-xen do Việt Nam ủng hộ và chọn giải pháp Xi-ha-núc[8]. Để đi đến giải pháp này, họ đòi hỏi giải giáp tất cả lực lượng các bên Căm-pu-chia xung đột, để thay vào đó là lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc. Cuối cùng, giải pháp trên của các nước ASEAN đã nhận được sự ủng hộ của Mĩ, Trung Quốc, Liên hiệp quốc và cả Liên Xô, đồng thời phù hợp với chủ trương của Việt Nam và được các bên Căm-pu-chia đồng thuận.
Những thỏa thuận về giải pháp chính trị cho “vấn đề Căm-pu-chia” đạt được trong Hội nghị JIM-2 đã cho phép Việt Nam có thể quyết định dứt khoát hơn trong việc rút quân khỏi Căm-pu-chia. Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương ĐCS Việt Nam (khóa VI) đã khẳng định sẽ “góp phần tích cực giải quyết vấn đề Căm-pu-chia bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị tốt việc rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về Căm-pu-chia” [9]; ngày 05/4/1989, Tuyên bố chung của Căm-pu-chia, Lào và Việt Nam về việc rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Căm-pu-chia về nước đã khẳng định mạnh mẽ hơn rằng: “Việt Nam rút hết quân đội của mình về nước trước tháng 9/1989, dù có giải pháp hay không” [10].
Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam đã tham gia tích cực trong Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về “vấn đề Căm-pu-chia” tại Pa-ri (vòng 1: từ 30/7 đến 01/8, vòng 2: từ 28/8 đến 30/8/1989). Tuy nhiên, Hội nghị kết thúc mà các bên vẫn chưa đưa ra được một giải pháp cuối cùng cho vấn đề Căm-pu-chia. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn thực hiện đúng cam kết. Từ 21/9 đến 26/9/1989, Việt Nam đã rút quân tình nguyện còn lại ở Căm-pu-chia cùng toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh dưới sự quan sát của cộng đồng quốc tế.
Trước những kết quả đạt được giữa Việt Nam và ASEAN, cùng với quá trình rút quân mạnh mẽ của Việt Nam, ngày 18/7/1990, Mĩ tuyên bố không còn ủng hộ lực lượng Khơ-me đỏ và đến ngày 28/8/1990, một văn kiện khung để giải quyết “vấn đề Căm-pu-chia” và việc lập một Hội đồng tối cao của Căm-pu-chia bao gồm các phái Khơ-me và đại diện của Căm-pu-chia đã được 5 Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thông qua [11]. Giải pháp chính trị cho “vấn đề Căm-pu-chia” về mặt quốc tế đã ngã ngũ, việc giải quyết vấn đề này đến đây đã được chuyển sang cho Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Ngày 23/10/1991, Hiệp định Pa-ri về Căm-pu-chia được kí kết.
Vấn đề Căm-pu-chia - “vật cản” lớn nhất đối với việc khôi phục và mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam đã được giải tỏa. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước khác trên thế giới cũng dần hồi phục.
3. Kết luận
Trong bối cảnh Việt Nam đang bị bao vây cô lập và việc đối thoại với Trung Quốc rơi vào trạng thái bế tắc, sự thay đổi lập trường của ASEAN đối với Việt Nam kể từ năm 1985 trở đi đã mở ra thời kì đối thoại giữa ASEAN với Việt Nam về “vấn đề Căm-pu-chia” và từng bước tháo gỡ được những bất đồng, khúc mắc trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á và thế giới phương Tây.
Quá trình đối thoại giữa Việt Nam và ASEAN từ 1985 đến 1991 đã góp phần quan trọng trong việc hình thành giải pháp chính trị cho “vấn đề Căm-pu-chia”, đẩy Trung Quốc vào thế “người ngoài cuộc” và buộc phải nối lại đàm phán với Việt Nam và cộng đồng quốc tế để cùng giải quyết triệt để vấn đề này.
Chú thích
[1] ĐCS Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (tập 1), Nxb Sự Thật, Hà Nội, trang 153.
[2] ĐCS Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (tập 1), Nxb Sự Thật, Hà Nội, trang 155.
[3] Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 – 1995 (tập 2), Nxb CAND, Hà Nội, trang 202.
[4] Trong qúa trình đàm phán Xô – Trung, Trung Quốc đã luôn đặt ra điều kiện để bình thường hoá quan hệ với Liên Xô đó là Liên Xô phải giải quyết dứt điểm ba trở ngại: Thứ nhất là sự hiện diện của quân đội Xô Viết trên vùng biên giới Xô – Trung và Trung – Mông Cổ; Thứ hai là sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở Áp-ga-nít-xtan; Thứ ba là sự ủng hộ mà Liên Xô dành cho Việt Nam trong vấn đề quân đội Việt Nam ở Căm-pu-chia.
[5] Báo cáo của Văn phòng TW Đảng về công tác đối ngoại trong những năm đổi mới (1989), Phần 1, Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng, trang 15.
[6] Lê Phụng Hoàng (1994), Một số vấn đề về quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á (1975 - 1991), Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, trang 61.
[7] Lê Phụng Hoàng (1994), Một số vấn đề về quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á (1975 - 1991), Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, trang 62.
[8] Lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên (CHND Căm-pu-chia, Khơ-me đỏ, Xi-ha-núc và lực lượng của Son San) do Xi-ha-núc đứng đầu.
[9] ĐCS Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW khóa VI, Nxb CTQG, Hà Nội, trang 40.
[10] “Tuyên bố chung của CHND Căm-pu-chia, CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam về việc rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Căm-pu-chia về nước”, Báo Nhân dân, ngày 6/4/1989, trang 03.
[11] Trong tình thế bị Mĩ và phương Tây cấm vận sau sự kiện Thiên An Môn, để giải tỏa quan hệ với Mĩ và phương Tây, Trung Quốc đã phải nhân nhượng và ủng hộ văn kiện trên.

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ tại Biển Đông: Lợi ích, Chính sách và Tương tác

Tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ tại Biển Đông: Lợi ích, Chính sách và Tương tác

Bài tham luận Hội thảo quốc tế lần thứ 4 tại TP. Hồ Chí Minh phân tích các lợi ích và chính sách của Trung Quốc, ASEAN và Mỹ ở Biển Đông, nghiên cứu mối quan hệ giữa tam giác này trong những năm gần đây và đưa ra một số gợi ý cho sự ổn định khu vực.
Trong những năm gần đây, chuỗi hành động - phản ứng của các bên ở Biển Đông làm gia tăng căng thẳng trong khu vực này, ảnh hưởng đến quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, đặt ra những thách thức đối với ASEAN trong việc duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực, đồng thời củng cố thêm quyết tâm “tái cân bằng” của Mỹ đối với châu Á. Vấn đề Biển Đông giờ đã đồng thời trở thành “thuốc thử” cho ý định “phát triển hòa bình” của Trung Quốc, vị trí thống lĩnh của Mỹ ở khu vực và sự thống nhất của ASEAN. Bài viết sẽ tìm hiểu các lợi ích và chính sách của Trung Quốc, ASEAN và Mỹ ở Biển Đông, phân tích mối quan hệ giữa tam giác này trong những năm gần đây và đưa ra một số gợi ý cho sự ổn định khu vực.
Lợi ích của các Bên liên quan ở Biển Đông
Trung Quốc
Đối với Trung Quốc - một cường quốc khu vực đang trên con đường trở thành cường quốc toàn cầu, hiện đang nỗ lực gia tăng ảnh hưởng tại châu Á và cụ thể là Đông Nam Á thì Biển Đông là “sân sau” quan trọng để bảo vệ đại lục trước các cuộc tấn công từ biển. Nếu như trên đất liền, Trung Quốc chỉ có thể tạo được ảnh hưởng chiến lược đối với 3 quốc gia giáp ranh (Lào, Myanmar và Việt Nam), thì trên biển, mà cụ thể là Biển Đông, Trung Quốc có thể tạo ảnh hưởng đối với tất cả các quốc gia Đông Nam Á.
Mục tiêu bảo vệ những lợi ích của Trung Quốc trong “vành đai ổn định chiến lược” trên các khu vực “biển gần” trải dài từ biển Hoàng Hải, Hoa Đông, eo biển Đài Loan tới Biển Đông giải thích vì sao Bắc Kinh coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, phản đối các hoạt động giám sát của Mỹ trong vùng đặc quyền kinh tế và tăng cường năng lực hải quân về “chống tiếp cận/phong tỏa khu vực”. Ngoài ra, để bảo vệ các lợi ích kinh tế và chính trị đang gia tăng của mình, hải quân Trung Quốc đang chuyển hướng sang các hoạt động viễn dương. Do vậy, Biển Đông giờ trở thành khu vực để Trung Quốc tập dượt và là bàn đạp để vươn ra ngoài.
Theo Tướng Daniel Schaeffer, về khía cạnh quân sự, Trung Quốc muốn đặt Biển Đông trong vòng kiểm soát của mình một phần là bởi vùng biển này là quân cờ quan trọng trong tổng thể chiến lược nhằm bao vây và cô lập Đài Loan, buộc Đài Loan phải thống nhất với đại lục trong đại chiến lược trở thành siêu cường của Trung Quốc. Cách tiếp cận mang tính hệ thống của Trung Quốc, kéo dài từ Biển Đông, biển Hoa Đông tới Okinawa (Nhật Bản) cùng với các hoạt động tập trận trên biển tại phía Tây Đài Loan và giám sát xung quanh đảo Guam của Mỹ trên Thái Bình Dương, đã tạo ra một vòng cung xung quanh Đài Loan, ngăn cản mong muốn độc lập của hòn đảo này.[1]
Về phương diện năng lượng, Biển Đông được dự đoán chứa đựng tiềm năng dầu khí rất lớn. Có những con số ước tính khác nhau về trữ lượng dầu khí ở Biển Đông - thậm chí rất chênh lệch nhau,[2] một phần do tranh chấp nên các nước đã không thể điều tra ra được con số chính xác. Tuy nhiên, nhiều khả năng nguồn năng lượng tại Biển Đông đã bị thổi phồng quá mức. Thậm chí trong trường hợp khai thác có hiệu quả, thì sản lượng sẽ chỉ đáp ứng được một phần nhỏ so với nhu cầu rất lớn trong tương lai.
Mặt khác, để giải quyết vấn đề an ninh năng lượng, Trung Quốc và các quốc gia ASEAN đang tìm cách đa dạng hóa nguồn cung năng lượng. Hiện Trung Quốc đang tập trung khai thác dầu mỏ, khí đốt tại các khu vực càng gần càng tốt (nhằm hạn chế tối đa chi phí vận chuyển và đảm bảo nguồn cung năng lượng trong bối cảnh bất ổn tại Trung Đông). Vì vậy, Biển Đông trở thành tâm điểm chiến lược an ninh năng lượng của nước này. Việc Trung Quốc thúc đẩy “gác tranh chấp, cùng khai thác” tại Biển Đông là biện pháp cần thiết giúp Bắc Kinh giải quyết vấn đề an ninh năng lượng.
Ngoài ra, vào thời điểm hiện tại, tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc được duy trì và củng cố nhờ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao. Sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào sự ổn định nguồn cung năng lượng và tự do hàng hải.[3] Tuy nhiên, Trung Quốc lại không yên tâm với tình thế hiện tại khi việc đảm bảo an toàn cho các tuyến đường vận tải trên biển (SLOC) lại thuộc về hải quân Mỹ. Trung Quốc muốn bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mang tính sống còn đối với nền kinh tế Trung Quốc, chẳng hạn như các tuyến đường qua Biển Đông và Eo biển Malacca. Nếu các tuyến đường này bị phong tỏa trong một ngày và nguồn cung năng lượng của Trung Quốc bị gián đoạn, nó sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn đối với Trung Quốc.[4] Do đó, Bắc Kinh có mối quan ngại hợp lý khi phát triển các lực lượng hải quân nhằm bảo về các SLOC của mình. Tuy nhiên, vệc hiện đại hóa hải quân và quân đội của Trung Quốc đang đặt ra những thách thức đối với trật tự Đông Á.
ASEAN
Do tác động bên ngoài và những lợi ích khác nhau, các nước ASEAN có những quan điểm khác nhau trong vấn đề Biển Đông. Thậm chí các nước yêu sách trong ASEAN, bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đôi khi cũng không có tiếng nói chung. Trong số các quốc gia yêu sách, Việt Nam và Philippines là hai quốc gia có nhiều “va chạm” nhất với Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó, cả hai đều là những quốc gia chủ động nhất kêu gọi sự đoàn kết ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Kể từ khi Mỹ tuyên bố chiến lược “tái cân bằng châu Á”, Philippines đã tự tin hơn, đưa ra các sáng kiến mới tại các diễn đàn của ASEAN.
Mặc dù là quốc gia có yêu sách tại Biển Đông nhưng Malaysia và Brunei lại không bị Trung Quốc đe dọa trực tiếp trên biển và họ thường chú trọng nhiều hơn đến mối quan hệ với Trung Quốc.
Trong số các quốc gia không có yêu sách, Singapore và Indonesia có quan điểm trung lập. Họ không ủng hộ yêu sách của bất kỳ bên nào. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore đã từng bình luận rằng: “Singapore không phải là một quốc gia có yêu sách và không ủng hộ lập trường hay yêu sách nào của các bên tại Biển Đông. Nhưng là quốc gia dựa vào thương mại, Singapore có mối quan tâm đặc biệt đến mọi vấn đề ảnh hưởng đến tự do hàng hải trên tất cả các tuyến đường biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông”.[5] Indonesia có truyền thống đóng vai trò trung gian hòa giải, tổ chức nhiều hội thảo về quản lý xung đột tiềm tàng tại Biển Đông trong hơn 20 năm qua nên tích cực thúc đẩy quan điểm chung của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Vai trò trung gian hòa giải tích cực của Indonesia trong vấn đề Biển Đông giúp củng cố hình ảnh của quốc gia này - một trong những thành viên tin cậy nhất trong ASEAN. Lào, Thái Lan và Myanmar không có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông, do vậy họ rất ít khi thể hiện quan điểm của mình. Campuchia - quốc gia có mối quan hệ kinh tế và chính trị gắn bó với Trung Quốc - ở mức độ nào đó, ủng hộ quan điểm đàm phán song phương của Trung Quốc.
Mặc dù các thành viên ASEAN có những lợi ích khác nhau tại Biển Đông, nhưng tất cả đều có lợi ích chung trong việc bảo đảm tự do hàng hải, hòa bình, ổn định khu vực, tôn trọng luật quốc tế, cũng như duy trì đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN. Mười nước thành viên ASEAN đều đã tham gia đàm phán và ký kết Tuyên bố Ứng xử (DOC) năm 2002 và hiện đều có quan điểm chung muốn thúc đẩy đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) với Trung Quốc nhằm quản lý hiệu quả các tranh chấp và thúc đẩy hòa bình, hợp tác khu vực.
Mỹ
Là siêu cường duy nhất, Mỹ có lợi ích trực tiếp tại Biển Đông trên nhiều khía cạnh: (i) duy trì trật tự trên biển do Mỹ làm chủ đạo, bao gồm cả luật biển quốc tế theo cách giải thích của Mỹ, đặc biệt là về tự do hàng hải - trong đó có tự do hoạt động của tàu quân sự Mỹ; (ii) bảo vệ lợi ích các đồng minh, đặc biệt là các tuyến đường biển chiến lược của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines; (iii) kiểm soát sự lớn mạnh của (hải quân) Trung Quốc để đảm bảo rằng sự phát triển của quốc gia này không đảo lộn hệ thống hiện tại do Mỹ chi phối; (iv) bảo đảm lợi ích của các tập đoàn dầu khí Mỹ trong khu vực. Những lợi ích này đều mang tính căn bản và bất biến; sẽ rất khó cho Mỹ thỏa hiệp với Trung Quốc vì tất cả những lợi ích đó đều gắn chặt với vị thế lãnh đạo mà Mỹ mong muốn duy trì trong hệ thống toàn cầu hiện nay.
Chính sách của các bên tại Biển Đông
Trung Quốc
Là bên tranh chấp mạnh nhất, chính sách của Trung Quốc quyết định cục diện của tình hình Biển Đông.
Kể từ đầu những năm 2000, để thực hiện chiến lược “phát triển hòa bình”, Trung Quốc đã tiến hành chính sách “tấn công hấp dẫn” (charm offensive) bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm thúc đẩy hợp tác với ASEAN. Trung Quốc điều chỉnh lập trường đối với ARF và ký Tuyên bố Ứng xử các bên tại Biển Đông (DOC) vào năm 2002. Sau khi ký kết DOC, mặc dù Trung Quốc không chủ động hợp tác với ASEAN trong việc thực hiện tuyên bố chung này nhưng Trung Quốc cũng không thực hiện thêm bất kỳ hoạt động đáng kể nào đe dọa đến ổn định tại Biển Đông.
Tuy nhiên, kể từ năm 2009, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách đối với vấn đề Biển Đông và ngày càng trở nên quyết đoán hơn. Nước này đã gia tăng đáng kể sự hiện diện trên Biển Đông, không chỉ về quân sự mà cả về các hoạt động dân sự và bán quân sự tại khu vực này, nhằm giành kiểm soát thực tế (de-facto) Biển Đông thông qua việc khẳng định Đường lưỡi bò.
Liên quan đến các hoạt động quân sự, Trung Quốc đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân bằng việc xây dựng căn cứ hải quân Tam Á – căn cứ được coi là cánh cửa mở ra Biển Đông. Nhằm gửi đi thông điệp “răn đe” các nước tranh chấp khác trong ASEAN tại Biển Đông, hải quân Trung Quốc đã tăng cường tần suất và mức độ phối hợp thực hiện tập trận tại Biển Đông. Sự kiện quan trọng nhất xảy ra vào tháng 7 năm 2012 là khi lần đầu tiên Hải quân Trung Quốc (PLAN) đã huy động ít nhất hơn chục tàu chiến từ 3 hạm đội (Hạm đội Bắc Hải, Hạm đội Đông hải và Hạm đội Nam hải) tiến hành cuộc tập trận chung quy mô lớn trên Biển Đông.[6] Gần đây nhất là vào ngày 28 tháng 6 năm 2012, Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố bắt đầu tuần tra sẵn sàng chiến đấu tại các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.[7]
Hải quân Trung Quốc tích cực triển khai chiến lược “chống tiếp cận/phong tỏa khu vực” trên biển, một ví dụ điển hình của chiến lược này là vụ quấy nhiễu tàu USNS Impeccable của Mỹ vào tháng 3 năm 2009, nhằm đẩy hải quân Mỹ ra xa bờ biển của Trung Quốc và biến vùng đặc quyền kinh tế thành vùng đặc quyền quân sự. Mặt khác, PLAN đã chuyển từ “phòng thủ chủ động gần bờ” trên chuỗi đảo thứ nhất (từ Kurile, Đài Loan tới Biển Đông) sang “phòng thủ xa bờ” trong chuỗi đảo thứ hai (từ Nhật Bản, Guam (Mỹ) tới Bắc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương). Vì vậy, Trung Quốc đang đầu tư cho lực lượng “Hải quân xanh” (blue-water navy), bao gồm cả việc phát triển chiếc tàu sân bay đầu tiên của mình.[8] Hệ quả của việc hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc, đặc biệt là Hải quân xanh là cân bằng về sức mạnh (cứng) ở khu vực đang chuyển dịch có lợi cho quốc gia này.
Liên quan đến các hoạt động bán quân sự, Trung Quốc đã triển khai một cách có hệ thống các tàu và tàu tuần tra từ các cơ quan chấp pháp biển khác nhau ở Biển Đông. Trung Quốc có ít nhất 5 cơ quan chấp pháp biển: Tuần duyên Trung Quốc là đơn vị thuộc thuộc Lực lượng Công an Biên phòng, một lực lượng thuộc sự quản lý của Bộ Công an; Cơ quan An toàn Hàng hải Trung Quốc thuộc Bộ Giao thông, có chức năng phối hợp tìm kiếm cứu nạn; Hải giám Trung Quốc (CMS), đơn vị chấp pháp bán quân sự thuộc Cơ quan Hải dương Quốc gia; Lực lượng Chấp pháp Ngư nghiệp Trung Quốc (FLEC) (cơ quan thuộc Cục Quản lý Ngư nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp) có trách nhiệm chấp pháp đối với các hoạt động liên quan đến đánh bắt cá và tài nguyên biển; và Tổng cục Hải quan thực hiện các hoạt động chống buôn lậu trên biển. Một số học giả cho rằng mỗi cơ quan trên đều có tàu tuần tra riêng và hoạt động độc lập và không có sự phối hợp với nhau.[9]
Trong suốt thời gian ban hành lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương của Trung Quốc từ tháng 5 đến tháng 8 (áp đặt hàng năm từ 1999), các lực lượng an ninh trên biển của Trung Quốc nhiều lần đã bắt giữ ngư dân Việt Nam, tịch thu tàu và đòi các khoản tiền phạt từ 8.000USD đến 10.000USD để thả họ. Đầu tháng 4 năm 2010, Bắc Kinh thậm chí thông báo đưa hai tàu tuần tra nghề cá lớn tới Đảo Trường Sa để bảo vệ các tàu cá Trung Quốc mà số lượng ngày càng tăng và đi xa hơn về phía nam. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc làm như vậy ngoài thời gian của lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương.[10] Ngày 23 tháng 6 năm 2010, tàu Ngư chính 311 của Trung Quốc đã chĩa súng máy cỡ lớn vào một tàu hải quân của Indonesia và đe dọa tấn công tàu này khi một tàu cá Trung Quốc bị lực lượng của Indonesia bắt giữ ở khu vực bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở Đảo Natuna.[11]
Trên thực tế, việc Trung Quốc đang tăng cường triển khai các lực lượng bán quân sự để tuần tra ở Biển Đông là một bước đi vừa để củng cố yêu sách của nước này đối với các khu vực tranh chấp, đồng thời phát đi thông điệp rằng Trung Quốc chỉ sử dụng “các biện pháp hòa bình.” Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu lực lượng được trang bị tốt và đầy sức mạnh không thể bảo vệ được lợi ích của Trung Quốc, liệu nước này có do dự khi sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ các lợi ích của mình hay không?
Về vấn đề khai thác năng lượng ở Biển Đông, từ mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã đe dọa một số công ty dầu khí nước ngoài phải dừng các hoạt động thăm dò xa bờ với các đối tác Việt Nam hoặc phải đối mặt với hậu quả khôn lường trong hoạt động kinh doanh của những công ty này với Trung Quốc.[12] Trong khi phản đối các quốc gia khác tiến hành khai thác năng lượng ở những khu vực bên trong Đường lưỡi bò, Trung Quốc lại ủng hộ việc khai thác chung nguồn tài nguyên năng lượng bên trong đường yêu sách này ở Biển Đông.
Một số nhân tố đối nội và đối ngoại giúp giải thích việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán trong những năm gần đây.
Những yếu tố bên trong bao gồm: (i) Làn sóng dân tộc chủ nghĩa gia tăng ở Trung Quốc: người dân Trung Quốc tin rằng các bên tranh chấp khác đang bòn rút “dầu của Trung Quốc” và đánh bắt “cá của Trung Quốc”, trong khi nước này không thu được bất kỳ giọt dầu nào từ Quần đảo Trường Sa, và ngư dân Trung Quốc đang bị bắt giữ và xua đuổi;[13] (ii) Quá trình chuyển giao lãnh đạo ở Trung Quốc và đấu tranh chính trị nội bộ khiến cho không một lãnh đạo nào của Trung Quốc muốn thể hiện “sự mềm yếu” trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; (iii) Các nhóm lợi ích: Một số hoạt động đã được các nhóm lợi ích (như ngư chính, hải giám…) tiến hành mà không có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương[14], trong khi các vị lãnh đạo cấp cao lại đang bận rộn với việc chuyển giao quyền lực và những vấn đề đối nội khác; (iv) Nhu cầu năng lượng: như đã nêu trên, Trung Quốc coi Biển Đông là nguồn cung cấp quan trọng và tuyến giao thông thiết yếu phục vụ việc phát triển quốc gia.
Xét yếu tố bên ngoài, có hai nhân tố góp phần giải thích cho việc hành xử quyết đoán của Trung Quốc trong những năm gần đây, liên quan mật thiết đến hai góc khác trong tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ. Trung Quốc tin rằng sức mạnh của Mỹ đang suy giảm do các vấn đề tài chính và kinh tế trong năm 2009-2010, do vậy Trung Quốc trở nên tự tin hơn và tìm cách tăng cường ảnh hưởng và lợi ích của mình ở Đông Á, trong đó Biển Đông là khu vực trọng tâm. Sự quyết đoán của Trung Quốc một phần là phép thử phản ứng của Mỹ. Thứ hai, những hành động của các nước yêu sách trong ASEAN buộc Trung Quốc phải phản ứng lại. Đây là lập luận chính của Trung Quốc khi nước này cáo buộc các quốc gia yêu sách khác gây căng thẳng và xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, hoạt động các quốc gia yêu sách ASEAN được tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế của họ trong nhiều năm mà không hề có sự phản đối của Trung Quốc. Lý do chính Trung Quốc tăng cường phản đối những hoạt động này là vì Trung Quốc đã công khai trên bình diện quốc tế tấm bản đồ yêu sách Đường lưỡi bò vào năm 2009; bất kỳ hoạt động nào xâm phạm Đường lưỡi bò được coi là vi phạm chủ quyền và ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc.
ASEAN
Đối mặt với những hành động ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, các quốc gia yêu sách ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines, đã áp dụng một chính sách tương đối toàn diện để bảo vệ những lợi ích quốc gia của họ, đồng thời cố gắng gìn giữ môi trường hòa bình bên ngoài. Chính sách này kết hợp giữa việc: sử dụng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển, để bảo vệ những yêu sách và quyền lợi của mình; phản đối việc khai thác chung với Trung Quốc ở những khu vực bên trong vùng đặc quyền kinh tế được quốc tế công nhận; đưa vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn khu vực để thảo luận với sự tham gia các cường quốc bên ngoài khác; hợp tác cùng các thành viên của ASEAN trong can dự Trung Quốc nhằm thực thi DOC và hướng tới một bộ quy tắc ứng xử mới; và đàm phán trực tiếp với Trung Quốc để giảm bớt căng thẳng và giải quyết các vấn đề song phương còn tồn tại.
Đối phó với yêu sách Đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước tranh chấp trong ASEAN đang cố gắng phân tách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đất liền (hay từ các đảo không tranh chấp gần bờ) và khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Để tối thiểu hóa khu vực tranh chấp, các nước ASEAN lựa chọn cách diễn giải UNCLOS, đặc biệt là Điều 121 về “quy chế đảo” theo một cách thức hạn chế.[15] Các nước này - trực tiếp hoặc gián tiếp - không coi bất kỳ thực thể đang tranh chấp nào ở Biển Đông là đảo, như định nghĩa trong Điều 121 của UNCLOS, do đó chúng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà chỉ có tối đa là lãnh hải 12 hải lý.[16] Điều này đồng nghĩa với việc các nước này giới hạn phạm vi tranh chấp chỉ là các đảo đá và lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo đá này.
Hầu hết các nước ASEAN – trực tiếp hoặc gián tiếp- đều có quan điểm phê phán Đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ngay sau khi Trung Quốc công khai hóa Đường lưỡi bò trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc năm 2009, Việt Nam ngay lập tức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc phản đối Công hàm có bản đồ Đường lưỡi bò của Trung Quốc, trong đó nêu rõ: “Tuyên bố đường chín đoạn trên bản đồ gửi kèm theo Công hàm ngoại giao của Trung Quốc là vô giá trị và không có hiệu lực vì nó không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế.”[17]
Ngày 08/07/2010, Indonesia gửi Công hàm đến Liên Hợp Quốc phản đối bản đồ của Trung Quốc: “cái gọi là bản đồ đường chín đoạn trong Công hàm của Trung Quốc rõ ràng là thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và ngang với việc bác bỏ Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc 1982.” [18]
Ngày 05/04/2011, Philippines gửi Công hàm tới Liên Hợp Quốc phản đối đường chín đoạn của Trung Quốc. Tiếp theo Việt Nam và Indonesia, Philippines phản đối cơ sở lịch sử (nếu có) Trung Quốc về đường chín đoạn. [19] Công hàm nêu rõ rằng tuyên bố của Trung Quốc về các khu vực ngoài các “thực thể địa lý” ở nhóm Kalayan và “vùng nước lân cận” không có cơ sở pháp lý theo luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và “liên quan đến các khu vực này, chủ quyền, quyền tài phán và quyền chủ quyền … thuộc về các nước ven biển và quần đảo tương ứng.” Sự mở rộng của vùng nước “lân cận” với “thực thể địa lý” tương ứng được định nghĩa trong các điều luật của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt là Điều 121 xác định quy chế các đảo.[20] Philippines ngày 21 tháng 1 năm 2013 đã quyết định đơn phương kiện Trung Quốc tại Tòa Trong tài thành lập theo Công ước Luật Biển 1982, nội dung chính của đơn kiện là phản đối đường lưỡi bò của Trung Quốc.[21]
Singapore tuy không phải là nước có tranh chấp ở Biển Đông nhưng cũng kêu gọi Trung Quốc làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông. Ngày 20/06/2011, bình luận về chuyến viếng thăm Singapore của tàu Hải tuần 31 của Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore cho biết:
Chúng tôi nghĩ rằng Trung Quốc có lợi ích trong việc làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông một cách chính xác hơn bởi sự mập mờ gần đây trong phạm vi những yêu sách này đã gây quan ngại sâu sắc trong cộng đồng các quốc gia biển quốc tế. Những vụ việc gần đây đã làm tăng thêm lo ngại này và đặt ra câu hỏi nghiêm túc về việc diễn giải Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).[22]
Các nước ASEAN khác tuy không nêu rõ quan điểm nhưng lại thống nhất với nhau trong các văn kiện chung của hiệp hội. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN vào tháng 07/2012 tại Campuchia đã thông qua “Đề xuất của ASEAN về các thành tố cơ bản của Bộ Quy tắc Ứng xử khu vực ở Biển Đông (COC) giữa các Quốc gia thành viên ASEAN và Cộng hòa Nhân dân Trung hoa”. COC do ASEAN đề xuất là một tài liệu pháp lý và là một trong các mục tiêu của ASEAN nhằm:
Thúc đẩy các nỗ lực làm rõ tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Khuyến khích các bên liên quan hợp tác cùng nhau để xác định và làm rõ tranh chấp biển và lãnh thổ ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS.[23]
COC cũng ràng buộc các bên “cam kết tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước ven biển theo quy định của UNCLOS 1982,” [24] - gián tiếp phản bác yêu sách Đường lưỡi bò của Trung Quốc chồng lấn lên các vùng biển của các quốc gia ven biển ASEAN.
Mỹ
Sau một thời gian dài hiện diện ở Trung Đông và Afghanistan trong cuộc chiến chống khủng bố, Mỹ đã “chuyển trọng tâm” sang Châu Á để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Biển Đông trở thành trọng tâm trong chiến lược “tái cân bằng Châu Á” của chính quyền Obama. Sự chuyển dịch trong chính sách của Mỹ mang tính toàn diện. Về chính trị và ngoại giao, Mỹ can dự sâu hơn ở Châu Á – Thái Bình Dương thông qua việc tăng số lượng các cuộc viếng thăm khu vực của Tổng thống, Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng và các quan chức cấp cao khác. Về mặt kinh tế, sau khi phê chuẩn Hiệp định mậu dịch tự do với Hàn Quốc, Mỹ tập trung vào Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). TPP mang thành tố chiến lược nhằm tăng cường quan hệ giữa Mỹ với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để đối trọng với các cơ chế kinh tế đa phương với Trung Quốc làm trung tâm như CAFTA, ASEAN+3. Về quân sự, dù ngân sách chung bị cắt giảm, nhưng ngân sách dành cho Bộ tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (PACOM) không bị ảnh hưởng.[25] Ngược lại, Mỹ còn tăng cường phạm vi hiện diện các lực lượng PACOM, bao gồm “trạm quân sự” mới tại Úc. Mỹ đang lên kế hoạch chuyển phần lớn hải quân tới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 11 tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tuyên bố rằng 60% tàu chiến Mỹ sẽ đóng ở Thái Bình Dương đến năm 2020. [26] Ngoài ra, trong những năm gần đây, Mỹ còn tăng cường hợp tác với Nhật và Philippines về các vấn đề an ninh biển.
Tại ARF-17 năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã lần đầu tiên tuyên bố lợi ích quốc gia của Mỹ tại Biển Đông, trong đó có tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và hoạt động thương mại không bị cản trở. Mỹ cũng gián tiếp bác bỏ bất cứ lập luận nào về “vùng nước lịch sử” hay “quyền lịch sử” của đường lưỡi bò, điều này được thể hiện qua phát biểu của bà Clinton rằng: “Theo như luật tập quán quốc tế, các yêu sách hợp pháp đối với các vùng biển tại Biển Đông chỉ có thể xuất pháp từ các yêu sách hợp pháp đối với các thực thể đảo.”[27] Phát biểu tại một phiên điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thương viện Mỹ, Ngoại trưởng Clinton nói rằng: “các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông vượt qua những gì mà UNCLOS cho phép”.[28]
Tương tác trong tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ
Như đã đề cập ở trên, sự tương tác giữa các cạnh trong tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ trong vấn đề Biển Đông có các động lực riêng của nó. Trung Quốc quyết đoán tại Biển Đông đã khiến các nước ASEAN liên quan đến tranh chấp lo ngại về an ninh của họ cũng như sự ổn định ở khu vực. Nhìn chung, Trung Quốc càng quyết đoán ở Biển Đông thì sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á càng giảm sút. Chính sách “tấn công hấp dẫn” do Trung Quốc tiến hành hơn mười năm về trước tại Đông Nam Á đã không còn phát huy hiệu quả. Mặc dù hầu hết các nước ASEAN đều có lợi ích trong quan hệ kinh tế-thương mại với Trung Quốc, các nước này ngày càng cảnh giác trước ý đồ của Bắc Kinh. Một mặt, các nước ASEAN phát triển quan hệ kinh tế với Trung Quốc; mặt khác, họ tăng cường quan hệ an ninh với Mỹ và hoan nghênh sự hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực. Một vài quốc gia ASEAN cũng đã tiến hành các động thái nhằm hiện đại hóa quân sự, tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để cân bằng lại quyền lực ở khu vực này. Do đó, Mỹ càng có nhiều lý do để can dự vào Đông Nam Á và tạo ảnh hưởng đối với vấn đề Biển Đông.
Với Mỹ, một mặt cạnh tranh với Trung Quốc để việc duy trì vị thế lãnh đạo tại Châu Á – Thái Bình Dương, mặt khác Mỹ cũng cần hợp tác với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh đó, vấn đề Biển Đông giúp Mỹ có cớ để duy trì can dự tại khu vực và tập hợp lực lượng để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Trung Quốc càng hùng mạnh bao nhiêu thì lợi ích của Mỹ tại châu Á cũng sẽ lớn lên bấy nhiêu. Vì thế, Mỹ tái khẳng định lợi ích và lập trường của nước này về vấn đề Biển Đông tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) 17, 18, 19 và tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) 2011 là các diễn biến logic. Trong một vài năm tới, nhiều khả năng Mỹ sẽ tiếp tục duy trì lập trường trên, cho dù là với các mức độ khác nhau tại các diễn đàn khu vực khác nhau.
Ở một góc độ khác, chính sách và lập trường của của Mỹ ảnh hưởng lên cả lập trường của những nước khác, đặc biệt là những nước có mối quan hệ gần gũi với Washington. Tiếp sau Mỹ, các quốc gia có lợi ích tại Biển Đông như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và ngay cả một số quốc gia EU khác cũng bày tỏ quan ngại về các diễn biến gần đây tại Biển Đông. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành vấn đề quốc tế và được các bên có liên quan đề cập tại nhiều diễn đàn đa phương khác nhau (như ARF, EAS, ASEM…).
Ngoài ra, việc Trung Quốc đe dọa các công ty dầu mỏ và khí đốt quốc tế trong làm ăn với các nước ASEAN đã không ngăn cản được các công ty này nhưng lại tạo cớ cho Mỹ bày tỏ quan điểm của mình về “hoạt động thương mại không bị cản trở” và khiến Mỹ quyết tâm hơn trong việc bảo vệ lợi ích của các tập đoàn Mỹ. Một hậu quả nữa của hành động này đó là nó đã khiến các nước nhỏ hơn tại Đông Nam Á tìm cách hợp tác với các công ty dầu mỏ và khí đốt của các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật và Ấn Độ- những nước mà Trung Quốc không thể đe dọa. Kết quả là Biển Đông đã trở thành vấn đề có sự đan xen lợi ích của các cường quốc và đang ngày càng được quốc tế hóa – một cục diện mà Trung Quốc không hề mong muốn.
Quan trọng hơn, Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề chính yếu trong quan hệ Mỹ-Trung. Trong những năm trước đây, khi vấn đề Biển Đông luôn là một trong các ưu tiên chính sách đối ngoại của các nước có tranh chấp trong ASEAN thì vấn đề này chỉ là ưu tiên hạng hai trong chính sách của Trung Quốc, ít nhất là so với chính sách của Trung Quốc trong mối quan hệ với các nước lớn. Hiện nay, khi vấn đề Biển Đông trở thành một trong những ưu tiên chính sách đối ngoại của Trung Quốc thì cách tiếp cận của Trung Quốc sẽ trở nên đồng bộ và thống nhất hơn. Trung ương có thể điều phối và hạn chế yếu tố cạnh tranh và thiếu hợp tác giữa các “nhóm lợi ích” khác nhau –nhân tố chính khiến tình hình Biển Đông nóng lên. Do đó, chính sách Biển Đông của Trung Quốc có thể được điều chỉnh một cách linh hoạt khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc thấy cần thiết. Diễn biến này có cả tác động tích cực và tiêu cực cho ASEAN, phụ thuộc vào việc liệu các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định điều chỉnh chính sách mềm mỏng hay cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông.
Những diễn biến trong nửa cuối năm 2011 cho thấy các dấu hiệu tích cực khi Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng trong chính sách Biển Đông của nước này. Khi lãnh đạo Trung Quốc nhận ra hậu quả tiêu cực do sự quyết đoán ngày càng tăng gần đây trển Biển Đông, họ đã điều chỉnh chính sách mang tính toàn diện hơn: từ khởi động “cuộc tấn công quyến rũ” lần hai tới các nước ASEAN thông qua các biện pháp kinh tế và tài chính cho đến kiềm chế không sử dụng thêm các hành động đe dọa trên biển. Giai đoạn sau đó, không có thêm thông tin nào về việc bắt giữ các ngư dân Việt Nam hoặc tịch thu các tàu cá của Việt Nam như những năm trước cho dù Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong khu vực ở phía bắc của vĩ tuyến 12 tại Biển Đông trong khoảng thời gian từ 16/5 cho đến 1/8 năm 2011. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc cũng không cản phá hoạt động thăm dò dầu mỏ và khí đốt của Việt Nam và Philippines tại khu vực nằm trong Đường lưỡi bò ở Biển Đông. Trung Quốc cũng ký Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC với ASEAN và Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển với Việt Nam. Trung Quốc cũng để ngỏ việc thảo luận với ASEAN về việc xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử COC “khi thời cơ chín muồi”.[29] Trung Quốc chấp nhận thảo luận với ASEAN về vấn đề Biển Đông để chứng minh với cộng đồng quốc tế rằng ASEAN và Trung Quốc có thể hợp tác cùng nhau trong việc quản lý tranh chấp và không cần thiết có sự can dự từ bên ngoài vào vấn đề Biển Đông.
Cuộc đối đầu ở Bãi cạn Scarborough với Philippines cho thấy cách tiếp cận của Trung Quốc mang tính phối hợp và tập trung, nhưng theo hướng ngược lại. Để ngăn chặn Philippines, Trung Quốc cũng áp dụng một cách tiếp cận đồng bộ và toàn diện, từ việc gây áp lực về ngoại giao, tăng cường hiện diện ở khu vực tranh chấp với hàng trăm tàu cá và tàu chấp pháp từ các cơ quan khác nhau (Hải giám và Ngư chính), áp dụng việc trừng phạt kinh tế đối với các sản phẩm nông nghiệp của Philippines và tăng cường hoạt động tuyên truyền ra quốc tế. Để đáp trả việc Việt Nam thông qua Luật Biển, Trung Quốc cũng đã tiến hành đồng thời các biện pháp đa chiều như đưa ra phản đối ngoại giao; thiết lập thành phố Tam Sa để quản lý quần đảo Hoàng Sa, Bãi Macclesfield, Quần đảo Trường Sa và “các vùng nước liền kề” ở Biển Đông[30]; mời thầu quốc tế các lô dầu khí bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam[31]; triển khai một số lượng lớn các tàu tuần tra ở Biển Đông; và đồn trú lực lượng quân sự ở “thành phố Tam Sa” được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Trong quan hệ với ASEAN, để ảnh hưởng đến cuộc thảo luận nội khối ASEAN, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã thăm Campuchia trước khi khai mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 4, Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt cũng có chuyến thăm chính thức Campuchia lúc diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 6 (ADMM) vào tháng 5, một cách không chính thức biến ADMM thành ADMM+1.
Kết quả của việc áp dụng một cách tiếp cận toàn diện, đồng bộ và tập trung, chính sách Biển Đông của Trung Quốc là nhằm hướng tới “tranh chấp mở rộng với cường độ thấp”. Chính sách này là sự kết hợp giữa: tăng cường sự hiện diện, kiểm soát của lực lượng dân sự và bán quân sự ở tất cả các khu vực bên trong đường lưỡi bò; kiềm chế sử dụng các lực lượng quân sự; hứa hẹn đầu tư mạnh mẽ về kinh tế đối với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các nước không tranh chấp; và tích cực tăng cường áp lực ngoại giao để ngăn cản ASEAN hình thành một lập trường chung về Biển Đông. Với cách thức này, Trung Quốc tăng khả năng hạn chế Mỹ can dự vào vấn đề Biển Đông.
Mỹ hiện tại đang ở trong một tình thế khó xử. Việc chưa gia nhập Công ước Luật Biển đã làm hạn chế tính chính danh của Mỹ khi chỉ trích các quốc gia khác không tôn trọng luật biển. Sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng hải quân Mỹ không ảnh hưởng nhiều đến cuộc tranh giành quyền kiểm soát tài nguyên ở Biển Đông - chủ yếu diễn ra giữa tàu chấp pháp của các nước ven biển. Việc Trung Quốc thành công khi đẩy lùi Philippines và thiết lập sự hiện diện của nước này ở Bãi cạn Scarborough bất chấp các nỗ lực của Mỹ nhằm giảm bớt căng thẳng cho thấy những giới hạn trong sự can dự của Mỹ. Trên khía cạnh chính trị khu vực, các quốc gia ASEAN hiện lưu tâm nhiều đến mối quan ngại của Trung Quốc hơn là của Mỹ. Về ngoại giao đa phương, tác động từ “tuyên bố của Clinton tại ARF-17” không còn mạnh mẽ như trước, nhất là khi Mỹ không đưa ra bất kỳ quan điểm nào trong những bài phát biểu gần đây tại các diễn đàn khu vực.
ASEAN đang phải đối mặt với thách thức lớn nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ ngày càng gia tăng ở Đông Nam Á, liệu ASEAN sẽ bị chia rẽ hay đoàn kết hơn để duy trì tính trung tâm của khối trong cấu trúc an ninh khu vực? Vai trò của ASEAN trong việc quản lý các tranh chấp ở Biển Đông có thể bị hạn chế bởi sự chia rẽ trong nội khối và những tác động từ bên ngoài, thậm chí sau khi kết thúc năm chủ tịch của Campuchia.
Kết luận: Tái cân bằng tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ ở Biển Đông
Tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ ở Biển Đông ở thời điểm hiện tại bị thiếu cân bằng khi Trung Quốc đang chiếm ưu thế trên biển và trên các diễn đàn ngoại giao, Mỹ vẫn đang tìm kiếm cách thức tiếp cận để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy và ASEAN bị phân hóa, về mặt thể chế có thể bị thao túng bởi bất kỳ nước chủ tịch hay thậm chí là một thành viên riêng lẻ nào.
Tuy nhiên, có khả năng những gì Trung Quốc thu được chỉ là tạm thời; về lâu dài những gì Trung Quốc có thể mất nhiều hơn những gì mà nước này đạt được. Những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian dài được coi là “thuốc thử” đối với việc Trung Quốc sẽ theo đuổi chính sách trỗi dậy hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, hay nước này muốn “sửa lại các luật lệ”. Tuy nhiên, việc Trung Quốc cho phép Tập đoàn Dầu khí Hải dương Quốc gia (CNOOC) mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam rõ ràng là một tiền lệ của việc bất chấp luật pháp quốc tế. Đứng trước thách thức luật pháp quốc tế bị coi nhẹ và vai trò trung tâm của ASEAN bị ảnh hưởng, các quốc gia ASEAN không có lựa chọn ngoài việc nêu ra mối quan ngại chung của họ một cách thường xuyên hơn trong các diễn đàn khu vực.
Về phía Mỹ, Biển Đông không chỉ liên quan đến lợi ích chiến lược của nước này, mà còn là uy tín của sức mạnh Mỹ. Nhưng nếu Trung Quốc tiếp tục sử dụng các biện pháp phi quân sự trên biển và áp dụng cách thức ngoại giao và kinh tế để chi phối chính sách của các nước ASEAN, Mỹ không thể can thiệp và gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Những gì mà Mỹ có thế làm để đối phó với chiến lược của Trung Quốc là bổ sung thêm các thành tố khác vào chiến lược của mình như yếu tố bán quân sự và kinh tế, điều mà Mỹ đã xao lãng trong nhiều năm qua.
Do Bắc Kinh có thể đề ra một chính sách phối hợp và thống nhất trong vấn đề Biển Đông, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ đặt vấn đề này trong một bức tranh tổng thể của toàn bộ chính sách đối ngoại của mình. Khi Trung Quốc phải quan tâm đến các lợi ích khác trong quan hệ với Mỹ, ASEAN hơn lợi ích biển cụ thể ở Biển Đông, các nước khác có thể hy vọng về một cách tiếp cận ôn hòa hơn của Trung Quốc ở Biển Đông./.
TS. Trần Trường Thủy

Bản dịch tham luận tại Hội thảo quốc tế lần thứ 4 "Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực" do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2012. Đọc bản gốc tại đây



[1] Tham luận của Daniel Schaeffer tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần 3
[2] Năm 1998, các nhà địa chất Mỹ ước tính Biển Đông có khoảng 2,1 – 15,8 tỷ thùng dầu tại Trường Sa, trong khi các nguồn của Nga thì lại ước tính có khoảng 7,5 tỷ thùng. Năm 2003, Trung Quốc khẳng định khu vực quần đảo Hoàng Sa có trữ lượng 41 tỷ thùng dầu, 8 – 10 tỷ mét khối khí đốt, khoảng 3,1 tỷ tấn nguồn tài nguyên khác và trên 630 triệu kW năng lượng tái sinh.
[3] Báo cáo của CNAS: Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea, xem tạihttp://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf
[4] Báo cáo của CNAS
[5] Phát biểu của Người phát ngôn Bộ ngoại giao Singapore trong chuyến thăm của tàu Hải tuần 31 tới Singapore.
http://www.mfa.gov.sg/content/mfa/overseasmission/phnom_penh/press_statements_speeches/embassy
_news_press_releases/2011/201106/press_201106_5.html
[6] “China's three-point naval strategy”, Strategic Comment, Volume 16, Comment 37 – tháng 10, 2010, The International Institute For Strategic Studies (IISS),
http://www.iiss.org/publications/strategic-comments/past-issues/volume-16-2010/october/chinas-three-point-naval-strategy/
[7] “China pledges to protect maritime sovereignty”,http://www.chinadaily.com.cn/china/2012-06/29/content_15533944.htm
[8] Ian Storey, “Asia’s Changing Balance of Military Power: Implications for the South China Sea Dispute “ in NBR Report Maritime Energy Resources in Asia: Energy and Geopolitics, Clive Schofield edited
[9] Xem thêm: Lyle J. Goldstein, Five Dragons Stirring Up the Sea: Challenge and Opportunity in China’s Improving Maritime Enforcement Capabilities, U.S. Naval War College, China Maritime Study 5, April 2010. http://www.usnwc.edu/Research---Gaming/China-Maritime-Studies-Institute/Publications/documents/CMSI_No5_web1.pdf
[10]Ian Storey, China’s “Charm Offensive” Loses Momentum in Southeast Asia, China Brief Volume 10 Số 9: ngày 29 tháng 4 năm 2010.
http://www.jamestown.org/single/?no_cache=1&tx_ttnews%5Btt_news%5D=36324&tx_ttnews%5BbackPid%5D=7&cHash=897d20a7fa
[11] “China flexes muscles in South China Sea”, Mainichi Shimbun, ngày 27 tháng 7 năm 2010
[12] Scot Marciel, “Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia” Điều trần trước Tiểu ban về vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, Ủy ban Đối ngoại, Thượng viện Mỹ, ngày 15 tháng 7 năm 2009.http://foreign.senate.gov/hearings/hearing/20090715_2/
Tóm tắt những bức điện ngoại giao của Mỹ bị rò rỉ do WikiLeaks công bố về việc Trung Quốc phản đối các công ty dầu khí quốc tế ký kết thỏa thuận thăm dò với Việt Nam ở Biển Đông, xem Greg Torode, “Beijing pressure intense in South China Sea row”, South China Morning Post, ngày 23 tháng 9 năm 2011.http://topics.scmp.com/news/china-news-watch/article/Beijing-pressure-intense-in-South-China-Sea-row
[13] Mingjiang Li, “Reconciling Assertiveness and Cooperation? China’s Changing Approach to the South China Sea Dispute”, Security Challenges, Tập 6, Số 2 (Mùa Đông 2010), tr 51, tr 58.
[14] Báo cáo ICG
[15] UNCLOS quy định hai loại thực thể theo Điều 121 chi phối “quy chế đảo”: đảo có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, và “đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng” “sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.”
[16] Xem Tran Truong Thuy trong Báo cáo NBR 2011
[17http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/vnm_chn_2009re_mys_vnm_e.pdf
[18]www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf.
[19] Xem Công hàm Philippines tại
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf
[20] Xem Công hàm Philippines tại
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf
[21] http://www.dfa.gov.ph/index.php/newsroom/dfa-releases/7300-statement-by-secretary-of-foreign-affairs-albert-del-rosario-on-the-unclos-arbitral-proceedings-against-china-to-achieve-a-peaceful-and-durable-solution-to-the-dispute-in-the-wps
[22]
Bình luận của người phát ngôn Bộ ngoại giao Singapore về chuyến thăm của Tàu hải tuần 31 tới Singapore.
http://www.mfa.gov.sg/content/mfa/overseasmission/phnom_penh/press_statements_speeches/embassy
_news_press_releases/2011/201106/press_201106_5.html
[23] “ASEAN’s Proposed Elements of a Regional Code of Conduct in the South China Sea (COC) between ASEAN Member States and the People’s Republic of China”
[24] Tlđd
[25] Đại diện PACOM trong trao đổi trực tiếp với tác giả
[26] http://www.iiss.org/conferences/the-shangri-la-dialogue/shangri-la-dialogue-2012/speeches/first-plenary-session/leon-panetta/
[27] Tlđd.
[28] “China's Sea Claims Excessive, Says US”,http://www.mb.com.ph/articles/360386/chinas-sea-claims-excessive-says-us
[29] Phát biểu của Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hội nghị ARF. http://www.fmprc.gov.cn/eng/zxxx/t842183.htm
[30] “Administrative status of islands raised”.http://europe.chinadaily.com.cn/china/2012-06/21/content_15517602.htm
[31] CNOOC: “Notification of Part of Open Blocks in Waters under Jurisdiction of the People’s Republic of China Available for Foreign Cooperation in the Year of 2012”.http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2012-06-22/english/322127.html