Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ tại Biển Đông: Lợi ích, Chính sách và Tương tác

Tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ tại Biển Đông: Lợi ích, Chính sách và Tương tác

Bài tham luận Hội thảo quốc tế lần thứ 4 tại TP. Hồ Chí Minh phân tích các lợi ích và chính sách của Trung Quốc, ASEAN và Mỹ ở Biển Đông, nghiên cứu mối quan hệ giữa tam giác này trong những năm gần đây và đưa ra một số gợi ý cho sự ổn định khu vực.
Trong những năm gần đây, chuỗi hành động - phản ứng của các bên ở Biển Đông làm gia tăng căng thẳng trong khu vực này, ảnh hưởng đến quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, đặt ra những thách thức đối với ASEAN trong việc duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực, đồng thời củng cố thêm quyết tâm “tái cân bằng” của Mỹ đối với châu Á. Vấn đề Biển Đông giờ đã đồng thời trở thành “thuốc thử” cho ý định “phát triển hòa bình” của Trung Quốc, vị trí thống lĩnh của Mỹ ở khu vực và sự thống nhất của ASEAN. Bài viết sẽ tìm hiểu các lợi ích và chính sách của Trung Quốc, ASEAN và Mỹ ở Biển Đông, phân tích mối quan hệ giữa tam giác này trong những năm gần đây và đưa ra một số gợi ý cho sự ổn định khu vực.
Lợi ích của các Bên liên quan ở Biển Đông
Trung Quốc
Đối với Trung Quốc - một cường quốc khu vực đang trên con đường trở thành cường quốc toàn cầu, hiện đang nỗ lực gia tăng ảnh hưởng tại châu Á và cụ thể là Đông Nam Á thì Biển Đông là “sân sau” quan trọng để bảo vệ đại lục trước các cuộc tấn công từ biển. Nếu như trên đất liền, Trung Quốc chỉ có thể tạo được ảnh hưởng chiến lược đối với 3 quốc gia giáp ranh (Lào, Myanmar và Việt Nam), thì trên biển, mà cụ thể là Biển Đông, Trung Quốc có thể tạo ảnh hưởng đối với tất cả các quốc gia Đông Nam Á.
Mục tiêu bảo vệ những lợi ích của Trung Quốc trong “vành đai ổn định chiến lược” trên các khu vực “biển gần” trải dài từ biển Hoàng Hải, Hoa Đông, eo biển Đài Loan tới Biển Đông giải thích vì sao Bắc Kinh coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, phản đối các hoạt động giám sát của Mỹ trong vùng đặc quyền kinh tế và tăng cường năng lực hải quân về “chống tiếp cận/phong tỏa khu vực”. Ngoài ra, để bảo vệ các lợi ích kinh tế và chính trị đang gia tăng của mình, hải quân Trung Quốc đang chuyển hướng sang các hoạt động viễn dương. Do vậy, Biển Đông giờ trở thành khu vực để Trung Quốc tập dượt và là bàn đạp để vươn ra ngoài.
Theo Tướng Daniel Schaeffer, về khía cạnh quân sự, Trung Quốc muốn đặt Biển Đông trong vòng kiểm soát của mình một phần là bởi vùng biển này là quân cờ quan trọng trong tổng thể chiến lược nhằm bao vây và cô lập Đài Loan, buộc Đài Loan phải thống nhất với đại lục trong đại chiến lược trở thành siêu cường của Trung Quốc. Cách tiếp cận mang tính hệ thống của Trung Quốc, kéo dài từ Biển Đông, biển Hoa Đông tới Okinawa (Nhật Bản) cùng với các hoạt động tập trận trên biển tại phía Tây Đài Loan và giám sát xung quanh đảo Guam của Mỹ trên Thái Bình Dương, đã tạo ra một vòng cung xung quanh Đài Loan, ngăn cản mong muốn độc lập của hòn đảo này.[1]
Về phương diện năng lượng, Biển Đông được dự đoán chứa đựng tiềm năng dầu khí rất lớn. Có những con số ước tính khác nhau về trữ lượng dầu khí ở Biển Đông - thậm chí rất chênh lệch nhau,[2] một phần do tranh chấp nên các nước đã không thể điều tra ra được con số chính xác. Tuy nhiên, nhiều khả năng nguồn năng lượng tại Biển Đông đã bị thổi phồng quá mức. Thậm chí trong trường hợp khai thác có hiệu quả, thì sản lượng sẽ chỉ đáp ứng được một phần nhỏ so với nhu cầu rất lớn trong tương lai.
Mặt khác, để giải quyết vấn đề an ninh năng lượng, Trung Quốc và các quốc gia ASEAN đang tìm cách đa dạng hóa nguồn cung năng lượng. Hiện Trung Quốc đang tập trung khai thác dầu mỏ, khí đốt tại các khu vực càng gần càng tốt (nhằm hạn chế tối đa chi phí vận chuyển và đảm bảo nguồn cung năng lượng trong bối cảnh bất ổn tại Trung Đông). Vì vậy, Biển Đông trở thành tâm điểm chiến lược an ninh năng lượng của nước này. Việc Trung Quốc thúc đẩy “gác tranh chấp, cùng khai thác” tại Biển Đông là biện pháp cần thiết giúp Bắc Kinh giải quyết vấn đề an ninh năng lượng.
Ngoài ra, vào thời điểm hiện tại, tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc được duy trì và củng cố nhờ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao. Sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào sự ổn định nguồn cung năng lượng và tự do hàng hải.[3] Tuy nhiên, Trung Quốc lại không yên tâm với tình thế hiện tại khi việc đảm bảo an toàn cho các tuyến đường vận tải trên biển (SLOC) lại thuộc về hải quân Mỹ. Trung Quốc muốn bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mang tính sống còn đối với nền kinh tế Trung Quốc, chẳng hạn như các tuyến đường qua Biển Đông và Eo biển Malacca. Nếu các tuyến đường này bị phong tỏa trong một ngày và nguồn cung năng lượng của Trung Quốc bị gián đoạn, nó sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn đối với Trung Quốc.[4] Do đó, Bắc Kinh có mối quan ngại hợp lý khi phát triển các lực lượng hải quân nhằm bảo về các SLOC của mình. Tuy nhiên, vệc hiện đại hóa hải quân và quân đội của Trung Quốc đang đặt ra những thách thức đối với trật tự Đông Á.
ASEAN
Do tác động bên ngoài và những lợi ích khác nhau, các nước ASEAN có những quan điểm khác nhau trong vấn đề Biển Đông. Thậm chí các nước yêu sách trong ASEAN, bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đôi khi cũng không có tiếng nói chung. Trong số các quốc gia yêu sách, Việt Nam và Philippines là hai quốc gia có nhiều “va chạm” nhất với Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó, cả hai đều là những quốc gia chủ động nhất kêu gọi sự đoàn kết ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Kể từ khi Mỹ tuyên bố chiến lược “tái cân bằng châu Á”, Philippines đã tự tin hơn, đưa ra các sáng kiến mới tại các diễn đàn của ASEAN.
Mặc dù là quốc gia có yêu sách tại Biển Đông nhưng Malaysia và Brunei lại không bị Trung Quốc đe dọa trực tiếp trên biển và họ thường chú trọng nhiều hơn đến mối quan hệ với Trung Quốc.
Trong số các quốc gia không có yêu sách, Singapore và Indonesia có quan điểm trung lập. Họ không ủng hộ yêu sách của bất kỳ bên nào. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore đã từng bình luận rằng: “Singapore không phải là một quốc gia có yêu sách và không ủng hộ lập trường hay yêu sách nào của các bên tại Biển Đông. Nhưng là quốc gia dựa vào thương mại, Singapore có mối quan tâm đặc biệt đến mọi vấn đề ảnh hưởng đến tự do hàng hải trên tất cả các tuyến đường biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông”.[5] Indonesia có truyền thống đóng vai trò trung gian hòa giải, tổ chức nhiều hội thảo về quản lý xung đột tiềm tàng tại Biển Đông trong hơn 20 năm qua nên tích cực thúc đẩy quan điểm chung của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Vai trò trung gian hòa giải tích cực của Indonesia trong vấn đề Biển Đông giúp củng cố hình ảnh của quốc gia này - một trong những thành viên tin cậy nhất trong ASEAN. Lào, Thái Lan và Myanmar không có lợi ích trực tiếp ở Biển Đông, do vậy họ rất ít khi thể hiện quan điểm của mình. Campuchia - quốc gia có mối quan hệ kinh tế và chính trị gắn bó với Trung Quốc - ở mức độ nào đó, ủng hộ quan điểm đàm phán song phương của Trung Quốc.
Mặc dù các thành viên ASEAN có những lợi ích khác nhau tại Biển Đông, nhưng tất cả đều có lợi ích chung trong việc bảo đảm tự do hàng hải, hòa bình, ổn định khu vực, tôn trọng luật quốc tế, cũng như duy trì đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN. Mười nước thành viên ASEAN đều đã tham gia đàm phán và ký kết Tuyên bố Ứng xử (DOC) năm 2002 và hiện đều có quan điểm chung muốn thúc đẩy đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) với Trung Quốc nhằm quản lý hiệu quả các tranh chấp và thúc đẩy hòa bình, hợp tác khu vực.
Mỹ
Là siêu cường duy nhất, Mỹ có lợi ích trực tiếp tại Biển Đông trên nhiều khía cạnh: (i) duy trì trật tự trên biển do Mỹ làm chủ đạo, bao gồm cả luật biển quốc tế theo cách giải thích của Mỹ, đặc biệt là về tự do hàng hải - trong đó có tự do hoạt động của tàu quân sự Mỹ; (ii) bảo vệ lợi ích các đồng minh, đặc biệt là các tuyến đường biển chiến lược của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines; (iii) kiểm soát sự lớn mạnh của (hải quân) Trung Quốc để đảm bảo rằng sự phát triển của quốc gia này không đảo lộn hệ thống hiện tại do Mỹ chi phối; (iv) bảo đảm lợi ích của các tập đoàn dầu khí Mỹ trong khu vực. Những lợi ích này đều mang tính căn bản và bất biến; sẽ rất khó cho Mỹ thỏa hiệp với Trung Quốc vì tất cả những lợi ích đó đều gắn chặt với vị thế lãnh đạo mà Mỹ mong muốn duy trì trong hệ thống toàn cầu hiện nay.
Chính sách của các bên tại Biển Đông
Trung Quốc
Là bên tranh chấp mạnh nhất, chính sách của Trung Quốc quyết định cục diện của tình hình Biển Đông.
Kể từ đầu những năm 2000, để thực hiện chiến lược “phát triển hòa bình”, Trung Quốc đã tiến hành chính sách “tấn công hấp dẫn” (charm offensive) bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm thúc đẩy hợp tác với ASEAN. Trung Quốc điều chỉnh lập trường đối với ARF và ký Tuyên bố Ứng xử các bên tại Biển Đông (DOC) vào năm 2002. Sau khi ký kết DOC, mặc dù Trung Quốc không chủ động hợp tác với ASEAN trong việc thực hiện tuyên bố chung này nhưng Trung Quốc cũng không thực hiện thêm bất kỳ hoạt động đáng kể nào đe dọa đến ổn định tại Biển Đông.
Tuy nhiên, kể từ năm 2009, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách đối với vấn đề Biển Đông và ngày càng trở nên quyết đoán hơn. Nước này đã gia tăng đáng kể sự hiện diện trên Biển Đông, không chỉ về quân sự mà cả về các hoạt động dân sự và bán quân sự tại khu vực này, nhằm giành kiểm soát thực tế (de-facto) Biển Đông thông qua việc khẳng định Đường lưỡi bò.
Liên quan đến các hoạt động quân sự, Trung Quốc đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân bằng việc xây dựng căn cứ hải quân Tam Á – căn cứ được coi là cánh cửa mở ra Biển Đông. Nhằm gửi đi thông điệp “răn đe” các nước tranh chấp khác trong ASEAN tại Biển Đông, hải quân Trung Quốc đã tăng cường tần suất và mức độ phối hợp thực hiện tập trận tại Biển Đông. Sự kiện quan trọng nhất xảy ra vào tháng 7 năm 2012 là khi lần đầu tiên Hải quân Trung Quốc (PLAN) đã huy động ít nhất hơn chục tàu chiến từ 3 hạm đội (Hạm đội Bắc Hải, Hạm đội Đông hải và Hạm đội Nam hải) tiến hành cuộc tập trận chung quy mô lớn trên Biển Đông.[6] Gần đây nhất là vào ngày 28 tháng 6 năm 2012, Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố bắt đầu tuần tra sẵn sàng chiến đấu tại các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.[7]
Hải quân Trung Quốc tích cực triển khai chiến lược “chống tiếp cận/phong tỏa khu vực” trên biển, một ví dụ điển hình của chiến lược này là vụ quấy nhiễu tàu USNS Impeccable của Mỹ vào tháng 3 năm 2009, nhằm đẩy hải quân Mỹ ra xa bờ biển của Trung Quốc và biến vùng đặc quyền kinh tế thành vùng đặc quyền quân sự. Mặt khác, PLAN đã chuyển từ “phòng thủ chủ động gần bờ” trên chuỗi đảo thứ nhất (từ Kurile, Đài Loan tới Biển Đông) sang “phòng thủ xa bờ” trong chuỗi đảo thứ hai (từ Nhật Bản, Guam (Mỹ) tới Bắc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương). Vì vậy, Trung Quốc đang đầu tư cho lực lượng “Hải quân xanh” (blue-water navy), bao gồm cả việc phát triển chiếc tàu sân bay đầu tiên của mình.[8] Hệ quả của việc hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc, đặc biệt là Hải quân xanh là cân bằng về sức mạnh (cứng) ở khu vực đang chuyển dịch có lợi cho quốc gia này.
Liên quan đến các hoạt động bán quân sự, Trung Quốc đã triển khai một cách có hệ thống các tàu và tàu tuần tra từ các cơ quan chấp pháp biển khác nhau ở Biển Đông. Trung Quốc có ít nhất 5 cơ quan chấp pháp biển: Tuần duyên Trung Quốc là đơn vị thuộc thuộc Lực lượng Công an Biên phòng, một lực lượng thuộc sự quản lý của Bộ Công an; Cơ quan An toàn Hàng hải Trung Quốc thuộc Bộ Giao thông, có chức năng phối hợp tìm kiếm cứu nạn; Hải giám Trung Quốc (CMS), đơn vị chấp pháp bán quân sự thuộc Cơ quan Hải dương Quốc gia; Lực lượng Chấp pháp Ngư nghiệp Trung Quốc (FLEC) (cơ quan thuộc Cục Quản lý Ngư nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp) có trách nhiệm chấp pháp đối với các hoạt động liên quan đến đánh bắt cá và tài nguyên biển; và Tổng cục Hải quan thực hiện các hoạt động chống buôn lậu trên biển. Một số học giả cho rằng mỗi cơ quan trên đều có tàu tuần tra riêng và hoạt động độc lập và không có sự phối hợp với nhau.[9]
Trong suốt thời gian ban hành lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương của Trung Quốc từ tháng 5 đến tháng 8 (áp đặt hàng năm từ 1999), các lực lượng an ninh trên biển của Trung Quốc nhiều lần đã bắt giữ ngư dân Việt Nam, tịch thu tàu và đòi các khoản tiền phạt từ 8.000USD đến 10.000USD để thả họ. Đầu tháng 4 năm 2010, Bắc Kinh thậm chí thông báo đưa hai tàu tuần tra nghề cá lớn tới Đảo Trường Sa để bảo vệ các tàu cá Trung Quốc mà số lượng ngày càng tăng và đi xa hơn về phía nam. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc làm như vậy ngoài thời gian của lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương.[10] Ngày 23 tháng 6 năm 2010, tàu Ngư chính 311 của Trung Quốc đã chĩa súng máy cỡ lớn vào một tàu hải quân của Indonesia và đe dọa tấn công tàu này khi một tàu cá Trung Quốc bị lực lượng của Indonesia bắt giữ ở khu vực bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở Đảo Natuna.[11]
Trên thực tế, việc Trung Quốc đang tăng cường triển khai các lực lượng bán quân sự để tuần tra ở Biển Đông là một bước đi vừa để củng cố yêu sách của nước này đối với các khu vực tranh chấp, đồng thời phát đi thông điệp rằng Trung Quốc chỉ sử dụng “các biện pháp hòa bình.” Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu lực lượng được trang bị tốt và đầy sức mạnh không thể bảo vệ được lợi ích của Trung Quốc, liệu nước này có do dự khi sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ các lợi ích của mình hay không?
Về vấn đề khai thác năng lượng ở Biển Đông, từ mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã đe dọa một số công ty dầu khí nước ngoài phải dừng các hoạt động thăm dò xa bờ với các đối tác Việt Nam hoặc phải đối mặt với hậu quả khôn lường trong hoạt động kinh doanh của những công ty này với Trung Quốc.[12] Trong khi phản đối các quốc gia khác tiến hành khai thác năng lượng ở những khu vực bên trong Đường lưỡi bò, Trung Quốc lại ủng hộ việc khai thác chung nguồn tài nguyên năng lượng bên trong đường yêu sách này ở Biển Đông.
Một số nhân tố đối nội và đối ngoại giúp giải thích việc Trung Quốc ngày càng quyết đoán trong những năm gần đây.
Những yếu tố bên trong bao gồm: (i) Làn sóng dân tộc chủ nghĩa gia tăng ở Trung Quốc: người dân Trung Quốc tin rằng các bên tranh chấp khác đang bòn rút “dầu của Trung Quốc” và đánh bắt “cá của Trung Quốc”, trong khi nước này không thu được bất kỳ giọt dầu nào từ Quần đảo Trường Sa, và ngư dân Trung Quốc đang bị bắt giữ và xua đuổi;[13] (ii) Quá trình chuyển giao lãnh đạo ở Trung Quốc và đấu tranh chính trị nội bộ khiến cho không một lãnh đạo nào của Trung Quốc muốn thể hiện “sự mềm yếu” trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; (iii) Các nhóm lợi ích: Một số hoạt động đã được các nhóm lợi ích (như ngư chính, hải giám…) tiến hành mà không có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương[14], trong khi các vị lãnh đạo cấp cao lại đang bận rộn với việc chuyển giao quyền lực và những vấn đề đối nội khác; (iv) Nhu cầu năng lượng: như đã nêu trên, Trung Quốc coi Biển Đông là nguồn cung cấp quan trọng và tuyến giao thông thiết yếu phục vụ việc phát triển quốc gia.
Xét yếu tố bên ngoài, có hai nhân tố góp phần giải thích cho việc hành xử quyết đoán của Trung Quốc trong những năm gần đây, liên quan mật thiết đến hai góc khác trong tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ. Trung Quốc tin rằng sức mạnh của Mỹ đang suy giảm do các vấn đề tài chính và kinh tế trong năm 2009-2010, do vậy Trung Quốc trở nên tự tin hơn và tìm cách tăng cường ảnh hưởng và lợi ích của mình ở Đông Á, trong đó Biển Đông là khu vực trọng tâm. Sự quyết đoán của Trung Quốc một phần là phép thử phản ứng của Mỹ. Thứ hai, những hành động của các nước yêu sách trong ASEAN buộc Trung Quốc phải phản ứng lại. Đây là lập luận chính của Trung Quốc khi nước này cáo buộc các quốc gia yêu sách khác gây căng thẳng và xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, hoạt động các quốc gia yêu sách ASEAN được tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế của họ trong nhiều năm mà không hề có sự phản đối của Trung Quốc. Lý do chính Trung Quốc tăng cường phản đối những hoạt động này là vì Trung Quốc đã công khai trên bình diện quốc tế tấm bản đồ yêu sách Đường lưỡi bò vào năm 2009; bất kỳ hoạt động nào xâm phạm Đường lưỡi bò được coi là vi phạm chủ quyền và ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc.
ASEAN
Đối mặt với những hành động ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, các quốc gia yêu sách ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines, đã áp dụng một chính sách tương đối toàn diện để bảo vệ những lợi ích quốc gia của họ, đồng thời cố gắng gìn giữ môi trường hòa bình bên ngoài. Chính sách này kết hợp giữa việc: sử dụng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển, để bảo vệ những yêu sách và quyền lợi của mình; phản đối việc khai thác chung với Trung Quốc ở những khu vực bên trong vùng đặc quyền kinh tế được quốc tế công nhận; đưa vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn khu vực để thảo luận với sự tham gia các cường quốc bên ngoài khác; hợp tác cùng các thành viên của ASEAN trong can dự Trung Quốc nhằm thực thi DOC và hướng tới một bộ quy tắc ứng xử mới; và đàm phán trực tiếp với Trung Quốc để giảm bớt căng thẳng và giải quyết các vấn đề song phương còn tồn tại.
Đối phó với yêu sách Đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông, các nước tranh chấp trong ASEAN đang cố gắng phân tách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đất liền (hay từ các đảo không tranh chấp gần bờ) và khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Để tối thiểu hóa khu vực tranh chấp, các nước ASEAN lựa chọn cách diễn giải UNCLOS, đặc biệt là Điều 121 về “quy chế đảo” theo một cách thức hạn chế.[15] Các nước này - trực tiếp hoặc gián tiếp - không coi bất kỳ thực thể đang tranh chấp nào ở Biển Đông là đảo, như định nghĩa trong Điều 121 của UNCLOS, do đó chúng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà chỉ có tối đa là lãnh hải 12 hải lý.[16] Điều này đồng nghĩa với việc các nước này giới hạn phạm vi tranh chấp chỉ là các đảo đá và lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo đá này.
Hầu hết các nước ASEAN – trực tiếp hoặc gián tiếp- đều có quan điểm phê phán Đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ngay sau khi Trung Quốc công khai hóa Đường lưỡi bò trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc năm 2009, Việt Nam ngay lập tức gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc phản đối Công hàm có bản đồ Đường lưỡi bò của Trung Quốc, trong đó nêu rõ: “Tuyên bố đường chín đoạn trên bản đồ gửi kèm theo Công hàm ngoại giao của Trung Quốc là vô giá trị và không có hiệu lực vì nó không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế.”[17]
Ngày 08/07/2010, Indonesia gửi Công hàm đến Liên Hợp Quốc phản đối bản đồ của Trung Quốc: “cái gọi là bản đồ đường chín đoạn trong Công hàm của Trung Quốc rõ ràng là thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và ngang với việc bác bỏ Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc 1982.” [18]
Ngày 05/04/2011, Philippines gửi Công hàm tới Liên Hợp Quốc phản đối đường chín đoạn của Trung Quốc. Tiếp theo Việt Nam và Indonesia, Philippines phản đối cơ sở lịch sử (nếu có) Trung Quốc về đường chín đoạn. [19] Công hàm nêu rõ rằng tuyên bố của Trung Quốc về các khu vực ngoài các “thực thể địa lý” ở nhóm Kalayan và “vùng nước lân cận” không có cơ sở pháp lý theo luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và “liên quan đến các khu vực này, chủ quyền, quyền tài phán và quyền chủ quyền … thuộc về các nước ven biển và quần đảo tương ứng.” Sự mở rộng của vùng nước “lân cận” với “thực thể địa lý” tương ứng được định nghĩa trong các điều luật của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, đặc biệt là Điều 121 xác định quy chế các đảo.[20] Philippines ngày 21 tháng 1 năm 2013 đã quyết định đơn phương kiện Trung Quốc tại Tòa Trong tài thành lập theo Công ước Luật Biển 1982, nội dung chính của đơn kiện là phản đối đường lưỡi bò của Trung Quốc.[21]
Singapore tuy không phải là nước có tranh chấp ở Biển Đông nhưng cũng kêu gọi Trung Quốc làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông. Ngày 20/06/2011, bình luận về chuyến viếng thăm Singapore của tàu Hải tuần 31 của Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Singapore cho biết:
Chúng tôi nghĩ rằng Trung Quốc có lợi ích trong việc làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đông một cách chính xác hơn bởi sự mập mờ gần đây trong phạm vi những yêu sách này đã gây quan ngại sâu sắc trong cộng đồng các quốc gia biển quốc tế. Những vụ việc gần đây đã làm tăng thêm lo ngại này và đặt ra câu hỏi nghiêm túc về việc diễn giải Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).[22]
Các nước ASEAN khác tuy không nêu rõ quan điểm nhưng lại thống nhất với nhau trong các văn kiện chung của hiệp hội. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN vào tháng 07/2012 tại Campuchia đã thông qua “Đề xuất của ASEAN về các thành tố cơ bản của Bộ Quy tắc Ứng xử khu vực ở Biển Đông (COC) giữa các Quốc gia thành viên ASEAN và Cộng hòa Nhân dân Trung hoa”. COC do ASEAN đề xuất là một tài liệu pháp lý và là một trong các mục tiêu của ASEAN nhằm:
Thúc đẩy các nỗ lực làm rõ tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Khuyến khích các bên liên quan hợp tác cùng nhau để xác định và làm rõ tranh chấp biển và lãnh thổ ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS.[23]
COC cũng ràng buộc các bên “cam kết tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước ven biển theo quy định của UNCLOS 1982,” [24] - gián tiếp phản bác yêu sách Đường lưỡi bò của Trung Quốc chồng lấn lên các vùng biển của các quốc gia ven biển ASEAN.
Mỹ
Sau một thời gian dài hiện diện ở Trung Đông và Afghanistan trong cuộc chiến chống khủng bố, Mỹ đã “chuyển trọng tâm” sang Châu Á để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Biển Đông trở thành trọng tâm trong chiến lược “tái cân bằng Châu Á” của chính quyền Obama. Sự chuyển dịch trong chính sách của Mỹ mang tính toàn diện. Về chính trị và ngoại giao, Mỹ can dự sâu hơn ở Châu Á – Thái Bình Dương thông qua việc tăng số lượng các cuộc viếng thăm khu vực của Tổng thống, Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng và các quan chức cấp cao khác. Về mặt kinh tế, sau khi phê chuẩn Hiệp định mậu dịch tự do với Hàn Quốc, Mỹ tập trung vào Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). TPP mang thành tố chiến lược nhằm tăng cường quan hệ giữa Mỹ với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để đối trọng với các cơ chế kinh tế đa phương với Trung Quốc làm trung tâm như CAFTA, ASEAN+3. Về quân sự, dù ngân sách chung bị cắt giảm, nhưng ngân sách dành cho Bộ tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (PACOM) không bị ảnh hưởng.[25] Ngược lại, Mỹ còn tăng cường phạm vi hiện diện các lực lượng PACOM, bao gồm “trạm quân sự” mới tại Úc. Mỹ đang lên kế hoạch chuyển phần lớn hải quân tới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 11 tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tuyên bố rằng 60% tàu chiến Mỹ sẽ đóng ở Thái Bình Dương đến năm 2020. [26] Ngoài ra, trong những năm gần đây, Mỹ còn tăng cường hợp tác với Nhật và Philippines về các vấn đề an ninh biển.
Tại ARF-17 năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã lần đầu tiên tuyên bố lợi ích quốc gia của Mỹ tại Biển Đông, trong đó có tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và hoạt động thương mại không bị cản trở. Mỹ cũng gián tiếp bác bỏ bất cứ lập luận nào về “vùng nước lịch sử” hay “quyền lịch sử” của đường lưỡi bò, điều này được thể hiện qua phát biểu của bà Clinton rằng: “Theo như luật tập quán quốc tế, các yêu sách hợp pháp đối với các vùng biển tại Biển Đông chỉ có thể xuất pháp từ các yêu sách hợp pháp đối với các thực thể đảo.”[27] Phát biểu tại một phiên điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thương viện Mỹ, Ngoại trưởng Clinton nói rằng: “các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông vượt qua những gì mà UNCLOS cho phép”.[28]
Tương tác trong tam giác Trung Quốc-ASEAN-Mỹ
Như đã đề cập ở trên, sự tương tác giữa các cạnh trong tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ trong vấn đề Biển Đông có các động lực riêng của nó. Trung Quốc quyết đoán tại Biển Đông đã khiến các nước ASEAN liên quan đến tranh chấp lo ngại về an ninh của họ cũng như sự ổn định ở khu vực. Nhìn chung, Trung Quốc càng quyết đoán ở Biển Đông thì sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á càng giảm sút. Chính sách “tấn công hấp dẫn” do Trung Quốc tiến hành hơn mười năm về trước tại Đông Nam Á đã không còn phát huy hiệu quả. Mặc dù hầu hết các nước ASEAN đều có lợi ích trong quan hệ kinh tế-thương mại với Trung Quốc, các nước này ngày càng cảnh giác trước ý đồ của Bắc Kinh. Một mặt, các nước ASEAN phát triển quan hệ kinh tế với Trung Quốc; mặt khác, họ tăng cường quan hệ an ninh với Mỹ và hoan nghênh sự hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực. Một vài quốc gia ASEAN cũng đã tiến hành các động thái nhằm hiện đại hóa quân sự, tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để cân bằng lại quyền lực ở khu vực này. Do đó, Mỹ càng có nhiều lý do để can dự vào Đông Nam Á và tạo ảnh hưởng đối với vấn đề Biển Đông.
Với Mỹ, một mặt cạnh tranh với Trung Quốc để việc duy trì vị thế lãnh đạo tại Châu Á – Thái Bình Dương, mặt khác Mỹ cũng cần hợp tác với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh đó, vấn đề Biển Đông giúp Mỹ có cớ để duy trì can dự tại khu vực và tập hợp lực lượng để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Trung Quốc càng hùng mạnh bao nhiêu thì lợi ích của Mỹ tại châu Á cũng sẽ lớn lên bấy nhiêu. Vì thế, Mỹ tái khẳng định lợi ích và lập trường của nước này về vấn đề Biển Đông tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) 17, 18, 19 và tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) 2011 là các diễn biến logic. Trong một vài năm tới, nhiều khả năng Mỹ sẽ tiếp tục duy trì lập trường trên, cho dù là với các mức độ khác nhau tại các diễn đàn khu vực khác nhau.
Ở một góc độ khác, chính sách và lập trường của của Mỹ ảnh hưởng lên cả lập trường của những nước khác, đặc biệt là những nước có mối quan hệ gần gũi với Washington. Tiếp sau Mỹ, các quốc gia có lợi ích tại Biển Đông như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và ngay cả một số quốc gia EU khác cũng bày tỏ quan ngại về các diễn biến gần đây tại Biển Đông. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành vấn đề quốc tế và được các bên có liên quan đề cập tại nhiều diễn đàn đa phương khác nhau (như ARF, EAS, ASEM…).
Ngoài ra, việc Trung Quốc đe dọa các công ty dầu mỏ và khí đốt quốc tế trong làm ăn với các nước ASEAN đã không ngăn cản được các công ty này nhưng lại tạo cớ cho Mỹ bày tỏ quan điểm của mình về “hoạt động thương mại không bị cản trở” và khiến Mỹ quyết tâm hơn trong việc bảo vệ lợi ích của các tập đoàn Mỹ. Một hậu quả nữa của hành động này đó là nó đã khiến các nước nhỏ hơn tại Đông Nam Á tìm cách hợp tác với các công ty dầu mỏ và khí đốt của các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật và Ấn Độ- những nước mà Trung Quốc không thể đe dọa. Kết quả là Biển Đông đã trở thành vấn đề có sự đan xen lợi ích của các cường quốc và đang ngày càng được quốc tế hóa – một cục diện mà Trung Quốc không hề mong muốn.
Quan trọng hơn, Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề chính yếu trong quan hệ Mỹ-Trung. Trong những năm trước đây, khi vấn đề Biển Đông luôn là một trong các ưu tiên chính sách đối ngoại của các nước có tranh chấp trong ASEAN thì vấn đề này chỉ là ưu tiên hạng hai trong chính sách của Trung Quốc, ít nhất là so với chính sách của Trung Quốc trong mối quan hệ với các nước lớn. Hiện nay, khi vấn đề Biển Đông trở thành một trong những ưu tiên chính sách đối ngoại của Trung Quốc thì cách tiếp cận của Trung Quốc sẽ trở nên đồng bộ và thống nhất hơn. Trung ương có thể điều phối và hạn chế yếu tố cạnh tranh và thiếu hợp tác giữa các “nhóm lợi ích” khác nhau –nhân tố chính khiến tình hình Biển Đông nóng lên. Do đó, chính sách Biển Đông của Trung Quốc có thể được điều chỉnh một cách linh hoạt khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc thấy cần thiết. Diễn biến này có cả tác động tích cực và tiêu cực cho ASEAN, phụ thuộc vào việc liệu các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định điều chỉnh chính sách mềm mỏng hay cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông.
Những diễn biến trong nửa cuối năm 2011 cho thấy các dấu hiệu tích cực khi Trung Quốc tỏ ra mềm mỏng trong chính sách Biển Đông của nước này. Khi lãnh đạo Trung Quốc nhận ra hậu quả tiêu cực do sự quyết đoán ngày càng tăng gần đây trển Biển Đông, họ đã điều chỉnh chính sách mang tính toàn diện hơn: từ khởi động “cuộc tấn công quyến rũ” lần hai tới các nước ASEAN thông qua các biện pháp kinh tế và tài chính cho đến kiềm chế không sử dụng thêm các hành động đe dọa trên biển. Giai đoạn sau đó, không có thêm thông tin nào về việc bắt giữ các ngư dân Việt Nam hoặc tịch thu các tàu cá của Việt Nam như những năm trước cho dù Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong khu vực ở phía bắc của vĩ tuyến 12 tại Biển Đông trong khoảng thời gian từ 16/5 cho đến 1/8 năm 2011. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc cũng không cản phá hoạt động thăm dò dầu mỏ và khí đốt của Việt Nam và Philippines tại khu vực nằm trong Đường lưỡi bò ở Biển Đông. Trung Quốc cũng ký Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC với ASEAN và Thỏa thuận những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển với Việt Nam. Trung Quốc cũng để ngỏ việc thảo luận với ASEAN về việc xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử COC “khi thời cơ chín muồi”.[29] Trung Quốc chấp nhận thảo luận với ASEAN về vấn đề Biển Đông để chứng minh với cộng đồng quốc tế rằng ASEAN và Trung Quốc có thể hợp tác cùng nhau trong việc quản lý tranh chấp và không cần thiết có sự can dự từ bên ngoài vào vấn đề Biển Đông.
Cuộc đối đầu ở Bãi cạn Scarborough với Philippines cho thấy cách tiếp cận của Trung Quốc mang tính phối hợp và tập trung, nhưng theo hướng ngược lại. Để ngăn chặn Philippines, Trung Quốc cũng áp dụng một cách tiếp cận đồng bộ và toàn diện, từ việc gây áp lực về ngoại giao, tăng cường hiện diện ở khu vực tranh chấp với hàng trăm tàu cá và tàu chấp pháp từ các cơ quan khác nhau (Hải giám và Ngư chính), áp dụng việc trừng phạt kinh tế đối với các sản phẩm nông nghiệp của Philippines và tăng cường hoạt động tuyên truyền ra quốc tế. Để đáp trả việc Việt Nam thông qua Luật Biển, Trung Quốc cũng đã tiến hành đồng thời các biện pháp đa chiều như đưa ra phản đối ngoại giao; thiết lập thành phố Tam Sa để quản lý quần đảo Hoàng Sa, Bãi Macclesfield, Quần đảo Trường Sa và “các vùng nước liền kề” ở Biển Đông[30]; mời thầu quốc tế các lô dầu khí bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam[31]; triển khai một số lượng lớn các tàu tuần tra ở Biển Đông; và đồn trú lực lượng quân sự ở “thành phố Tam Sa” được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Trong quan hệ với ASEAN, để ảnh hưởng đến cuộc thảo luận nội khối ASEAN, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã thăm Campuchia trước khi khai mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 4, Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt cũng có chuyến thăm chính thức Campuchia lúc diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 6 (ADMM) vào tháng 5, một cách không chính thức biến ADMM thành ADMM+1.
Kết quả của việc áp dụng một cách tiếp cận toàn diện, đồng bộ và tập trung, chính sách Biển Đông của Trung Quốc là nhằm hướng tới “tranh chấp mở rộng với cường độ thấp”. Chính sách này là sự kết hợp giữa: tăng cường sự hiện diện, kiểm soát của lực lượng dân sự và bán quân sự ở tất cả các khu vực bên trong đường lưỡi bò; kiềm chế sử dụng các lực lượng quân sự; hứa hẹn đầu tư mạnh mẽ về kinh tế đối với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các nước không tranh chấp; và tích cực tăng cường áp lực ngoại giao để ngăn cản ASEAN hình thành một lập trường chung về Biển Đông. Với cách thức này, Trung Quốc tăng khả năng hạn chế Mỹ can dự vào vấn đề Biển Đông.
Mỹ hiện tại đang ở trong một tình thế khó xử. Việc chưa gia nhập Công ước Luật Biển đã làm hạn chế tính chính danh của Mỹ khi chỉ trích các quốc gia khác không tôn trọng luật biển. Sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng hải quân Mỹ không ảnh hưởng nhiều đến cuộc tranh giành quyền kiểm soát tài nguyên ở Biển Đông - chủ yếu diễn ra giữa tàu chấp pháp của các nước ven biển. Việc Trung Quốc thành công khi đẩy lùi Philippines và thiết lập sự hiện diện của nước này ở Bãi cạn Scarborough bất chấp các nỗ lực của Mỹ nhằm giảm bớt căng thẳng cho thấy những giới hạn trong sự can dự của Mỹ. Trên khía cạnh chính trị khu vực, các quốc gia ASEAN hiện lưu tâm nhiều đến mối quan ngại của Trung Quốc hơn là của Mỹ. Về ngoại giao đa phương, tác động từ “tuyên bố của Clinton tại ARF-17” không còn mạnh mẽ như trước, nhất là khi Mỹ không đưa ra bất kỳ quan điểm nào trong những bài phát biểu gần đây tại các diễn đàn khu vực.
ASEAN đang phải đối mặt với thách thức lớn nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ ngày càng gia tăng ở Đông Nam Á, liệu ASEAN sẽ bị chia rẽ hay đoàn kết hơn để duy trì tính trung tâm của khối trong cấu trúc an ninh khu vực? Vai trò của ASEAN trong việc quản lý các tranh chấp ở Biển Đông có thể bị hạn chế bởi sự chia rẽ trong nội khối và những tác động từ bên ngoài, thậm chí sau khi kết thúc năm chủ tịch của Campuchia.
Kết luận: Tái cân bằng tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ ở Biển Đông
Tam giác Trung Quốc – ASEAN – Mỹ ở Biển Đông ở thời điểm hiện tại bị thiếu cân bằng khi Trung Quốc đang chiếm ưu thế trên biển và trên các diễn đàn ngoại giao, Mỹ vẫn đang tìm kiếm cách thức tiếp cận để đối phó với một Trung Quốc đang trỗi dậy và ASEAN bị phân hóa, về mặt thể chế có thể bị thao túng bởi bất kỳ nước chủ tịch hay thậm chí là một thành viên riêng lẻ nào.
Tuy nhiên, có khả năng những gì Trung Quốc thu được chỉ là tạm thời; về lâu dài những gì Trung Quốc có thể mất nhiều hơn những gì mà nước này đạt được. Những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian dài được coi là “thuốc thử” đối với việc Trung Quốc sẽ theo đuổi chính sách trỗi dậy hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, hay nước này muốn “sửa lại các luật lệ”. Tuy nhiên, việc Trung Quốc cho phép Tập đoàn Dầu khí Hải dương Quốc gia (CNOOC) mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam rõ ràng là một tiền lệ của việc bất chấp luật pháp quốc tế. Đứng trước thách thức luật pháp quốc tế bị coi nhẹ và vai trò trung tâm của ASEAN bị ảnh hưởng, các quốc gia ASEAN không có lựa chọn ngoài việc nêu ra mối quan ngại chung của họ một cách thường xuyên hơn trong các diễn đàn khu vực.
Về phía Mỹ, Biển Đông không chỉ liên quan đến lợi ích chiến lược của nước này, mà còn là uy tín của sức mạnh Mỹ. Nhưng nếu Trung Quốc tiếp tục sử dụng các biện pháp phi quân sự trên biển và áp dụng cách thức ngoại giao và kinh tế để chi phối chính sách của các nước ASEAN, Mỹ không thể can thiệp và gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Những gì mà Mỹ có thế làm để đối phó với chiến lược của Trung Quốc là bổ sung thêm các thành tố khác vào chiến lược của mình như yếu tố bán quân sự và kinh tế, điều mà Mỹ đã xao lãng trong nhiều năm qua.
Do Bắc Kinh có thể đề ra một chính sách phối hợp và thống nhất trong vấn đề Biển Đông, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ đặt vấn đề này trong một bức tranh tổng thể của toàn bộ chính sách đối ngoại của mình. Khi Trung Quốc phải quan tâm đến các lợi ích khác trong quan hệ với Mỹ, ASEAN hơn lợi ích biển cụ thể ở Biển Đông, các nước khác có thể hy vọng về một cách tiếp cận ôn hòa hơn của Trung Quốc ở Biển Đông./.
TS. Trần Trường Thủy

Bản dịch tham luận tại Hội thảo quốc tế lần thứ 4 "Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực" do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2012. Đọc bản gốc tại đây



[1] Tham luận của Daniel Schaeffer tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần 3
[2] Năm 1998, các nhà địa chất Mỹ ước tính Biển Đông có khoảng 2,1 – 15,8 tỷ thùng dầu tại Trường Sa, trong khi các nguồn của Nga thì lại ước tính có khoảng 7,5 tỷ thùng. Năm 2003, Trung Quốc khẳng định khu vực quần đảo Hoàng Sa có trữ lượng 41 tỷ thùng dầu, 8 – 10 tỷ mét khối khí đốt, khoảng 3,1 tỷ tấn nguồn tài nguyên khác và trên 630 triệu kW năng lượng tái sinh.
[3] Báo cáo của CNAS: Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea, xem tạihttp://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf
[4] Báo cáo của CNAS
[5] Phát biểu của Người phát ngôn Bộ ngoại giao Singapore trong chuyến thăm của tàu Hải tuần 31 tới Singapore.
http://www.mfa.gov.sg/content/mfa/overseasmission/phnom_penh/press_statements_speeches/embassy
_news_press_releases/2011/201106/press_201106_5.html
[6] “China's three-point naval strategy”, Strategic Comment, Volume 16, Comment 37 – tháng 10, 2010, The International Institute For Strategic Studies (IISS),
http://www.iiss.org/publications/strategic-comments/past-issues/volume-16-2010/october/chinas-three-point-naval-strategy/
[7] “China pledges to protect maritime sovereignty”,http://www.chinadaily.com.cn/china/2012-06/29/content_15533944.htm
[8] Ian Storey, “Asia’s Changing Balance of Military Power: Implications for the South China Sea Dispute “ in NBR Report Maritime Energy Resources in Asia: Energy and Geopolitics, Clive Schofield edited
[9] Xem thêm: Lyle J. Goldstein, Five Dragons Stirring Up the Sea: Challenge and Opportunity in China’s Improving Maritime Enforcement Capabilities, U.S. Naval War College, China Maritime Study 5, April 2010. http://www.usnwc.edu/Research---Gaming/China-Maritime-Studies-Institute/Publications/documents/CMSI_No5_web1.pdf
[10]Ian Storey, China’s “Charm Offensive” Loses Momentum in Southeast Asia, China Brief Volume 10 Số 9: ngày 29 tháng 4 năm 2010.
http://www.jamestown.org/single/?no_cache=1&tx_ttnews%5Btt_news%5D=36324&tx_ttnews%5BbackPid%5D=7&cHash=897d20a7fa
[11] “China flexes muscles in South China Sea”, Mainichi Shimbun, ngày 27 tháng 7 năm 2010
[12] Scot Marciel, “Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia” Điều trần trước Tiểu ban về vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, Ủy ban Đối ngoại, Thượng viện Mỹ, ngày 15 tháng 7 năm 2009.http://foreign.senate.gov/hearings/hearing/20090715_2/
Tóm tắt những bức điện ngoại giao của Mỹ bị rò rỉ do WikiLeaks công bố về việc Trung Quốc phản đối các công ty dầu khí quốc tế ký kết thỏa thuận thăm dò với Việt Nam ở Biển Đông, xem Greg Torode, “Beijing pressure intense in South China Sea row”, South China Morning Post, ngày 23 tháng 9 năm 2011.http://topics.scmp.com/news/china-news-watch/article/Beijing-pressure-intense-in-South-China-Sea-row
[13] Mingjiang Li, “Reconciling Assertiveness and Cooperation? China’s Changing Approach to the South China Sea Dispute”, Security Challenges, Tập 6, Số 2 (Mùa Đông 2010), tr 51, tr 58.
[14] Báo cáo ICG
[15] UNCLOS quy định hai loại thực thể theo Điều 121 chi phối “quy chế đảo”: đảo có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, và “đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng” “sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.”
[16] Xem Tran Truong Thuy trong Báo cáo NBR 2011
[17http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/vnm_chn_2009re_mys_vnm_e.pdf
[18]www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf.
[19] Xem Công hàm Philippines tại
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf
[20] Xem Công hàm Philippines tại
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf
[21] http://www.dfa.gov.ph/index.php/newsroom/dfa-releases/7300-statement-by-secretary-of-foreign-affairs-albert-del-rosario-on-the-unclos-arbitral-proceedings-against-china-to-achieve-a-peaceful-and-durable-solution-to-the-dispute-in-the-wps
[22]
Bình luận của người phát ngôn Bộ ngoại giao Singapore về chuyến thăm của Tàu hải tuần 31 tới Singapore.
http://www.mfa.gov.sg/content/mfa/overseasmission/phnom_penh/press_statements_speeches/embassy
_news_press_releases/2011/201106/press_201106_5.html
[23] “ASEAN’s Proposed Elements of a Regional Code of Conduct in the South China Sea (COC) between ASEAN Member States and the People’s Republic of China”
[24] Tlđd
[25] Đại diện PACOM trong trao đổi trực tiếp với tác giả
[26] http://www.iiss.org/conferences/the-shangri-la-dialogue/shangri-la-dialogue-2012/speeches/first-plenary-session/leon-panetta/
[27] Tlđd.
[28] “China's Sea Claims Excessive, Says US”,http://www.mb.com.ph/articles/360386/chinas-sea-claims-excessive-says-us
[29] Phát biểu của Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hội nghị ARF. http://www.fmprc.gov.cn/eng/zxxx/t842183.htm
[30] “Administrative status of islands raised”.http://europe.chinadaily.com.cn/china/2012-06/21/content_15517602.htm
[31] CNOOC: “Notification of Part of Open Blocks in Waters under Jurisdiction of the People’s Republic of China Available for Foreign Cooperation in the Year of 2012”.http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2012-06-22/english/322127.html

Quan hệ Việt - Campuchia: lịch sử và hiện tại

Quan hệ Việt - Campuchia: lịch sử và hiện tại
Sau 65 năm dời đô về Thăng Long, tính từ mốc lịch sử 1010, các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã củng cố và phát triển Đại Việt một cách bền vững. Nhân tài vật lực tụ hội, triều đình với quan văn quan võ kiệt xuất đã làm bừng sáng Thăng Long. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lấy lại những phần đất của tổ tiên ở phương nam đã bị nước Chiêm lấn chiếm, triều Lý đã cắm một mốc son chói lọi vào năm 1076. Thật vậy, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của liên minh Tống-Chiêm-Chân Lạp năm 1076 là một thử thách lớn lao đối với Đại Việt. Triều Lý ở Thăng Long, đứng đầu là Lý Nhân Tông, đã chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua bão táp phong ba 1076 rất oanh liệt, đầy trí dũng, minh chứng sự sáng suốt của Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Các nhà sử học đã nghiên cứu sự kiện lịch sử 1076 khá sâu và đã từng công bố, thu hút sự chú ý của độc giả, khán thính giả của các phương tiện truyền thông đại chúng. Cũng vì lẽ đó, một số sự kiện lịch sử quan trọng khác đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đánh giá đúng tầm, thậm chí có thể bị đại chúng quên lãng

Trong tâm cảm “Từ thuở mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long”, chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ “phá Tống bình Chiêm”, và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suryavarman II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suryavarman II từng tiêu diệt nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ, nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm 1150.

Trước khi đi vào giai đoạn lịch sử bi tráng của Đại Việt và đế quốc Chân Lạp thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông và Suryavarman II trị vì, thiết tưởng điểm qua bối cảnh lịch sử chính trị, ngoại giao, quân sự của vài đời vua Lý, vua Chiêm và vua Chân Lạp trước Lý Thần Tông, Suryavarman II, Jaya Harivarman VI:

Trước hết điểm qua thực lực của các nước Tống, Chiêm, Chân Lạp thuộc liên minh chống Đại Việt để thấy tư thế vững mạnh của Đại Việt lúc ấy 
Đến năm Bính Thìn [1076], Thái Ninh năm thứ 5, triều đình Tống Thần Tông, kinh đô Khai Phong, đang phải đối phó với nước Kim, nước Liêu ở phía Bắc và nội bộ đang chia rẽ trầm trọng, nhưng vì nước Tống là một đại quốc, đang hận chưa lấy được Đại Việt mà còn bị Đại Việt đánh vào châu Ung, châu Khâm trước đó nên họ vẫn quyết tâm đánh chiếm Đại Việt. Triều đình Tống Thần Tông từ kinh đô Khai Phong rất thâm độc khi liên minh với Chiêm và Chân Lạp ở phía tây nam Đại Việt, nhằm tiêu diệt Đại Việt đang tự cường và tự chủ.

Còn nước Chiêm Thành mặc dầu đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần trước đó, thậm chí bị đế quốc Chân Lạp cướp phá, nhưng đến năm 1074, hoàng thân Than lên ngôi xưng là Harivarman IV (1074- 1080), nước Chiêm Thành phục hưng và vua Harivarman IV cho dựng lại kinh đô Indrapura (Quảng Nam) đã bị bỏ từ lâu, cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn và xây mới nhiều đền đài tráng lệ. Ông vua Chiêm Thành này có thực tài nên vô hiệu hóa một chiến dịch quân sự của Đại Việt, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đánh vào Chiêm Thành năm 1075.

Lúc bấy giờ Chân Lạp với kinh đô Angkor đã trở thành đế quốc, nhiều lần định thôn tính Chiêm Thành nhưng Harivarman IV của Chiêm Thành cũng chống trả sự xâm lược của đế quốc Chân Lạp. Thật vậy, sau khi vua Suryavarman I tài ba của đế quốc Chân Lạp, ngự trị ở Angkor, mất vào năm 1050, thì 2 người con là Udayadityavarman II và Harshavarman III thừa kế sự nghiệp. Thời kỳ từ 1050 đến 1066 này ở Chân lạp lại loạn lạc cho đến tận năm 1066. Sau năm 1066 Harshavarman III có thực quyền, thống nhất được đất nước, liền nhiều lần thân chinh đi đánh Chiêm Thành nhưng không thành công trọn vẹn .
Tuy Tống- Chiêm- Chân Lạp liên minh đánh Đại Việt nhưng không chặt chẽ, chủ yếu vẫn là quân Tống tham chiến dưới sự chỉ huy của Chiêu thảo sứ Quách Quỳ. Khi liên minh này xâm lược Đại Việt vào tháng 3, mùa xuân năm Bính Thìn [1076] đã bị Đại Việt đánh bại, quân xâm lược Tống phải đền tội hơn 1000 binh. Vua Lý Nhân Tông anh minh đã sai Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại quân để chống quân Tống. Với tổng chỉ huy tài ba Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt đã làm nên đại thắng ở đại phòng tuyến Như Nguyệt lẫy lừng trong lịch sử. Vua Lý Nhân Tông vẫn ngự ở kinh đô Thăng Long để đọc thư báo tiệp mỗi ngày.

Trên đây, chỉ điểm lại vài nét của mốc son 1076, ghi dấu Đại Việt chiến thắng oanh liệt trong cuộc xâm lược của liên minh Tống, Chiêm, Chân Lạp, xin được chuyển qua nội dung chính của bài viết.

Thế kỷ 11, 12 Chân Lạp đang trên đà mở mang lãnh thổ, chiếm nhiều đất đai của Chiêm Thành, Thái, Lào, Miến để phát triển thành đế quốc Chân Lạp. Vì các vua Chân Lạp từ 1000 đến 1128 phải giải quyết những bất ổn về nội trị, phải chống trả những cuộc xâm lược của Champa do Harivarman IV thân chinh. Và do những chiến công “phá Tống bình Chiêm” vang dội của Đại Việt dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông nên đế quốc Chân lạp luôn giữ mối bang giao hòa hiếu với Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép những năm Chân Lạp có cử sứ giả sang Đại Việt để bang giao: 1012, 1014, 1020, 1025, 1026, 1039, 1056, 1077, 1089, 1120, 1123. Thời kỳ này, chỉ một lần ngoại giao giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp có xấu đi khi đế quốc Chân Lạp liên minh với Tống trong cuộc xâm lược năm 1076, trên danh nghĩa chứ không thực sự tham chiến. Sau khi Harshavarman III tử nạn, do Harivarman IV của Champa gây ra, khi vua này thân chinh đánh phá Angkor vào 1080. Sau cái chết của Harshavarman III là thời kỳ trị vì của Jayavarman VI (1080 – 1107 ) và Dharanindravarman I (1107 – 1113), nói chung hai ông vua này không có gì nổi bật. Năm 113, người cháu trai của Dharanindravarman I làm cuộc đảo chánh dân sự, giết vua Dharanindravarman I để cướp ngôi và trở thành vị vua kiệt xuất Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp. Và kể từ khi ông vua đầy tham vọng và hiếu chiến này lên ngôi, tình hình Đông Nam Á đầy bất ổn, luôn xảy ra xây dựng lớn mà tàn phá cũng lớn. Giữa Đại Việt và đế quốc Chân Lạp không còn hòa hiếu như xưa, vì tham vọng quá lớn của Suryavarman II.

Dưới triều đại của Suryavarman II, ở kinh đô Angkor, ngôi đền lớn nhất Angkor Wat được xây dựng trong khoảng thời gian 37 năm. Angkor Wat là nơi thờ thần Vishnu. Vương quốc Haripunjaya của dân tộc Môn (nay là miền Trung Thái Lan) bị Suryavarman II thôn tính.

Một khu vực xa hơn về phía tây của vương quốc Pagan (nay là Myanmar )cũng bị Suryavarman II xâm chiếm và nhập vào đồ bản của đế quốc Chân Lạp. Phía nam, Suryavarman II cũng lấn đến vương quốc Grahi (nay là tỉnh Nakhon Si Tham marat của Thái Lan) thuộc khu vực bán đảo Malay. Về phía đông, nhiều vùng của Chiêm cũng bị sáp nhập vào đế quốc Chân Lạp. Về phía bắc, các vùng đất song song với Đại Việt, đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay cũng bị Suryavarman II thôn tính. Như thế thời Suryavarman II đế quốc Chân Lạp có lảnh thổ với diện tích gấp 10 diện tích lãnh thổ Đại Việt.
Vào năm 1080, sau khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman IV của Champa đã xua quân đánh đế quốc Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược.

Năm 1128, Suryavarman II hòa hoãn với Harivarman V của Champa để dồn sức tấn công Đại Việt. Sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà ngày 4 tháng chạp năm Đinh Mùi[1127] tại điện Vĩnh Quang, ngày 8 tháng chạp linh cửu quàng ở điện Hồ Thiên, Hoàng thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi trước linh cửu, chưa kịp táng tiên đế, chưa đầy hai tháng quốc tang thì Suryavarman II đã cử quân tướng 2 vạn sang xâm lược Đại Việt từ ngày 29 tháng giêng Mậu Thân [1128]. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mậu Thân, Thiên Thuận năm thứ 1[1128]. Mùa xuân, tháng giêng…Ngày Giáp Dần, hơn hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh”.

Quân Chân Lap hơn hai vạn, của một đế quốc với lãnh thổ rộng gấp mười Đại Việt, với sự lãnh đạo của một hoàng đế kiệt hiệt như Suryavarman II, đã từng thôn tính nhiều vương quốc, thì đây là một cuộc xâm lược đích thực, không dừng lại ở mức cướp bóc! Vua Lý Nhân Tông đã tiên liệu khi để lại di chiếu, có đoạn dặn dò : “…Mà thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ[12 tuổi], có nhiều đại độ, thông minh thành thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nghiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế…”(sdd, tr 296). “Việc không ngờ” đâu chỉ “biến động giành ngôi của các thân vương” mà còn nạn ngoại xâm của các lân bang nữa. Ngày Quí Hợi tháng hai, tướng Lý Công Bình đã đánh bại quân xâm lược Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính. Ngày Đinh Mão, tháng 2, khi các quan dâng biểu mừng vua lên ngôi thì cũng là ngày nhận thư báo thắng trận của Lý Công Bình gửi về kinh sư. Tháng 3, Lý Công Bình đem binh về kinh sư, dâng tù 169 người.

Bị thua đau vào cuối tháng giêng, chỉ hơn nửa năm, vào tháng 8, hoàng đế Suryavarman II lại lệnh cho một đạo quân lớn gồm 700 thuyền chiến lại đánh phá ở hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh). Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai tướng Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hóa, tướng Dương Ổ ở châu Nghệ An đem quân đánh và phá được giặc. Suryavarman II lại gửi hoàng đế Lý Thần Tông một phong quốc thư, yêu cầu Đại Việt cử sứ giả sang Chân Lạp. Vua Đại Việt không thèm trả lời.

Bốn năm sau, Nhâm Tý [1132], Thiên Thuận năm thứ 5, Suryavarman II của Chân lạp cử tướng hội quân cùng với Chiêm Thành lại đánh châu Nghệ An. Hoàng đế Lý Thần Tông xuống chiếu sai Thái úy Dương Anh Nhĩ huy động quân binh ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An chống trả mạnh mẽ, kết quả phá tan quân xâm lược.

Năm Ất Mão [1135], Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 3, không xâm lược được Đại Việt, Chân Lạp và Chiêm Thành chuyển qua hòa hoãn đều cử sứ giả sang Đại Việt. Chỉ hai năm sau, vào năm Đinh Tỵ [1137], Thiên Chương Bảo Tượng năm thứ 5, Suryavarman II, chưa nguôi hận, lại sai tướng Phá Tô Lăng đưa quân đánh phá châu Nghệ An. Mặc dầu sử Việt không ghi chép số lượng quân Chân Lạp, nhưng có thể đoán định quân xâm lược phải có số quân lớn đáng kể, vì hoàng đế Lý Thần Tông phải xuống chiếu sai Thái úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chỉ một tháng sau, vừa địch họa lại gặp động đất “nước sông đỏ như máu”, nhưng Thái úy Lý Công Bình cũng đánh tan được quân giặc.

Thế kỷ thứ 12, Champa vào thời vua Jaya Indravarman V [1086-1139]đã liên minh với Chân Lạp để gây chiến tranh chống lại với Ðại Việt. Sau những lần xâm lược Đại Việt không thành công, Suryavarman II của đế quốc Chân Lạp quay ra nghi ngờ vương quốc Champa, dưới triều vua Jaya Indravarman III [1139-1145], đang liên minh với Ðại Việt, quyết định tuyên chiến với Chiêm vào năm 1145. Quân đội viễn chinh của đế quốc Chân Lạp xâm lược Chiêm, chiếm thành Ðồ Bàn, vua Jaya Indravarman III mất tích, và Suryavarman II đặt quyền cai trị ở lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành.

Trước tình hình nguy ngập này, vua Jaya Indravarman VI [1139-1147], thủ lĩnh một tiểu vương quốc Panduranga, quyết định nổi dậy chống cuộc xâm lăng của đế quốc Chân Lạp. Vua Jaya Harivarman VI [1147-1163] kế tục nghiệp kháng chiến và hoàn toàn thắng lợi năm 1149, giải phóng thủ đô Đồ Bàn và đưa Chiêm Thành thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Chân Lạp .
Trong khoảng thời gian từ 1145 đến 1149, đế quốc Chân Lạp đã cai trị miền bắc Chiêm Thành và như thế đế quốc này tiếp giáp Đại Việt ở phía tây nam. Do Suryavarman II phải đối phó với cuộc kháng chiến mạnh mẽ của hai đời vua ở nam Chiêm Thành nên tạm hòa hoãn với Đại Việt. Năm 1149 thất bại ở Chiêm, vua Suryavarman II lại thân chinh đánh Đại Việt vào năm 115O.Lúc bấy giờ vua Lý Anh Tông chỉ mới 10 tuổi, nhưng các quan văn võ vẫn có người giỏi phò tá, trong đó có thái phó Tô Hiến Thành là người từng dẹp được giặc Thân Lợi [1141], Thái sư Mậu Du Đô từng được lệnh vua lo tuần phòng biên giới…Nói chung việc canh phòng của Đại Việt rất cẩn mật. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Canh Ngọ [1450], Đại Định năm thứ 11…Mùa xuân, tháng 3, hạn. Mùa thu, tháng 7 hạn. Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ” (sđ d, tr 318).

Các nhà sử học khi nghiên cứu văn khắc trên bia đá ở Angkor Wat, thừa nhận Suryavarman II từng xâm lược Chiêm, Đại Việt trong khoảng từ 1145 đến 1150. Năm 1149 bị vua Chiêm anh hùng Jaya Harivarman IV từ phía nam đánh tới, dồn quân Chân Lạp lui dần về phía bắc. Có khả năng, vào năm 1150, cuộc tháo lui của quân Chân Lạp ở thế thua đối với quân quật khởi Chiêm Thành, lại trở thành chiến dịch xâm lược Đại Việt. Quân Chân Lạp lúc này vẫn còn do Suryavarman II chỉ huy, không những dùng thủy binh mà còn dùng tượng binh, bộ binh trong trạng huống “thiên không thời” (hạn hán kéo dài từ xuân đến thu), “địa chẳng lợi”(Chiêm Thành đang hừng hực kháng chiến, Đại Việt lo phòng vệ cẩn mật), “nhân không hòa”(cả người Chiêm và người Đại Việt đều oán hận đế quốc Chân Lạp) cho nên đoàn quân xâm lược của Suryavarman II đã có một kết thúc bi thảm ở núi Vụ Thấp, còn gọi núi Vụ Ôn, tức núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn tĩnh Hà Tĩnh. Có khả năng Suryavarman II và phần nhiều binh lính của ông vua hiếu chiến đã chết thảm vì lam chướng ở tử địa Vụ Quang, quân Chân Lạp còn lại như rắn mất đầu và chỉ còn số ít nên tự tan vỡ.

Angkor Wat hoành tráng đầy kiêu hãnh do Suryavarman II khai sinh, nhưng cũng là nổi đau của linh hồn Suryavarman II đang vất vưỡng đâu đó trong mây núi Vụ Quang ; bởi không có một phiến đá nào ở Angkor Wat ghi lại ngày tháng năm tử trận của một hoàng đế đầy tham vọng. Tự hào thay, con cháu họ Lý của miền Diên Uẩn-Cổ Pháp, những hậu duệ kiệt hiệt của dòng họ Lý Lĩnh Nam, nối tiếp dòng máu bất khuất của người anh hùng Lý Nam Đế, từng trị vì đất nước Vạn Xuân vang bóng một thời độc lập tự chủ.

Liệu Việt Nam có thể vun đắp mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ mà không giẫm lên chân Trung Quốc?

Liệu Việt Nam có thể vun đắp mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ mà không giẫm lên chân Trung Quốc?

Đầu năm 1833, một phái đoàn Mỹ do Edmund Roberts dẫn đầu đã tới Việt Nam trên chiếc chiến hạm nhẹ USS Peacock neo đậu tại vịnh Vũng Lắm, ngoài khơi tỉnh Phú Yên ngày nay. Với tư cách là một "điệp viên bí mật đặc biệt" của Tổng thống Andrew Jackson, Roberts đã đề xuất ký kết một hiệp định thương mại với nhà Nguyễn nhưng sứ mệnh không hoàn thành do những hiểu lầm từ rào cản ngôn ngữ và chính sách bế quan tỏa cảng lúc bấy giờ của Việt Nam gây ra.
Hai nước đã phải mất 166 năm sau mới có thể đi đến một hiệp định thương mại song phương. Nhiệm vụ dang dở của Roberts là một trong nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, mà ngay từ ngày đầu hai bên bắt đầu có những sự tiếp xúc, đã ngăn cản Việt Nam và Mỹ tạo dựng một mối quan hệ vững chắc hơn.

Thế kỷ 20, việc các tương tác kinh tế nghèo nàn cùng những điều kiện bất lợi trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã càng đẩy hai nước rời xa nhau. Việt Nam đã không may mắn khi ở giữa một cuộc đối đầu chiến lược cam go giữa hai khối Đông - Tây khi Chiến tranh lạnh diễn ra mạnh mẽ hơn vào những năm 1950. Khi các chiến sĩ Cộng sản Việt Nam đánh bại quân Pháp và tiến tới thống nhất cả nước vào năm 1954, họ đã vấp phải một chính sách kiềm chế chống cộng sản của phương Tây mà Mỹ là người đứng đầu. Trong khi đó, khối Cộng sản tiếp nhận Việt Nam như một "tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc" ở Đông Nam Á. Cuối cùng, Việt Nam và Mỹ đã rơi vào một cuộc chiến khốc liệt để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử hai nước.

Kết thúc chiến tranh, hai nước phải mất thêm hai thập niên nữa để hàn gắn và bình thường hóa quan hệ, điều mà chỉ đạt được vào năm 1995. Kể từ khi đó, mối quan hệ đã phát triển với tốc độ khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất và nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 10 của Việt Nam. Quan hệ chính trị cũng vươn tới tầm cao mà cải hai bên đều mong muốn nâng lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Trong khi đó, quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn nhưng cũng đang được thắt chặt. Chuyến thăm lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tới vịnh Cam Ranh hôm 3/6/2012 chứng minh cho mối quan hệ đang ngày một nồng ấm giữa hai nước.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào bối cảnh lịch sử, với bất cứ ai quan tâm đến mối quan hệ Việt - Mỹ cũng nên xem xét hai câu hỏi quan trọng. Trước hết, do vịnh Cam Ranh cách không xa vịnh Vũng Lắm, chuyến thăm của Panetta gợi lại sứ mệnh của Roberts năm 1833. Liệu Việt Nam sẽ chớp lấy cơ hội từ sự tái quan tâm của Mỹ đến mình để đảm bảo một mối quan hệ vững chắc hơn với siêu cường số một thế giới, hay sẽ lại để nó trôi qua, như những gì triều đình Huế đã làm vào năm 1833?

Thứ hai, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, một mối quan hệ Việt-Mỹ mạnh mẽ hơn sẽ khó tránh khỏi gây tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Vậy Việt Nam sẽ rơi vào cuộc Chiến tranh lạnh 2.0 và lại trở thành nạn nhân của một cuộc chơi quyền lực mới?

Không giống như thời nhà Nguyễn, Việt Nam ngày nay đã là một quốc gia mở cửa hơn nhiều. Cải cách kinh tế từ những năm 1980 đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Về mặt này, Việt Nam coi Mỹ là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu. Đầu tư từ các tập đoàn công nghệ cao của Mỹ như Intel đã mở đường cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn giúp Việt Nam vươn lên tầm cao mới trong chuỗi giá trị và tạo dựng một nền kinh tế sáng tạo, hiệu quả. Do vậy, Việt Nam muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế với Mỹ. Quyết định tham gia đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương là một minh chứng cho điều đó.

Tuy nhiên, việc Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ với Mỹ là một chuyện, nhưng mối quan hệ đó sẽ tiến triển bao xa vẫn là điều chưa ai rõ. Trước hết, những khác biệt trong hệ thống chính trị giữa hai nước luôn khiến Việt Nam phải thận trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vẫn coi chiến lược "diễn biến hòa bình" là mối đe dọa lớn đối với sự an nguy của chế độ. Một bộ phận trong giới lãnh đạo ĐCSVN tin rằng chiến lược đó đang được các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, sử dụng để từng bước cản trở và làm thay đổi Đảng. Những lo ngại đó càng sâu sắc hơn bởi những chỉ trích thường xuyên của họ về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhiều chính trị gia Mỹ thậm chí còn nêu cải thiện tình hình nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương.

Trong khi đó, Việt Nam cũng thận trọng để không để những diễn triển trong quan hệ Việt - Mỹ ảnh hưởng đến sự gắn kết với Trung Quốc. Chênh lệch sức mạnh, vị trí địa lý gần gũi, và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như sự tương đồng ý thức hệ giữa hai Đảng Cộng sản đều có xu hướng khiến cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi có bất kỳ động thái nào có thể gây khó khăn cho mối quan hệ của Việt Nam với người láng giềng phương bắc.

Ngoài ra, một mối quan hệ xấu đi với Trung Quốc cũng không tránh khỏi gây bất ổn cho môi trường bên ngoài và phát triển kinh tế trong nước của Việt Nam. Do tăng trưởng kinh tế trở thành nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo ổn định đất nước, Việt Nam không muốn đi ngược lại con đường đã đi. Điều này chỉ ra một điểm: mặc dù muốn thúc đẩy trao đổi kinh tế với Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn do dự tăng cường quan hệ chính trị và quân sự với đất nước từng là kẻ thù này.

Tuy nhiên, diễn biến thực tế trong mối quan hệ song phương trong vài năm qua cho thấy một hướng đi trái ngược; mối quan tâm củng cố quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ của Việt Nam dường như càng sâu sắc hơn ngay cả khi những nỗ lực như vậy có thể khiến Trung Quốc không hài lòng và gây mất tự tin cho một bộ phận lãnh đạo Đảng.

Mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam nói mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp hơn được đặt trong khuôn khổ chính sách đối ngoại chung của Việt Nam là đa dạng hóa và đa phương hóa, hầu hết các nhà quan sát bên ngoài đều cho rằng động cơ chính đằng sau quyết định nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết hơn đó chủ yếu liên quan đến những căng thẳng đang gia tăng trên Biển Đông, nơi Trung Quốc trở nên ngày càng ngông cuồng trong cách thực thi các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ của mình.

Với những tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các ranh giới biển, Việt Nam và Trung Quốc là hai bên đối lập chính trong tranh chấp Biển Đông. Việt Nam nhìn chung coi cuộc xâm lược chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc năm 1974, cuộc đụng độ hải quân với Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa năm 1988, và tuyên bố chủ quyền biển dựa trên đường 9 đoạn là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, thứ mà trong quá khứ Việt Nam đã từng là nạn nhân.

Việc Trung Quốc ngày càng hung hăng trong thời gian gần đây - như thể hiện trong vụ việc của tàu Bình Minh 2 hồi tháng 5/2011 (khi tàu Trung Quốc tấn công tàu khảo sát địa chất của Việt Nam), và việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa vừa qua (một thành phố cấp tỉnh trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý các đảo và bãi đá trên Biển Đông), và việc Trung Quốc mời thầu các nhà thầu quốc tế 9 lô thăm dò dầu khí ngay trong vùng đặc quyền của Việt Nam hồi tháng 6 - càng báo động Việt Nam về ý đồ của Trung Quốc ở Biển Đông.

.... Trước sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng ở quy mô lớn hơn nhiều của Trung Quốc, khoảng cách quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục nới rộng. Vì thế, ngay cả khi Việt Nam không ngừng nhấn mạnh chính sách quốc phòng tự lực, Việt Nam cũng vẫn cần làm sâu sắc mối quan hệ chiến lược với các cường quốc để bổ trợ cho những sự yếu thế đáng kể trong quan hệ với Trung Quốc.

Trong kịch bản đó, Mỹ trở thành đối tác được ưu tiên hơn của Việt Nam. Trước hết, Mỹ là cường quốc duy nhất có khả năng thách thức và kiềm chế hiệu quả tham vọng quân sự của Trung Quốc. Thứ hai, trong khi mối đe dọa "diễn biến hòa bình" được cho là âm mưu của các nước phương Tây, chưa mang đến những nguy cơ thực sự đối với sự cầm quyền của Đảng, mối đe dọa mang tên Trung Quốc đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đang hiện hữu hơn nhiều. Và thứ ba, trong khi thực tế mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ có thể khiến Trung Quốc khó chịu và mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế Việt Nam, cơ sở chính cho sự cầm quyền của Đảng - chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm - cũng có nghĩa là nếu nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc và để cho sự toàn vẹn lãnh thổ gặp nguy thì nó sẽ thậm chí còn gây thiệt hại hơn nhiều cho uy tín và tính chính danh của Đảng.

Quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ vừa qua... cũng sẽ làm diễn biến cuộc tranh chấp thay đổi theo hướng có lợi cho Việt Nam, ít nhất là trong ngắn hạn.

Xét về chiến lược, tranh chấp Biển Đông đang được cấu thành bởi ba lớp mâu thuẫn gắn bó chặt chẽ với nhau. Lớp trong nhất là cuộc đối đầu giữa Trung Quốc với từng bên tuyên bố chủ quyền Biển Đông trong ASEAN, bao gồm Việt Nam. Lớp ở giữa là cuộc cạnh tranh giữa ASEAN với Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cuộc cạnh tranh chiến lược mới nổi lên rõ rệt trong thời gian gần đây giữa Trung Quốc và Mỹ, trong đó Biển Đông là một trong những sân khấu diễn ra. Mặc dù Mỹ không phải là một bên trong tranh chấp, nhưng tham vọng khó chấp nhận và sự gia tăng quyết liệt của Trung Quốc trên Biển Đông tạo cho Mỹ cái cớ để can dự vào. Điều mà Mỹ muốn đảm bảo thông qua tham gia vào cuộc tranh chấp không phải chỉ là hòa bình hay tự do hàng hải trên Biển Đông, mà có vẻ như tranh chấp còn đang được siêu cường này sử dụng như một công cụ tiện lợi để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc ở tầm khu vực và trên phạm vi toàn cầu.

Động thái của Mỹ rõ ràng phù hợp với lợi ích của Việt Nam, tức là đưa tranh chấp với Trung Quốc ra lớp ngoài cùng để hóa giải sức mạnh vượt trội hơn của Trung Quốc. Sự tham gia của Mỹ dù là gián tiếp cũng có thể buộc Trung Quốc phải hành động thận trọng hơn và ít sẵn sàng sử dụng vũ lực hơn. Ngoài ra, toan tính chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc cũng sẽ làm giảm áp lực trong vấn đề nhân quyền đối với Việt Nam và tạo cơ hội thúc đẩy quan hệ song phương bước lên tầm cao mới.

Việt Nam và Mỹ vừa có những bước đi thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Hai nước từng là kẻ thù đang tổ chức các cuộc đối thoại an ninh, quốc phòng và nhân quyền hằng năm. Trong chuyến thăm lịch sử tới vịnh Cam Ranh, Bộ trưởng Benetta được cho là đã bày tỏ rằng Mỹ sẵn sàng giúp nâng cấp cảng và kêu gọi Việt Nam cho phép tàu hải quân Mỹ, bao gồm cả tàu chiến, có quyền tiếp cận lớn hơn tới cơ sở này. Và nếu xu hướng hợp tác đó còn tiếp tục, Mỹ có thể sẽ xem xét việc dỡ bỏ lệnh cấm vận mua bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần. Bên cạnh đó, hai nước cũng có nhiều động thái xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau hơn nữa. Đơn cử, từ tháng 8/2012, một dự án do Mỹ tài trợ đã bắt đầu được triển khai để thanh trừ các chất hóa học độc hại còn sót lại từ chất độc màu da cam do Mỹ dải thảm tại một địa điểm gần sân bay Đà Nẵng. Dự án được đại sứ Mỹ David Shear miêu tả là động thái cụ thể của hai nước nhằm chôn lấp di sản của quá khứ.

Tuy nhiên, mặc dù mang lại những lợi ích chiến lược quan trọng, việc nối lại tình hữu nghị Việt-Mỹ trong bối cảnh cuộc đối đầu địa chính trị ngày càng sâu sắc giữa Mỹ với Trung Quốc cũng mang đến cho Việt Nam những rủi ro, mà nghiêm trọng nhất là có thể kéo Việt Nam vào một cuộc chơi quyền lực mới. Khi Trung Quốc đang từng bước hướng đến trở thành một siêu cường, một cuộc chiến tranh lạnh 2.0 có thể sẽ xuất hiện trong tương lai không xa. Lý thuyết thông thường, đặc biệt từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực, sẽ dự đoán rằng nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích toàn cầu của Mỹ, Mỹ sẽ phản ứng lại bằng cách kiềm chế Trung Quốc. Thực tế, sự chuyển hướng trọng tâm quân sự từ châu Âu về châu Á, theo như tuyên bố của Panetta tại Singapore hồi tháng 6 năm nay, có thể được coi là dấu hiệu ban đầu của chính sách kiềm chế. Tương tự, ở cấp độ khu vực, sự can dự nhiều hơn của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông từ năm 2010 cho thấy Mỹ đang tìm cách ngăn cản Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng biển của mình. Tóm lại, Mỹ đang sử dụng "mối đe dọa Trung Quốc" ở Biển Đông để tập hợp lực lượng và sự ủng hộ nhằm đối phó với Trung Quốc. Việc Mỹ nối lại quan tâm đối với Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa lý quan trọng và là kẻ thù của Trung Quốc trong lịch sử, do đó được định hình trong bối cảnh này.

Nếu cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ tiếp tục diễn triển quyết liệt hơn, Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và một bên trong tranh chấp Biển Đông, sẽ ở vào thế rất khó trong việc duy trì cân bằng giữa hai cường quốc và tránh những điều không mong muốn. Khi Mỹ tái cân bằng lực lượng về phía châu Á - Thái Bình Dương và làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước trong khu vực, Trung Quốc sẽ không thể đứng yên. Theo đó, Trung Quốc sẽ cố gắng gây áp lực lên Việt Nam, nhắc nhở Việt Nam về tâm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Đơn cử, trong mấy tháng trở lại đây, đã có những báo cáo về việc Trung Quốc ngừng hoặc trì hoãn nhập khẩu một số hàng hóa của Việt Nam vì những nguyên do còn chưa xác định rõ. Như đã nói ở trên, Trung Quốc vừa thành lập một đơn vị quân sự đồn trú tại cái gọi là thành phố Tam Sa mới thành lập để phụ trách theo dõi khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Động thái này rõ ràng nhằm vào Việt Nam và Philippine. Chưa hết, Trung Quốc cũng ngấm ngầm thực hiện chiến dịch ngoại giao gây ảnh hưởng lên Campuchia, láng giềng hữu nghị từ nhiều năm của Việt Nam. Việc Campuchia, được cho là dưới áp lực của Bắc Kinh, phản đối đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo chung kết thúc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phnom Penh năm nay có thể được coi là động thái của Trung Quốc nhằm chia rẽ Việt Nam và Campuchia. Một mối quan hệ tốt với Campuchia cũng có ý nghĩa thiết yếu đối với an ninh của Việt Nam, nên dường như Trung Quốc đã biết phải làm đau Việt Nam như thế nào nếu không dành cho Bắc Kinh sự quan tâm thích đáng.

Tuy nhiên, khả năng Việt Nam bị lôi kéo vào một cuộc chơi quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc không nên bị phóng đại. Khả năng ấy vẫn phụ thuộc một số diễn biến khác. Quan trọng nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ trở nên khốc liệt đến mức nào. Không giống như thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự phụ thuộc lẫn nhau mạnh mẽ và phức tạp về kinh tế đang có xu hướng hạn chế các cường quốc theo đuổi kiểu đối đầu thời Chiến tranh lạnh. Diễn biến tương lại trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc, và Việt Nam cũng có vai trò nhất định. Đơn cử, nếu có được sự nhượng bộ từ Trung Quốc, và bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông được thông qua, Việt Nam sẽ thấy ít sẵn sàng làm sâu sắc quan hệ với Mỹ hơn nếu nó đồng nghĩa với việc gây tổn hại cho quan hệ với Trung Quốc.

Việt Nam ngày nay không giống như đất nước của Triều đại nhà Nguyễn gần hai thế kỷ trước, không muốn bỏ qua cơ hội củng cố quan hệ với Washington. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ tăng nhiệt, nhân tố Trung Quốc cũng nổi lên là vấn đề thách thức nhất đối với các nhà chiến lược và hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam bị giằng xé giữa hai lựa chọn: duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ vững chắc hơn với Mỹ. Là một nước nhỏ và láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam không muốn phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Hậu quả của mỗi lựa chọn như thế ai cũng rõ, nên hiển nhiên, nếu phải quyết định thì đó sẽ là một lựa chọn đầy khó khăn cho Việt Nam.

quan hệ Việt - Nga

quan hệ Việt - Nga

Quan hệ Việt - Nga có từ lâu, vào giữa thế kỷ XIX, khi tàu thủy của Nga cập cảng Sài Gòn. Cách mạng tháng Mười thắng lợi, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người và ảnh hưởng trực tiếp đếnphong trào cách mạng Việt Nam. Đi theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Cách mạng tháng Mười, cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi.


Từ năm 1950, quan hệ ngoại giao chính thức giữa Liên Xô và Việt Nam được thiết lập. Từ đó, quan hệ Xô - Việt ngày càng được củng cố và phát triển về tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, quân sự… trên cơ sở nguyên tắc Mác - Lênin và cả chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chính phủ và nhân dân Liên Xô đã giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Sau khi Việt Nam thống nhất, Liên Xô tiếp tục giúp đỡ Việt Nam xây dựng lại đất nước sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá.

Năm 1991, Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết tan rã. Quan hệ Việt - Nga chuyển sang giai đoạn mới. Quan hệ Việt - Nga từ đây vừa kế thừa, tiếp nối quan hệ Xô- Việt trước đây, vừa có những thay đổi về chất, điều chỉnh một cách căn bản so với quan hệ Xô- Việt: quan hệ trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi và trải qua một số giai đoạn phát triển khác nhau.

1. Giai đoạn 1991-1993:

Đây là giai đoạn khó khăn nhất trong quan hệ Việt - Nga. Mối quan hệ lúc này bị ngừng trệ, suy giảm mạnh. Nguyên nhân chủ yếu là do cả hai bên đều xác định lại hệ thống các lợi ích quốc gia của mình, cũng như sự ưu tiên đối ngoại của từng nước đã trở nên rất khác nhau trong bối cảnh quốc tế mới sau chiến tranh lạnh. Liên bang Nga mãi theo đuổi chính sách đối ngoại "Định hướng Đại Tây Dương", đặt các nước tư bản phát triển phương Tây lên thành ưu tiên số một. Còn Việt Nam coi việc cải thiện quan hệ với các nước láng giềng, các nước Đông Nam Á lên hàng đầu. Việt Nam cũng rất khó khăn trong việc xác định đối tác mới của mình- Liên bang Nga là một đối tác như thế nào?

Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác: sự thay đổi quá nhanh của tình hình quốc tế, mà hệ quả là trong khi cơ chế quan hệ truyền thống bị đổ vỡ, thì cơ chế quan hệ kiểu mới đã không kịp điều chỉnh và thiết lập ngay được. Hơn nữa, khoản nợ của Việt Nam đối với Liên Xô mà Nga kế thừa cũng trở thành vật cản lớn đối với quan hệ Việt - Nga.

2. Giai đoạn 1994-1996:

Những thất bại của chính sách đối ngoại phiến diện, chứa đầy ảo tưởng về thế giới phương Tây những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đã thức tỉnh ban lãnh đạo Nga. Từ năm 1994, Liên bang Nga đã có những điều chỉnh quan trọng, căn bản có tính chất bước ngoặt trong chính sách đối ngoại. Nội dung bao trùm của quá trình điều chỉnh đó là lấy "Định hướng Âu - Á" (cân bằng quan hệ cả hướng Tây lẫn hướng Đông) thay cho "Định hướng Đại Tây Dương", nhằm khắc phục tình trạng phiến diện trong quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, đồng thời chú trọng hơn trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước SNG, Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN.

Sự khẳng định chính sách đối ngoại mới của Nga được Tổng thống Nga nhấn mạnh trong Thông điệp Liên bang đọc trước Đuma quốc gia ngày 24-2-1994: "Năm 1994, chúng ta phải chấm dứt những nhượng bộ đơn phương đã trở thành một thói quen xấu… Nước Nga không phải là một vị khách ở châu Âu mà là một nước tham gia đầy đủ vào cộng đồng châu Âu và có quyền được hưởng phúc lợicủa cộng đồng. Chúng ta sẽ xuất phát từ tiền đề này."

Triển khai chính sách đối ngoại "Định hướng Âu - Á", khu vực Đông Nam Á ngày càng thu hút sự quan tâm của Liên bang Nga. Nga ngày càng nhận thức sâu sắc hơn những biến đổi to lớn và quan trọng ở khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh. Đặc biệt, sự cải thiện quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Sự phát triển năng động của khu vực đã tác động không nhỏ đến sự thay đổi cách nhìn của Liên bang Nga trong quan hệ với các nước ASEAN, đến sự điều chỉnh chính sách của Nga đối với khu vực này. Mở rộng quan hệ song phương với từng nước ASEAN, Liên bang Nga có những nỗ lực đáng kể trong việc phát triển quan hệ đa phương với ASEAN, nhất là từ khi Nga trở thành 1 trong 18 nước tham gia diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) vào tháng 4-1994 và là 1 trong 10 bên đối thoại đầy đủ của ASEAN (7-1996).

3. Giai đoạn 1994-1996:

Đây là giai đoạn quan hệ Việt - Nga từng bước được cải thiện và chuyển theo chiều hướng tích cực. Cơ sở của sự chuyển hướng đó là hai nước đã ký "Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa Liên bang Nga và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" vào tháng 6-1994 trong chuyến thăm hữu nghị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt thay cho Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Xô - Việt (11-1978) đã hết hiệu lực. Đây là sự kiện quan trọng, mở ra giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước, giai đoạn quan hệ theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Hiệp ước này trở thành nền tảng pháp lý để hai nước xúc tiến quan hệ kiểu mới, khác về chất so với quan hệ Xô - Việt trước đây.

4. Giai đoạn 1997-1999:

Đây là giai đoạn quan hệ Nga - Việt được nâng cao về chất, trước hết là trong lĩnh vực chính trị - đối ngoại. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thực hiện nhiều chuyến thăm và làm việc ở từng nước, ký kết nhiều văn kiện hợp tác quan trọng. Trong đó, đáng chú ý nhất là chuyến thăm Việt Nam tháng 11-1997 của Thủ tưởng Liên bang Nga V.Checnômưrđin. Chuyến thăm này là một mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt Việt - Nga, thể hiện mối quan tâm ngày càng tăng của Nga đối với việc phát triển quan hệ với các nước châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Nga tuyên bố quan hệ với Việt Nam là quan hệ đối tác chiến lược.

Tháng 8-1998, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm chính thức Liên bang Nga. Tổng thống B.Eltsin nhấn mạnh: "Không ai, không có gì và không có thế lực nào có thể ngăn cấm sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước vì lợi ích của mỗi nước và hoà bình thế giới." Hai bên đã ký Tuyên bố chung Việt Nam - Liên bang Nga, Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định về hợp tác xây dựng và vận hành nhà máy lọc dầu Dung Quất, Hiệp dịnh về thanh toán giữa hai ngân hàng và thoả thuận hợp tác giữa hai Bộ Tư pháp. Quan hệ thương mại từ đây có khởi sắc nhưng vẫn còn rất khiêm tốn.

5. Giai đoạn 1999 đến nay:

Sự phát triển ổn định của Việt Nam và nước Nga từng bước ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - chính trị - xã hội đã tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển quan hệ hai nước những năm đầu của thế kỷ XXI. Bước ngoặt trong chính sách ngoại thương Nga với các nước Đông Á và Đông Nam Á có thể được đánh dấu vào thời điểm năm 2000, khi "Quan niệm mới về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga" được thông qua. Văn kiện này thể hiện một hệ thống quan điểm về nội dung và đường lối chính của hoạt động ngoại thương Nga trong tương lai tổng quan, ưu tiên thúc đẩy sự phát triển các quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư tài chính Nga với các quốc gia châu Á.

Chuyến thăm Liên bang Nga của Thủ tướng Phan Văn Khải vào tháng 9-2000 và việc ký Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga đối với các khoản tín dụng đã cung cấp trước đây cùng các Hiệp định, Nghị định thư khác về hợp tác văn hoá, giáo dục, đào tạo đã thúc đẩy sự phát triển toàn diện quan hệ giữa hai nước. Quan hệ thương mại bước đầu tăng trưởng. Đặc biệt, chuyến thăm chính thức đầu tiên (28/2 - 2/3/2001) của người đứng đầu Nhà nước Nga - Tổng thống V.Putin - thể hiện mối quan tâm ngày càng gia tăng của Nga trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống Nga - Việt lên tầm cao hơn. Trong chuyến thăm lịch sử này, hai nước Việt - Nga đã ký nhiều văn kiện và Hiệp định quan trọng, trong đó có Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga, thể hiện ý chí, nguyện vọng của hai nước mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác lâu dài. Từ đây, nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước đã thu được những kết quả khả quan.

Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga:

- Kim ngạch thương mại giai đoạn 2001-2005:

Năm 2001: 573 triệu USD

Năm 2002: 700 triệu USD

Năm 2003: 650,3 triệu USD

Năm 2004: 800 triệu USD

Năm 2005:1.019 triệu USD

- Đầu tư của Liên bang Nga vào Việt Nam (tính đến năm 2005):47 dự án với tổng số vốn là 278 triệu USD, đứng thứ 21/73 trong số nước và khu vực lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư vào 16 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam.

- Đầu tư của Việt Nam vào Liên bang Nga (2005):11 dự án với tổng số vốn là 38 triệu USD, chiếm 11% dự án đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.

Quan hệ Việt - Nga từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến nay đã kế thừa quan hệ Xô - Việt trước đây và chuyển sang một thời kỳ phát triển mới phù hợp với bối cảnh quốc tế, khu vực và của mỗi nước. Sau thời gian đầu bị ngưng trệ, các quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học, giáo dục đã có phát triển, nhưng chưa hoàn toàn phản ánh được tiềm năng to lớn của hai nước. Vì vậy, quan hệ hợp tác Việt - Nga phải được chính phủ hai nước giải quyết thúc đẩy ngang tầm với vị thế của hai nước, mang lại hiệu quả thiết thực cho cả hai quốc gia.

Xác định tầm quan trọng của mối quan hệ Việt- Nga, trong chuyến thăm Liên bang Nga gần đây nhất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ ngày 9 - 12/9/2007, Việt Nam và Liên bang Nga đã ra Thông cáo chung nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử của Hiệp định về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ký ngày 16-6-1994 và Tuyên bố chung về đối tác chiến lược giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ký ngày 1-3-2001. Việt Nam và Nga bày tỏ quyết tâm tiếp tục tăng cường và mở rộng việc phối hợp trên cơ sở lâu dài trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế - thương mại, khoa học - kỹ thuật, kỹ thuật - quân sự, văn hoá và giáo dục trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đáp ứng lợi ích của hai dân tộc, vì sự phát triển và thịnh vượng của khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ Liên bang Nga tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý cho quan hệ hợp tác, phù hợp với đòi hỏi thời đại và lợi ích của hai bên.


TS. Hồ Tố Lương
Viện Sử học [Trang Tin tức Sự kiện

Tại Sao Hoa Kỳ lại ủng hộ Israel ?

Tại sao Hoa Kỳ lại ủng hộ Israel ?

Chìa khóa đích thực cho chính sách Israel của Washington là sự hậu thuẫn lâu dài và rộng lớn của công chúng Mĩ nói chung dành cho quốc gia Do Thái.
Ngày 12 tháng Năm năm 1948, trước nội các chia rẽ của Tổng thống Harry Truman, Clark Clifford, luật sư trưởng của Nhà Trắng, đưa ra những lí lẽ biện hộ cho việc Hoa Kì công nhận quốc gia Do Thái. Với sự chứng kiến của một George Marshall, bộ trưởng ngoại giao lườm lườm đôi mắt và một Robert Lovett, thứ trưởng của Marshall đầy vẻ hoài nghi, Clifford lí giải rằng việc công nhận quốc gia Do Thái sẽ là một hành động nhân đạo phù hợp với những giá trị truyền thống của Mĩ. Để chứng minh cho quyền đòi lãnh thổ của người Do Thái, Clifford đã trích dẫn Đệ nhị Luật của Cựu ước (Deuteronomy): “Đây, ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Đức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này.” [1]

Marshall không được thuyết phục cho lắm và đã nói thẳng với Truman rằng ông sẽ bỏ phiếu chống lại vị tổng thống này trong kì bầu cử tới nếu đây là chính sách của ông ta. Nhưng cuối cùng, Marshall đồng ý không công bố sự chống đối của mình. Chỉ hai ngày sau đó, Hoa Kì thật sự công nhận tân quốc gia Do Thái, 11 phút sau khi Israel tuyên bố sự hiện hữu của mình như một quốc gia. Nhiều quan sát viên, trong cũng như ngoài nước Mĩ, gán ghép quyết định của Truman với quyền lực của cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì. Họ cho rằng lá phiếu và ảnh hưởng báo đài của người Do Thái, cũng như những đóng góp tài chánh của họ vào quĩ vận động tranh cử là trọng yếu trong cuộc chạy đua sát nút vào Nhà Trắng năm 1948.

Kể từ đó về sau, lối lí giải này cứ thế mà được lặp đi lặp lại. Những chuyên gia khả kính về chính sách đối ngoại của Mĩ thường kêu gọi Washington cần phải thận trọng với vùng Trung Đông và từng cảnh báo nhiều vị tổng thống rằng sự hậu thuẫn quá đáng dành cho Israel sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Hoa Kì trên trường quốc tế. Khi các tổng thống Mĩ gạt bỏ chuyên gia tư vấn qua một bên để đi theo một lập trường thân-Israel, nhiều nhà quan sát bèn gán ghép động thái này cho nhóm vận động hành lang của Israel và cứ thế mà khen (hay chê) nhóm này vì đã lay chuyển được người đứng đầu ngành hành pháp. Tuy nhiên, còn có một yếu tố khác cần được xét đến. Như người viết tiểu sử cho Truman là David McCullough đã ghi nhận, sự hậu thuẫn mà Truman dành do quốc gia Do Thái “được nhiệt liệt hoan nghênh” trên toàn nước Mĩ. Một cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tháng Sáu năm 1948 cho thấy rằng số người Mĩ “đồng tình với người Do Thái” nhiều gấp ba lần số người Mĩ “có thiện cảm với người Ả-rập”. Hậu thuẫn này không phải là một ngọn lửa rơm. Sự ủng hộ rộng lớn của dân ngoại Do dành cho nước Israel là một trong những lực chính trị mạnh nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì, và trong 60 năm qua, chưa hề có một cuộc thăm dò nào của Gallup cho thấy số người Mĩ đồng tình với người Ả-rập hay người Pa-lét-tin đông hơn số người bênh vực cho dân Israel.

Hơn thế nữa, qua thời gian, thiện cảm dành cho nước Israel ngày càng gia tăng tại Mĩ, đặc biệt trong các tầng lớp dân chúng phi-Do-Thái (non-Jews). Những năm Bush nắm chính quyền đánh dấu hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel đạt đến mức cao hơn bao giờ cả, và hậu thuẫn này chưa hề suy giảm suốt trong hai nhiệm kì của Bush. Sự gia tăng hậu thuẫn này đã diễn ra thậm chí vào lúc tỉ trọng dân số của người Do Thái trong xã hội Hoa Kì bị suy giảm. Vào năm 1948, người Do Thái chiếm khoảng 3,8 phần trăm dân số Hoa Kì. Cứ cho như hầu hết mọi người Do Thái tại Mĩ ủng hộ một chính sách đối ngoại thân-Israel vào năm đó, thì khoảng 10 phần trăm số người tại Mĩ ủng hộ Israel là có gốc gác Do Thái. Vào năm 2007, người Do Thái chỉ chiếm 1,8 phần trăm dân số Hoa Kì và nhiều lắm họ cũng chỉ chiếm 3 phần trăm số người ủng hộ Israel tại Mĩ.

Những con số này, dù ấn tượng thật đấy, nhưng cũng chưa nói hết mức độ hậu thuẫn thực sự của công chúng Mĩ dành cho Israel. Khi Trung tâm Nghiên cứu Pew đặt câu hỏi trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006, liệu chính sách Mĩ ở Trung Đông có công bằng không, hay đã thiên vị Israel hoặc thiên vị người Pa-let-tin, có đến 47 phần trăm số người trả lời phỏng vấn cho rằng chính sách này công bằng, 6 phần trăm nói rằng chính sách này bênh vực người Pa-let-tin, và chỉ 27 phần trăm nghĩ rằng chính sách Mĩ đã thiên vị Israel. Cuộc thăm dò được xúc tiến trong thời gian Israel tấn công lực lượng Hồi giáo Hezbolla ở Nam Li-băng, một thời điểm mà sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel thậm chí gây nhiều tranh cãi trên khắp thế giới hơn lúc bình thường. Vì thế, chúng ta phải kết luận rằng khi trả lời cuộc phỏng vấn, nhiều người trong số những người Mĩ cho rằng Hoa Kì có chính sách công bằng đối với cả hai phía trong cuộc xung đột Trung Đông thật ra cũng chỉ là những người ủng hộ những chính sách mà hầu hết quan sát viên nước ngoài sẽ cho là thân-Israel một cách quá nồng nhiệt và thậm chí tắc trách. Ít khi công chúng Mĩ thiên về một chính sách đối ngoại nào rõ nét như thế này, sâu sắc như thế này, bền bỉ như thế này – và xung khắc với công luận của nhiều nước khác như thế này.

Ở Hoa Kì, một chính sách đối ngoại thân-Israel không tiêu biểu cho sự thắng thế của một nhóm vận động hành lang nhỏ bé vượt lên trên lên ý chí của đại chúng. Trái lại, nó phản ánh sức mạnh công luận trong việc hình thành chính sách đối ngoại bất chấp cả những lo ngại của giới chuyên gia. Tương tự như cuộc chiến chống ma túy và hàng rào dọc theo biên giới Mê-hi-cô, sự hậu thuẫn dành cho Israel là một chính sách đối ngoại của Mĩ từng làm cho một số chuyên gia ái ngại nhưng lại chiếm được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng. Điều này không có nghĩa là “nhóm vận động hành lang cho Israel” không hiện hữu hoặc không ảnh hưởng tới việc định hướng chính sách của Mĩ tại Trung Đông. Điều này cũng không có nghĩa là người Mĩ nên duy trì những định kiến của mình. (Tôi vẫn giữ quan điểm rằng tất cả mọi người, kể cả người Mĩ và người Israel, sẽ được lợi lộc nếu người Mĩ bày tỏ một sự hiểu biết toàn diện hơn và thiện cảm hơn đối với nhu cầu của người Pa-let-tin.) Nhưng điều này thực ra có nghĩa là cội nguồn sâu xa nhất của chính sách Trung Đông của Mĩ nằm ngoài vòng đai thủ đô Washington và nằm ngoài cộng đồng Do Thái. Muốn hiểu lí do tại sao chính sách của Hoa Kì luôn thiên vị Israel hơn là trung lập hay thân với người Pa-let-tin, chúng ta phải nghiên cứu xuất xứ của sự hậu thuẫn này từ giới bình dân và phi-Do-Thái (non-Jewish) đối với quốc gia Do Thái.

Con cái của David [2]

Lịch sử của việc Hoa Kì hậu thuẫn cho một quốc gia Do Thái tại Trung Đông bắt đầu khá sớm. John Adams [vị tổng thống thứ hai của Hoa Kì] đã dùng những lời lẽ bộc bạch nhất của mình: “Tôi thành thật cầu chúc cho người Do Thái có lại một quốc gia độc lập trong vùng Judea.” Ông nói điều này sau khi rời ghế tổng thống. Từ đầu thế kỉ 19 trở về sau, những người dân ngoại Do [3] theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít [4] (gentile Zionists) rơi vào hai trường phái. Phái Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) dự kiến người Do Thái sẽ trở về Đất Hứa như cách thể hiện theo nghĩa đen lối giải thích lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, những điều tiên tri có liên quan tới sự trở lại trần gian của đức Ki-tô và ngày tận thế. Chẳng hạn, dựa trên lối lí giải của chính mình về Chương 18 của những lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah [Cựu ước], mục sư John McDonald thuộc giáo phái Albany Presbyterian đã tiên đoán vào năm 1814 rằng nhân dân Mĩ sẽ giúp người Do Thái phục hồi quốc gia thời cổ đại của họ. Nhiều tiếng nói trong giáo phái Mormon cũng chia sẻ quan điểm này; vào năm 1841, Kì mục Orson Hyde cho rằng việc người Do Thái trở về Đất thánh đã được khởi động: “Không còn hoài nghi gì nữa, bánh xe vĩ đại hiện đang chuyển động, lời của Đấng Toàn Năng đã tuyên bố rằng bánh xe đó sẽ lăn nhanh.”

Những tín đồ Ki-tô giáo khác, ít bám vào nghĩa đen của Kinh Thánh và ít dựa vào ngôn sứ hơn, lại triển khai một chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiến bộ (progressive Zionism), một lí thuyết có ảnh hưởng qua nhiều thập niên đối với dân ngoại Do trong nhà thờ cũng như ngoài thế tục. Vào thế kỉ 19, những người Ki-tô giáo phóng khoáng thường tin rằng Thiên Chúa đang xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua sự tiến bộ của loài người. Họ nhận thấy nước Hoa Kì dân chủ và (tương đối) bình đẳng vừa là một gương mẫu của thế giới mới mà Thiên Chúa đang tạo dựng vừa là một công cụ vững mạnh để xúc tiến đồ án vĩ đại của ngài. Một số tín đồ Tin Lành Mĩ (American Protestants) [5] tin tưởng rằng Thượng Đế đang khởi động việc đưa những phần tử gọi là người Do Thái bị xuống cấp và đày đọa trên thế giới trở về Đất Hứa, cũng như Thượng Đế đang nâng đỡ và cải thiện cuộc đời của những người ngu si, kém tin khác xuyên qua sự phát triển những nguyên tắc đạo lí Tin Lành phóng khoáng. Họ mong muốn cho người Do Thái thành lập được một quốc gia riêng vì họ tin rằng sự nghiệp lập quốc này sẽ che chở cho người Do Thái khỏi sự bách hại và, thông qua sức mạnh cứu chuộc của tự do và sự cần lao canh tác lương thiện, sẽ nâng cao và cải thiện tình trạng mà họ cho là sự suy đồi đạo lí và sự dơ dáy đáng trách của người Do Thái đương thời ở đế quốc Ottoman và đông Âu. [Cựu tổng thống Mĩ lúc bấy giờ là] Adams đã nhận định: “Một khi có lại được một chính phủ độc lập và không còn bị bách hại, những người Do Thái này sẽ sớm rũ bỏ phần nào tính cộc cằn thô lỗ, những dị hợm trong nhân cách để có lúc trở thành người Ki-tô giáo cởi mở tin vào một Thiên Chúa Nhất thể [6] (Unitarian Christians).” Đối với những tín đồ Ki-tô giáo phóng khoáng nói trên, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Mĩ là bộ phận khắn khít của một chương trình rộng lớn hơn nhằm biến đổi thế giới bằng cách xiển dương những lí tưởng của Hoa Kì.

Không phải tất cả mọi người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiến bộ đều gói ghém lí luận của mình bằng từ ngữ tôn giáo. Ngay từ năm 1816, tờ Niles’ Weekly Register, một báo định kì thông tin và bình luận hàng đầu của Mĩ vào nửa đầu của thế kỉ 19, đã tiên đoán và hoan nghênh sự hồi hương sắp diễn ra của người Do Thái, sự trở về một quốc gia độc lập với thủ đô là Jerusalem. Tạp chí này dự phóng rằng sự nghiệp phục quốc và phục hồi nhân cách của người Do Thái sẽ đẩy mạnh văn minh và tiến bộ – và hiển nhiên là, điều này sẽ rất tốt đẹp cho cả Hoa Kì lẫn người Do Thái.

Về phần mình, những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) trở nên đông đảo hơn sau cuộc Nội chiến của Hoa Kì. Quan điểm của họ được triển khai cao độ về vai trò mà một quốc gia Do Thái được phục hưng có thể nắm giữ trong những biến động dẫn đến ngày tận thế. Vào giai đoạn này, những sách báo nêu bật sự phục quốc được tiên tri trong Thánh kinh của người Do Thái và suy đoán về bản sắc và tiến trình hồi hương các “bộ lạc thất tán” của dân Hêbrơ [7] cổ đại là sách bán chạy nhất từ năm này sang năm khác. Sự liên kết giữa Dwight Moody, một người rao giảng Tin Lành (evangelist) [8]hàng đầu trong nước, và Cyrus Scofield, một học giả Kinh thánh quan trọng, đã đặt lịch sử tương lai của nước Israel ở trung tâm tư duy của đạo Tin Lành bảo thủ Mĩ.

Những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít này tìm được những đồng minh mới, dù đôi khi không như ý, vào khoảng sau năm 1880, tức thời điểm mà đợt nhập cư đông đảo người Do Thái Nga bắt đầu. Một số những di dân mới đến này và một số người Do Thái Đức vốn đã hội nhập vào xã hội Mĩ – cả hai nhóm này – nuôi hi vọng rằng Palestine sẽ thay thế Hoa Kì làm quê hương tương lai cho hạng người bị coi là một tập thể di dân bị khinh ghét khác thường lúc bấy giờ. Đối với những phần tử bài Do Thái (anti-Semites), sự thành lập một quốc gia Do Thái có thể hoặc không có thể “chữa trị” người Do Thái hết những tính chất [tiêu cực] mà nhiều dân ngoại Do gán ghép cho họ, nhưng dù sao đi nữa sự thành lập một quốc gia như thế sẽ giảm bớt làn sóng di dân của người Do Thái vào Hoa Kì.

Năm 1891, những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít liên kết lại với nhau. William Blackstone, lãnh đạo thế tục thuộc giáo phái Methodist, trình lên Tổng thống Benjamin Harrison một kiến nghị kêu gọi Chính phủ Hoa Kì đứng ra làm trung gian triệu tập một hội nghị các cường quốc châu Âu nhằm thúc đẩy Đế quốc Ottoman giao trả Palestine lại cho người Do Thái. Bốn trăm người kí tên, mà tuyệt đại đa số là các nhân vật phi-Do-Thái, gồm có chủ tịch Tối cao Pháp viện; Chủ tịch Hạ viện; các chủ tịch Ủy ban tài chánh Hạ viện và Ủy ban ngoại vụ Hạ viện; tổng thống tương lai William McKinley; thị trưởng các thành phố Baltimore, Boston, Chicago, New York, Philadelphia và Washington; chủ bút và chủ báo các nhật báo hàng đầu trên bờ Đông và Chicago; và hàng giáo phẩm rất đáng nể của các giáo phái như Episcopal, Methodist, Presbyterian và Công giáo. Các lãnh đạo doanh nghiệp tham gia kí bản kiến nghị gồm có Cyrus McCormick, John Rockefeller, và J.P. Morgan. Vào một thời điểm mà cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì vừa không đủ lớn, vừa không đủ mạnh, và cả giới vận động hành lang cho Israel chưa hiện hữu, những thành phần nòng cốt của nhóm dân ngoại Do quyền thế trong xã hội Mĩ (the American gentile establishment) đã chính thức hậu thuẫn một nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kì nhằm lập ra một quốc gia Do Thái trên địa bàn của Kinh thánh.

Có chung mười điều răn

Bất cứ một thảo luận nào về thái độ của Hoa Kì đối với Israel phải bắt đầu từ Kinh thánh. Qua nhiều thế kỷ, tư duy của người Mĩ đã được thấm sâu trong Kinh điển Hêbrơ. Ảnh hưởng này có xuất xứ từ việc tái phát hiện Kinh thánh Cựu ước trong thời kì Cải cách (the Reformation), được tăng cường do việc triển khai lí thuyết thần học Calvin [9] (một tín lí nhấn mạnh sự liên lũy giữa những sự sắp đặt tiền định trong thế gian, thời xưa và ngày nay, do hồng ân Thiên Chúa), và được làm sống động hơn lên do những tương đồng lịch sử giữa những trải nghiệm hiện đại của người Mĩ và những gì mà người Hêbrơ cổ đại đã kinh qua. Do đó, ngôn ngữ, các gương anh hùng và tư tưởng Cựu ước luôn thấm sâu vào tâm thức người Mĩ.

Qua một thời gian dài ở giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kì, việc giảng dạy tiếng Hêbrơ của kinh thánh là điều cưỡng bách ở các đại học Columbia, Dartmouth, Harvard, Princeton và Yale. James Madison hoàn tất chương trình học tại Princeton trong vòng hai năm, nhưng ở nán thêm một năm nữa để học tiếng Hêbrơ. Nhiều giáo sĩ và nhiều tác giả thời Thuộc địa không ngớt mô tả nước Mĩ là một Ca-na-an mới, “một miền đất tràn trề sữa và mật”, đồng thời nhắc nhở thính, độc giả của mình rằng cũng như người Hêbrơ đánh mất phước lành khi họ xúc phạm Thiên Chúa, người Mĩ cũng sẽ chịu khổ nạn nếu họ không chịu nghe theo vị Thượng Đế đã dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Cho đến ngày nay, những điển cố Cựu Ước vẫn còn thấm đẩm các bài viết cũng như diễn văn chính trị, và thậm chí trong cả địa lí nữa– hơn một ngàn thành phố lớn, nhỏ tại Hoa Kì có tên lấy từ Kinh thánh.

Biểu hiện có tính tôn giáo sống động nhất nói lên tầm quan trọng của Kinh thánh Cựu ước trong văn hoá Mĩ ngày nay là sự trỗi dậy của thuyết nói về mệnh trời trước ngày tận thế (premillennial dispensationalism), đây là một lối diễn giải những điều tiên tri trong kinh thánh, một lý thuyết mang lại trọng lượng đặc biệt cho các ý niệm tôn giáo trong Cựu ước như khoa thần học giao ước (covenant theology) [10] , và dành vai trò quyết định lịch sử tương lai cho quốc gia Do Thái, một quốc gia được phục hồi (với thủ đô là Jerusalem). Khoảng chừng 7 phần trăm dân Mĩ tỏ ra có lập trường thần học này (nghĩa là nhóm này đông gần gấp 4 lần cộng đồng Do Thái tại Mĩ), đồng thời không ít thì nhiều một số đông hơn đáng kể chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Những người đề xuất quan điểm này thường (dù không luôn luôn) chia sẻ quan điểm của một số người Do Thái chính thống, rằng người Do Thái phải đòi cho bằng được một quốc gia bao gồm tất cả phần lãnh thổ mà người Hêbrơ từng được Thiên Chúa hứa hẹn; họ chống lại bất cứ một khoan nhượng lảnh thổ nào với người Pa-lét-tin và họ hậu thuẫn các khu định cư Do Thái ở bờ Tây sông Jordan. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm của thiểu số, ngay cả dưới con mắt những người ủng hộ Israel tại Mĩ.

Trái lại, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Ki-tô giáo tiến bộ liên quan nhiều với đức lí Ki-tô giáo, hơn là dựa vào lời của các ngôn sứ. Phần lớn chủ nghĩa này có gốc rễ trong mặc cảm tội lỗi và trong ý thức rằng sự bạc đãi của người Ki-tô giáo đối với người Do Thái trong quá khứ hiện đang cản trở người Do Thái chấp nhận Ki-tô giáo. Hơn một ngàn năm, người Do Thái ở châu Âu đã chịu đựng những hành động tàn ác phi thường và lắm khi không ngôn từ nào diễn tả được do bàn tay của người Ki-tô giáo châu Âu. Mặc dù một số tín đồ Tin Lành Mĩ có thời đã kéo dài lịch sử thiếu độ lượng và bài Do Thái này, nhưng từ thế kỉ 19 trở về sau nhiều tín đồ Tin Lành phóng khoáng Mĩ đã coi việc từ bỏ quá khứ này như một trong những nhiệm vụ xác định tính chất của một giáo hội Mĩ cải cách và giác ngộ. Những tín đồ Tin Lành này có thể (và đã thoải mái) chỉ trích chủ nghĩa bài Do Thái của Công giáo La Mã, gọi đây là một hậu quả do những thối nát đáng tiếc dưới chế độ giáo hoàng; nhưng người ta cũng không dễ gì bỏ qua những hành động và những tuyên truyền bài bác Do Thái do chính những nhà cải cách tôn giáo như [người sáng lập đạo Tin Lành] Martin Luther. Nhiều thành viên trong các giáo phái Tin Lành cởi mở Mĩ đã coi mình có nhiệm vụ thiêng liêng là phải hoàn tất sự nghiệp của thời Cải cách (the Reformation) bằng cách tẩy sạch Ki-tô giáo khỏi những tàn tích “trung cổ” như mê tín, thiên kiến, và chủ nghĩa bài Do Thái. Việc sám hối những tội lỗi quá khứ bằng cách bênh vực người Do Thái đã và đang là một thể nghiệm đức tin quan trọng đối với nhiều (mặc dù hẵn nhiên không phải đối với tất cả) tín đồ Tin Lành Mĩ.

Tương phản với thái độ thân Do Thái, đa số tín đồ Ki-tô giáo Mĩ ít khi hoặc không hề có cảm thức tội lỗi nào về những lối ứng xử trong lịch sử của cộng đoàn mình đối với thế giới Hồi giáo. Nhiều tín đồ Hồi giáo coi cuộc xung đột Ki tô giáo-Hồi giáo kéo dài hơn một ngàn năm qua là một hiện tượng liên tục và tương đối thuần nhất, nhưng tín đồ Tin Lành Mĩ lại không nhìn nhận như vậy. Chẳng hạn, họ thường chê trách những tàn bạo của các cuộc Thập tự chiến (the Crusades) và chỉ trích quan niệm thánh chiến, nhưng họ lại coi đây là những sai lầm của Công giáo La mã chứ không phải của Ki-tô giáo nói chung. Và dẫu sao, họ coi những cuộc Thập tự chiến ấy như đã lùi sâu vào dĩ vãng và âu cũng là phản ứng trả đũa sự xâm lấn trước đó của người Hồi giáo. Họ cũng thường phê phán sự bóc lột thuộc địa của các cường quốc châu Âu trong các thế kỉ vừa qua, nhưng họ lại coi những khai thác bóc lột đó là do tham vọng đế quốc của Cựu thế giới chứ không do Ki-tô giáo gây ra và vì thế đó là điều họ không chịu trách nhiệm. (Một biệt lệ quan trọng đáng được nhắc đến: Nhiều nhà truyền giáo Mĩ hoạt động tích cực ở Trung Đông đã tạo được quan hệ sâu đậm với người Ả-rập trong vùng và đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân tộc Ả-rập, vừa vì họ không ưa thích chủ nghĩa thực dân châu Âu vừa vì họ hi vọng một phong trào dân tộc có tính thế tục sẽ cải thiện vị thế của các Ki-tô hữu Ả-rập. Cộng đồng truyền giáo này vừa góp phần phát triển đội ngũ giới chức quan tâm đến quyền lợi Ả-rập trong Bộ Ngoại giao Mĩ vừa giúp tạo ra phản ứng khá dữ dội trong nhiều giáo phái Tin Lành chính mạch chống lại các chính sách của Israel trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sau cuộc chiến 1967.)

Khoảng trước năm 1948, nhiều tín đồ Ki-tô giáo Mĩ cảm thấy một gánh nặng lương tâm về món nợ và nghĩa vụ lịch sử đối với người Do Thái, nhưng họ không hề cảm thấy điều này đối với người Á rập. Có chăng là, họ chỉ nghĩ rằng thế giới Hồi giáo phải chịu mang ơn các nhà truyền giáo Hoa Kì đã xây dựng nhiều đại học và bệnh viện hàng đầu tại Trung Đông và rằng chính sự hậu thuẫn của người Ki-tô giáo Mĩ trước và sau Thế chiến II đã góp phần thúc đẩy sự trổi dậy của các quốc gia Á rập và Hồi giáo độc lập, một phong trào đang diễn tiến lúc bấy giờ.

Những người bà con do Chúa chọn

Ý thức về bản sắc riêng biệt và sứ mệnh của Hoa Kì được bồi đắp qua quá trình tiếp thu sử sách và tư tưởng Hêbrơ. Nhà văn Mĩ Herman Merville đã diễn tả quan điểm này như sau: “Người Mĩ chúng ta là nhân dân đặc biệt, được Chúa chọn – là nước Israel thời đại mới; chúng ta gánh lấy chiếc thuyền Nô-ê chứa đầy các quyền tự do trên thế giới.” Từ thời đại của những người Thanh giáo (Puritans) cho đến ngày nay, nhiều giáo sĩ, nhà tư tưởng và chính khách tại Hoa Kì – thế tục cũng như tôn giáo, phóng khoáng cũng như bảo thủ – vẫn coi người Mĩ là một khối nhân dân do Chúa chọn, ràng buột với nhau theo huyết thống thì ít nhưng theo một hệ thống tín lí và một định mệnh chung thì nhiều. Nhiều người Mĩ vẫn còn tin tưởng rằng Thiên Chúa (hay lịch sử) đã đưa họ đi vào một vùng đất mới và làm cho họ trở thành vĩ đại, giàu có, và rằng sự phồn vinh bền vững của họ sẽ tùy thuộc vào việc họ chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa hay theo đúng những nguyên tắc đạo lí đã mang lại ơn phước cho họ từ trước tới nay. Nếu họ sao lãng những nguyên tắc này – như khi người Do Thái quay ra sùng bái con bò bằng vàng lúc Mô-se vắng mặt – thì tai họa sẽ giáng xuống trên đầu họ.

Cả người Mĩ mộ đạo lẫn người Mĩ thế tục đều hướng tới Kinh thánh Hêbrơ để tìm ra một tấm gương của một dân tộc có tính đặc thù nhờ sứ mệnh riêng và được ơn kêu gọi gánh vác một định mệnh là làm thay đổi thế giới. Phải chăng đất đai người Mĩ đang cư ngụ đã có thời thuộc về người khác? Vâng đúng vậy, nhưng trong một cách thế tương tự, người Hêbrơ đã từng chiếm đất của người Ca-na-an. Phải chăng các thuộc địa bé nhỏ tại Mĩ chỉ được trang bị bằng sức mạnh công lí của chính nghĩa mà đã đánh thắng một đế quốc vĩ đại nhất thế giới? Vâng, cũng giống như David, cậu bé chăn cừu khiêm tốn, đã quật ngã người khổng lồ Goliath. [11] Phải chăng người Mĩ vào thế kỉ 19 từng bị cô lập và bị nhạo báng vì những lí tưởng dân chủ của mình? Vâng, trong hoàn cảnh tương tự, người Hêbrơ cũng bị các sắc dân thờ bái thần tượng bao vây. Phải chăng người Mĩ đã từng đánh thắng giặc trong, thù ngoài? Vâng, theo Kinh thánh, người Hêbrơ cũng từng chiến thắng như vậy. Phải chăng vì vi phạm chính những tín lí của mình khi cầm giữ hàng triệu nô lệ, người Mĩ đã bị trừng phạt và hứng chịu nhiều tai hoạ? Vâng, rất giống như người Hêbrơ, một dân tộc đã hứng chịu hậu quả của tội lỗi mình trước mặt Thiên Chúa.

Nhận thức đầy huyền thoại này về bản chất và định mệnh nước Mĩ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ và bền bỉ nhất trong văn hóa và tư tưởng Hoa Kì. Như người Hêbrơ cổ đại từng tin tưởng, nhiều người Mĩ ngày nay cũng tin tưởng rằng họ mang một mặc khải, nhiên hậu không những cho chính họ mà cho toàn thế giới; họ thường tự coi mình là nước Israel mới của Thiên Chúa. Một trong những hậu quả của việc nhìn họ hàng (presumed kinship) này là nhiều người Mĩ cho rằng việc một dân tộc được Chúa chọn (chosen people) này hậu thuẫn cho một một dân tộc được Chúa chọn khác là điều vừa hợp lẽ phải vừa chính đáng. Họ không cảm thấy áy náy khi sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel, một dân tộc và một quốc gia thường bị nhiều nước cô lập và khai trừ, làm cho Hoa Kì bị ghét lây hoặc gây ra nhiều vấn đề khác. Việc Hoa Kì nhận lãnh vai trò của một kẻ che chở cho Israel và một người bạn của người Do Thái là một cách hợp thức hóa địa vị riêng của một quốc gia được Thiên Chúa giao cho một định mệnh độc đáo.

Hơn thế nữa, từ thế kỉ 19, Hoa Kì đã tự coi mình là đại lí được Thiên Chúa chọn ra để bảo vệ và cứu chuộc dân tộc Do Thái. Người Mĩ từng tin rằng người Do Thái sẽ vươn lên từ thân phận đọa đày khi họ rời bỏ những khu ổ chuột trong thành phố để về sống ở các vùng thôn quê – y như những người di dân đến Mĩ từ khắp châu Âu đã xây dựng được cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân cách vững vàng hơn khi họ trở thành những nông dân theo mô hình kinh tế nông nghiệp Jefferson (Jeffersonian farmers) [12] . Những tín đồ Ki-tô giáo cởi mở như [tổng thống] Adams tin tưởng rằng tiến trình này sẽ kịp thời đưa người Do Thái đến với ánh sáng của giáo phái Tin Lành khai phóng, nằm trong nỗ lực là thăng tiến toàn thể nhân loại. Còn những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiên tri (prophetic Zionism) thì hi vọng rằng việc hàng loạt người Do Thái cải sang Ki-tô giáo hồi sinh (revivalist Christianity) sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn khải huyền [tận thế] cùng với sự trở lại thế gian của đức Ki-tô. Bằng cách này hoặc bằng cách khác, vai trò đặc biệt của Hoa Kì trong việc phục hồi nhân phẩm và chỗ đứng của người Do Thái đã thể hiện những kì vọng của dân ngoại Do Mĩ về sự chuyển động của lịch sử và khẳng định niềm tin tưởng của họ về bản sắc và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc.

Những quốc gia thực dân

Hiệp Chúng Quốc và Israel còn có chung một tình trạng là “quốc gia thực dân”–những nước được thành lập bởi các dân tộc đã giành quyền kiểm soát lãnh thổ cho riêng mình sau khi trục xuất các dân tộc bản địa. Cả hai quốc gia được nhào nặn mạnh mẽ bởi một lịch sử xung đột và đối đầu với những sắc dân bị họ trục xuất, và cả hai đều tìm lí lẽ biện minh cho hành vi của mình từ những nguồn đạo lí tương tự. Cả người Mĩ lẫn người Israel chủ yếu tìm sự biện minh từ Kinh thánh Cựu ước, trong đó có những trang sách thiêng liêng kể lại tích truyện về sự xung đột giữa người Hêbrơ cổ đại và người Ca-na-an, cư dân trước đó của phần lãnh thổ mà người Hêbrơ tin tưởng là Đất Hứa của họ. Người Mĩ tìm thấy nhiều hấp dẫn trong quan niệm cho rằng họ là quốc gia Israel mới của Thiên Chúa một phần cũng vì quan niệm này biện minh cho việc họ đã trục xuất và giành đất của người Mĩ bản địa [dân da đỏ]. Như Theodore Roosevelt đã viết trong cuốn lịch sử miền Tây Hoa Kì, đương thời được liệt là sách bán chạy nhất: “Nhiều người trong những công dân xuất sắc ở vùng sâu vùng xa là những người ham đọc Kinh Thánh, nhưng họ được nuôi dưỡng theo một đức tin phần lớn được rao giảng trong Cựu ước, một đức tin không coi trọng lòng thương hại, sự thật, hay từ bi. Họ nhìn kẻ thù của mình theo cách những ngôn sứ Hêbrơ đã nhìn kẻ thù của Israel. Những hành vi ghê tởm đã khiến cho người Ca-na-an bị tiêu diệt trước mắt Joshua [13] đâu có nghiã lí gì nếu đem so với những sự hèn hạ của bọn mọi da đỏ khiến người Mĩ, cũng là một giống dân Chúa chọn, đến phiên mình có bổn phận phải thừa hưởng đất đai của chúng.” (Bản thân Roosevelt, cũng như những người em họ Franklin và Eleanor, là một người Ki-tô giáo theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít. “Đối với tôi, việc khởi sự thành lập một quốc gia Xi-ôn-nit chung quanh Jerusalem là hoàn toàn thích đáng”, Roosevelt viết như thế năm 1918.)

Ngoài một lời hứa hẹn trực tiếp từ Thiên Chúa, hai biện minh quan trọng mà người Mĩ đưa ra trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ với người Mĩ bản địa là quan niệm cho rằng họ chỉ bành trướng vào “những vùng đất hoang vu” và lí thuyết liên hệ của John Locke về “việc sử dụng tài sản công bằng hợp lí”, theo đó một tài sản không có người dùng là một sự phí phạm và là một xúc phạm đối với thiên nhiên. Những người đến lập nghiệp ở Mĩ cho rằng chỉ những ai có thể cải thiện đất đai, bằng cách thiết lập san sát trên đó nhiều nông trại rộng lớn và xây dựng trên đó nhiều phố thị, mới có thực quyền làm chủ đất đai ấy. Từ năm 1802 [tổng thống tương lai] John Quincy Adams đã bênh vực cho luận điểm này: “Liệu [người da đỏ] dám bắt cả một vùng đất bao la của địa cầu phải chịu đời đời hoang phế hay sao…? Còn Thomas Jefferson thì cảnh báo rằng những người Mĩ bản địa nào không chịu học hỏi người da trắng, không đi vào con đường canh tác sản xuất thì phải chịu số phận đen tối. Họ sẽ “thoái hoá trở lại tình trạng man rợ khốn cùng, sẽ hao hụt dân số vì chiến tranh và thiếu đói; khi đó chúng ta buột lòng phải xua đuổi họ, cùng với loài dã thú trong rừng, vào vùng núi đá.”

Suốt phần lớn lịch sử Hoa Kì, những quan điểm như thế có âm hưởng lớn không những đối với dân vùng sâu vùng xa mà còn đối với cả những công dân lịch lãm và phóng khoáng. Những luận cứ này mang một ý nghĩa đặc biệt khi bàn đến Đất thánh. Trong khi người Mĩ mộ đạo miệt mài chiêm nghiệm những huy hoàng của thành Jerusalem cổ đại và Đền Solomon [14] , họ đã vẽ lên trong tâm trí mình một miền đất phì nhiêu hoành tráng – “một quê hương tràn trề sữa tươi và mật ngọt”, như Kinh thánh mô tả. Nhưng vào khoảng đầu thế kỉ 19, khi hàng chục người đầu tiên, rồi đến hàng trăm người, và cuối cùng hàng ngàn người đi hành hương Đất thánh – đồng thời thêm hàng triệu người đổ xô đến dự những buổi thuyết trình để nghe tường thuật những chuyến đi này – người ta mới vỡ lẽ rằng chẳng có chi đáng gọi là sửa tươi và mật ngọt; Palestine lúc bấy giờ chỉ là một trong những tỉnh nghèo nàn nhất, lạc hậu nhất, tả tơi nhất của Đế quốc Ottoman. Trước mắt người Mĩ, những sườn đồi và những cánh đồng sỏi đá của vùng Judea trông rất thê lương, trống trải – khiến nhiều người tin rằng Thiên Chúa đã rủa sả vùng đất này khi ngài đày dân Do Thái vào cuộc lưu vong thứ hai, một cuộc lưu vong mà họ cho là hình phạt người Do Thái phải gánh chịu vì không chịu nhìn nhận đức Ki-tô là đấng Cứu thế. Và vì thế, nhiều người Mĩ tin tưởng, người Do Thái thuộc về Đất thánh và Đất thánh phải thuộc về người Do Thái. Người Do Thái sẽ không bao giờ cất đầu lên được bao lâu mà họ chưa về lại quê nhà, chưa được tự do, và đất thánh sẽ không bao giờ đâm bông kết trái bao lâu mà những người chủ chân chính của nó chưa trở về.

Ngôn sứ Isaiah đã mô tả cuộc hồi hương tương lai của dân Do Thái là hồng ân Thiên Chúa mang nước tưới lên sa mạc. Và nhiều người Mĩ đang chứng kiến mầu mỡ của vùng đất này được phục hồi dưới bàn tay canh tác của những người Xi-ôn-nít đầu tiên mới về lập nghiệp, họ chứng kiến với tất cả cảm giác ngỡ ngàng là những điều tiên tri trong kinh thánh đang trở thành hiện thực ngay trước mắt mình. “Những suối nguồn trong sức mạnh thực dân Do Thái, được nuôi dưỡng hào phóng bằng đồng tiền của cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới, đang tuôn chảy tràn trề lên sa mạc”, tạp chí Time đã viết như thế vào năm 1946, vang vọng ngôn ngữ của Tiên tri Isaiah. Hai năm sau, tiếp theo thắng lợi của Do Thái trong cuộc chiến 1948, báo Time lại mô tả dân Ả-rập bằng những từ ngữ khiến người đọc ngày nay phải giật mình nhưng vào thời đó nó tiêu biểu cho cảm thức thông thường của người Mĩ: “Thế giới phương Tây thường coi người Ả-rập như một chinh nhân có đôi mắt diều hâu ngồi trên lưng ngựa trắng. Chàng Ả-rập ấy vẫn còn lẫn khuất đâu đó, nhưng chàng thuộc về một thiểu số quá nhỏ nhoi so với hạng khốn khó, mang đủ thứ bệnh hoạn trong người, đang nằm lây lất trên những con lộ nóng, quá ốm yếu và bạc nhược tinh thần đến độ không còn sức để lăn vào bóng mát.” Người Mĩ chứng kiến một cuộc đọ sức giữa một dân tộc lạc hậu, yếu hèn và một dân tộc có khả năng lập nghiệp trên vùng đất hoang dã và làm cho nó đâm bông kết trái, đang thần kì thể hiện những lời tiên tri xa xưa về một quốc gia Do Thái.

Trước đó, một cách khá phổ biến, người Do Thái bị coi là khối dân đáng chê trách nhất ở đông Âu: dốt nát, sa đọa, mê tín, chia bè chia phái, hay gây gỗ, và lạc hậu hết thuốc chữa. Sự thể đám dân này, sau khi chịu đựng bao nhiêu dã man chưa từng có dưới sự đàn áp của Đức quốc xã, đã thiết lập được một chế độ dân chủ ổn định đầu tiên ở Trung Đông, xây dựng được một nền kinh tế thịnh vượng trong sa mạc và liên tục đánh bại những kẻ thù có đội quân lớn mạnh hơn mình nhiều lần, đối với nhiều người Mĩ là bằng chứng lịch sử hùng hồn về những lí tưởng tôn giáo mà họ ấp ủ sâu xa nhất.

Bước ngoặt hữu khuynh

Mặc dù sự hậu thuẫn của dân ngoại Do Mĩ dành cho Israel vẫn còn mạnh và thậm chí gia tăng kể từ Thế chiến II, nhưng tính chất của hậu thuẫn này đã thay đổi. Mãi cho đến Cuộc Chiến Sáu Ngày, phần lớn hậu thuẫn dành cho Israel đến từ giới chính trị tả khuynh và thường thì phe Dân chủ ủng hộ Israel mạnh hơn phe Cộng hòa. Các thần tượng phóng khoáng như Eleanor Roosevelt, Paul Tillich, Reinhold Niebuhr, và Martin Luther King, Jr., đều là những tiếng nói công khai hàng đầu kêu gọi Hoa Kì ủng hộ Israel. Nhưng kể từ 1967, hậu thuẫn của cánh tả dành cho Israel dần dần suy giảm trong khi hậu thuẫn của phe bảo thủ lại gia tăng.

Nhiều yếu tố khác nhau đã hội tụ lại trong thập niên 1940 để biến chủ nghĩa Xi-ôn-nít ngoại Do tiến bộ (progressive gentile Zionism) thành một thế lực mạnh trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì, nhất là bên cánh tả. Một là, cuộc tàn sát người Do Thái do bàn tay của Đức quốc xã trong Thế chiến II gây chấn động phi thường lên tín đồ Tin Lành Mĩ. Trước đó nước Đức đã có một thời cung ứng lãnh đạo tinh thần cho giáo hội Tin Lành Mĩ, và vì thế thái độ thụ động chấp nhận mà các hầu hết nhà thờ và mục sư Tin Lành Đức dành cho chế độ Quốc xã đã gây sốc đến tận cốt lõi cho toàn khối Tin Lành chính mạch tại Mĩ. Những tín đồ Tin Lành Đức chống chế độ Quốc xã đã trở thành những vị anh hùng đạo lí và thần học tại Hoa Kì thời hậu chiến, đồng thời thái độ chống đối chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism) trở thành một thử nghiệm then chốt mà các tín đồ Tin Lành chính mạch Mĩ dùng để đánh giá bản thân và các nhà lãnh đạo. Cơn sốc sâu đậm này đã mạnh mẽ thúc đẩy họ hưởng ứng cứu trợ nhân đạo trước những phát hiện về các lò sát sinh và các cuộc tàn sát tập thể. Nỗi thống khổ của người Do Thái tị nạn, vừa li tán vừa đói nghèo trong một châu Âu hỗn loạn thời hậu chiến, đã khiến điều sau đây trở thành tất yếu: tín đồ Tin Lành Mĩ, sau một thế kỉ vận động đòi quyền sống cho dân Do Thái, sẽ nhiệt tình hậu thuẫn những bước phát triển mà họ cho là có thể đảm bảo an toàn cho người Do Thái châu Âu.

Yếu tố thứ hai là hậu thuẫn mạnh mẽ của người Mĩ gốc châu Phi (African Americans) dành cho người Do Thái vào một thời điểm mà dân da đen bắt đầu đóng một vai trò to lớn hơn trong sinh hoạt chính trị tuyển cử của Hoa Kì. Suốt thập niên 1930, báo chí của người Mĩ gốc châu Phi đã chăm chú theo dõi việc Hitler áp đặt những chính sách phân biệt chủng tộc. Các lãnh đạo Mĩ gốc châu Phi không để lỡ cơ hội vạch ra những điểm tương đồng giữa việc Hitler đối xử với người Do Thái và những luật phân chủng Jim Crow áp dụng tại miền nam Hoa Kì. [15] Đối với nhiều người Mĩ gốc châu Phi, bằng kinh nghiệm bản thân hằng ngày, họ cảm nhận một cách sống động, hiện thực, cảnh đàn áp mà người Do Thái phải chịu đựng. Sự đàn áp này cũng cung ứng cho họ những luận điểm quan trọng để thuyết phục người da trắng rằng kì thị chủng tộc là vi phạm những nguyên tắc đạo lí của Mĩ và vì thế sự đàn áp người Do Thái ở châu Âu đã đưa đến việc xây dựng một liên minh vững mạnh giữa người Do Thái tại Mĩ và phong trào dân quyền [của người da màu], một liên minh tồn tại từ năm 1945 đến cuối đời Martin Luther King. Ngay cả trong Thế chiến II, các nhà tranh đấu da đen W.E.B. Du Bois, Zora Neale Hurston, Langston Hughes, và Philip Randolph đã ủng hộ tiền thân (precursor) của đảng Likud trong nỗ lực thành lập một quân đội DoThái. Nhà lãnh đạo dân quyền Adam Clayton Powell, Jr., còn đi xa hơn, quyên góp đến 150.000 đôla cho tổ chức Xi-ôn-nit chủ chiến Irgun Zvai Leumi – mà ông gọi là “một tổ chức khủng bố bí mật tại Palestine” – trong một cuộc mit-ting tại Thành phố New York.

Sự ủng hộ của Liên Xô đối với một quốc gia Israel độc lập cũng giúp phần nào. Ở Yalta, Joseph Stalin đã nói với Franklin Roosevelt rằng bản thân ông ta cũng là một người Xi-ôn-nit. Vào tháng Năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Xô-viết Andrei Gromyko tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên xô ủng hộ việc thành lập một quốc gia Do Thái. Hậu thuẫn này, dù có ngắn ngủi chăng nữa, đã củng cố quan điểm của nhiều người Mĩ bên cánh tả, rằng việc thành lập một quê hương cho người Do Thái là một phần của cuộc đấu tranh chung cho tiến bộ trên toàn thế giới. Thật ra, trong những thập niên sau thế chiến, nhiều người Mĩ phóng khoáng (American liberals) đã coi việc hậu thuẫn Israel là một phần đóng góp của họ cho chế độ tự do, cho phong trào giải thực (vì người Do Thái ở Palestine cũng đang đòi độc lập bất chấp sự phản đối của Anh Quốc), cho cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục, cho chủ nghĩa nhân đạo, và cho truyền thống tiến bộ trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì. Lúc bấy giờ trong mắt của nhiều người, nước Israel xuất hiện như một thí nghiệm thế tục đầy tính lí tưởng của chế độ dân chủ xã hội (social democracy). Cả người Do Thái Mĩ cũng như người dân ngoại Do Mĩ cùng nhau sang tận Israel để thể nghiệm cuộc sống hân hoan, tham gia lao động và sinh hoạt tập thể tại những trang trại công (kibbutz) của các khu định cư. Vì thế, vào năm 1948, khi Truman quyết định hậu thuẫn việc thành lập nước Israel, ông ta không chỉ nghĩ đến lá phiếu của người Do Thái mà thôi. Hậu thuẫn mà Hoa Kì dành cho Israel cũng được lòng người dân da đen miền Bắc, những người được thu hút đến với đảng Dân Chủ nhờ chính sách New Deal [16] và việc Truman từng bước tiến đến hậu thuẫn cho dân quyền. Sự hậu thuẫn cho nước Israel cũng giúp Truman tranh thủ được nhiều cử tri cánh tả, những người mà nếu không vì lợi ích của Israel có thể đã ủng hộ Henry Wallace và đảng Tiến bộ. Ngọn cờ hậu thuẫn Israel cũng giúp Truman giành phiếu của cử tri miền nam bảo thủ, những cử tri đi nhà thờ, đọc kinh thánh, và nhờ thế tăng cường khả năng chống lại ảnh hưởng của cánh Dân chủ miền nam (Dixiecrats) của Strom Thurmond. Quả thật, hậu thuẫn dành cho Israel là một trong những chủ điểm hiếm hoi còn lại để giữ được liên minh vốn đã bị nức rạn của đảng Dân chủ.

Tuy nhiên, kể từ cuộc chiến 1967, cơ sở của sự ủng hộ dành cho Israel tại Hoa Kì đã chuyển dịch: hậu thuẫn cho Israel có khuynh hướng giảm dần bên cánh tả và gia tăng bên cánh hữu. Bên cánh tả, sự bất mãn đều khắp đối với những chính sách của Israel trong các vùng đất bị chiếm đóng cùng với mối quan tâm ngày một giảm đối với an ninh của nước này, theo sau thắng lợi của nó trong cuộc chiến, đã khiến nhiều người Mĩ gốc châu Phi, nhiều tín đồ Tin Lành chính mạch, nhiều trí thức phóng khoáng, những người một thời từng là đồng minh vững chắc của Israel tại Mĩ, chuyển sang ngày càng có cảm tình với quan điểm của người Pa-let-tin. Ngoài ra, sự đồng cảm ngày một gia tăng của người da đen đối với các phong trào chống thực dân khắp thế giới, sự hao mòn của liên minh da đen-Do Thái trong chính trị nội bộ Mĩ, và thanh thế đang lên của các nhân vật như Malcolm X và các lãnh đạo của tổ chức Nước Hồi Giáo (Nation of Islam) cũng dần dần làm suy giảm sự hậu thuẫn của dân Mĩ gốc châu Phi dành cho Israel. Về phần mình, những giáo phái Tin Lành cởi mở bắt đầu tiếp thu quan điểm của những nhà truyền giáo có thiện cảm với chủ nghĩa dân tộc Ả-rập; đồng thời, khi các giáo phái chính mạch càng ngày càng chỉ trích những quan niệm truyền thống Mĩ về bản sắc và định mệnh quốc gia của Hoa Kì, những tín đồ cởi mở này cũng tránh xa lối tiếp cận Cựu ước truyền thống. (Mặc khác, quan hệ giữa người Công giáo Mĩ và người Do Thái bắt đầu cải thiện sau cuộc chiến 1967, chủ yếu nhờ cách tiếp cận với người Do Thái theo quan điểm thần học mới của Giáo hội Công giáo kể từ Công đồng Va-ti-ca-nô II. [17] )

Bên cánh hữu, thay đổi nổi bật nhất kể từ 1967 là sự gia tăng đột biến hậu thuẫn dành cho Israel trong giới Ki-tô giáo Tin Lành (evangelical Christians) [18] và, tổng quát hơn, trong hàng ngũ những thành phần mà tôi từng gọi là cử tri “có tính chất Andrew Jackson [19] ” (Jacksonians) ở vùng đại bình nguyên giữa bờ Đông và bờ Tây nước Mĩ. Jacksonians là những cử tri bình dân-quốc gia chủ nghĩa [20] (populist-nationalist), họ ủng hộ một quân đội hùng mạnh và thông thường không mấy tin tưởng các tổ chức quốc tế và viện trợ nhân đạo toàn cầu. Không phải tất cả mọi tín đồ Tin Lành đều là Jacksonians, và không phải tất cả Jacksonians đều là người Tin Lành, nhưng có một số người nhất định thuộc về cả hai nhóm cử tri này. Nhiều người da trắng miền nam là Jacksonians; nhiều cử tri không kiên định lập trường đảng phái ở miền Bắc, còn gọi là những người Dân chủ ủng hộ Reagan (Reagan Democrats), cũng là Jacksonians.

Nhiều Jacksonians đã có định kiến tiêu cực về người Ả-rập từ thời Chiến tranh lạnh. Họ nhận thấy, dân Pa-lét-tin và các quốc gia Ả-rập thường đứng về phía Liên xô và Phong trào phi-liên kết để chống lại Hoa Kì. Người Ai-Cập đáp lại hậu thuẫn của Hoa Kì trong vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 bằng cách quay sang phía Xô-viết để mua vũ khí và tìm hậu thuẫn, đồng thời chuyên viên Xô-viết và vũ khí Xô-viết đã giúp các đội quân Á-râp chuẩn bị các cuộc chiến chống Israel. Các Jacksonianscó khuynh hướng nhìn các biến động quốc tế theo lăng kính độc đáo của mình. Cùng với các biến động diễn ra ở Trung Đông từ năm 1967, họ ngày càng có nhiều cảm tình với Israel ngay cả khi nhiều thành phần khác của xã hội Mĩ – và thêm nhiều người nữa ở những vùng khác trên thế giới – ngày càng mất đi cảm tình đối với Israel. Cuộc Chiến Sáu Ngày (the Six-Day War) đã nhen nhúm lại mối quan tâm của những người Xi-ôn-nit tiên tri đối với Israel và, theo cách nhìn của nhiềuJacksonians, cuộc chiến này đã tăng cường những quan hệ sâu sắc giữa Israel và Hoa Kì. Sau thời Chiến tranh lạnh, những người Jacksonian nhận thấy rằng những quốc gia thù nghịch của Mĩ ở trong vùng, như Iraq và Iran, đồng thời cũng là những kẻ thù hung hăng nhất của Israel.

Những người Jacksonian chiêm ngưỡng chiến công và chiến thắng hoàn toàn là chiến công đẹp nhất. Chiến thắng hoàn toàn, với sức mạnh áp đảo của các binh chủng Israel năm 1967 trước kẻ thù có quân số lớn hơn đến từ ba nước khác nhau là điều mà Jacksonians rất mơ ước – nhất là vào một thời điểm mà khả năng chiến đấu yếu kém của Hoa Kì tại Việt Nam đã khiến nhiều Jacksonians đâm ra bi quan về tương lai của quốc gia mình. Kể từ đó, chính một số hành động quân sự đã làm tổn thương uy tín của Israel đối với hầu hết các nước trên thế giới – chẳng hạn những phản ứng quá đáng đối với quân khủng bố Pa-let-tin – lại gia tăng hậu thuẫn cho quốc gia này từ phía Jacksonians.

Đôi khi chỉ vài đạn pháo từ dải Gaza bắn vào lãnh thổ Israel, quân đội Israel lại phản ứng bằng một hoả lực mạnh hơn, gây nhiều đổ nác và nhiều thương vong hơn. Trong con mắt của phần lớn thế giới, đây là sự trả đũa quá đáng, một vi phạm tương đương hay thậm chí nghiêm trọng hơn cuộc tấn công của kẻ gân hấn. Thế nhưng, Jacksonians coi mỗi loạt pháo kích của người Pa-lét-tin nhắm vào các mục tiêu ở Israel là một hành động khủng bố và họ cho rằng người Israel có toàn quyền, thậm chí có nghĩa vụ, trả đũa bằng tất cả sức mạnh có thể huy động được. Kể từ thập niên 1950, cứ mỗi lần quân đặc công Palestine lẻn qua đường ngưng bắn để tấn công các khu định cư của Israel, nhiều người Pa-lét-tin và người Ả-rập lại biện minh rằng những cuộc đột nhập này là hành động rất can đảm mặc dù phải đối đầu với một hoả lực dữ dội, trấn áp. Nhưng những vụ đột kích nhắm vào các mục tiêu dân sự, và nhất là các vụ tấn công dùng bom tự sát, lại vi phạm các nguyên tắcJacksonian cơ bản về phương thức tiến hành một cuộc chiến văn minh. Những người Jacksonian cho rằng chỉ có một sự trả đủa trấn ác và triệt để chống lại các chiến thuật như thế mới chận đứng việc đặc công đánh phá thêm nữa. Đây là cách người Mĩ sống ở vùng biên đã đối phó với người da đỏ, là cách mà tướng Liên bang [miền Bắc] William Sherman “đã dạy một bài học” cho quân dân miền Nam trong Nội chiến Mĩ, và cũng là cách tướng Douglas MacArthur và Truman đã trả lại cho người Nhật món nợ Pearl Harbor. Những người Jacksonian thực tình không hiểu được vì sao thế giới lại chỉ trích Israel vì đã hành sử điều mà họ cho là quyền tự vệ không khoan nhượng – vì đã làm đúng những điều mà chính họ cũng phải làm nếu ở vào vị trí của Israel.

Theo quan điểm của người Pa-lét-tin và những người hậu thuẫn họ, người Pa-lét-tin – bị lưu vong, bị cho ra rìa, bị chiếm đóng, bị chia rẽ – là những người yếu thế nhưng anh hùng, dám đương đầu với một siêu cường trong vùng, mà siêu cường này lại được hậu thuẫn của một nước mạnh nhất thế giới. Nhưng theo quan điểm Jacksonian, Israel, dù với tất cả sức mạnh và chiến công của mình, vẫn chỉ là cậu bé David đang lâm nguy, “tứ bề thọ địch”. Sự thể người Ả-rập và toàn thể cộng đồng gồm một tỉ tín đồ Hồi giáo hậu thuẫn chính nghĩa của người Pa-lét-tin, chí ít bằng khẩu hiệu, đã khiến những người Jacksoniancàng tin thêm rằng Israel là một nước nhỏ bé và đang lâm nguy, đáng được giúp đỡ. Bẽ bàng là, một số thành công quân sự chính trị to lớn nhất của phong trào Pa-let-tin – như triển khai một cuộc kháng chiến võ trang năng động, giành được hậu thuẫn (phần lớn chỉ là khẩu khí) từ các tổ chức như Liên minh Ả-rập và ngay cả Đại hội đồng Liên hiệp quốc, chuyển dịch cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến Pa-let-tin từ chủ nghĩa dân tộc thế tục (secular nationalism) sang lãnh vực tôn giáo, và giành được hậu thuẫn của các nước mạnh trong vùng như Iraq dưới thời Saddam và Iran ngày nay – rốt cuộc mang lại hậu quả là những thành công này chỉ tăng cường cũng cố thêm sự hậu thuẫn của người dân ngoại Do Mĩ cho quốc gia Do Thái.

Tình huynh đệ Ki-tô giáo

Một yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc người Mĩ gia tăng hậu thuẫn cho Israel là, kể từ 1967 một loạt phong trào gây lại niềm tin tôn giáo diễn ra đều khắp nước Mĩ, mang lại những hậu quả quan trọng trong thái độ của dân chúng đối với vùng Trung Đông. Một hậu quả là, trong khi các giáo phái Tin Lành chính mạch cởi mở chỉ trích Israel nhiều hơn, họ đánh mất luôn ảnh hưởng chính trị và xã hội của chính mình. Một hậu quả khác là, vai trò của chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionism) tăng lên đáng kể, với sự kiện tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống [21] Mĩ hiện nay quan tâm hơn bao giờ cả về những lời tiên tri trong kinh thánh và về vai trò của Israel trên quá trình dẫn đến sự khải huyền [tận thế].

Nhiều tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống đã không mấy quan tâm đến Israel sau cuộc chiến giành độc lập của nước này. Theo chỗ họ hiểu, những lời tiên tri trong kinh thánh rõ ràng dự kiến người Do Thái sẽ xây lại Ngôi đền trên vị trí cũ của nó; vì thế họ suy diễn, khi những vị trí thiêng liêng của Jerusalem vẫn còn nằm trong tay người Ả-rập, thì tiến trình dẫn đến ngày tận thế có vẻ đã chậm lại. Trong khi đó, nước Israel thế tục và gần như xã hội chủ nghĩa trong thập niên 1950 ít lôi cuốn người Ki-tô giáo bảo thủ hơn lôi cuốn người Ki-tô giáo cởi mở. Vì phải để mắt vào mối đe dọa cộng sản trong những năm cao điểm của Chiến tranh lạnh, tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống ít tích cực tham gia vào chính sách Mĩ ở Trung Đông như họ đã từng tham gia vào thế kỉ 19.

Cuộc chiến Sáu ngày đã thay đổi thái độ đó; nó là lực xúc tác cho phong trào phục hoạt phúc âm và tiếp sức cho chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri. Tính chớp nhoáng và tính quyết định của thắng lợi mà Israel đạt được là một phép lạ trong mắt của nhiều người Mĩ; Israel chiếm được Thành cổ (the Old City), điều này có nghĩa là vị trí của Ngôi đền đã về tay người Do Thái. Cảm thức ngày tận thế đang tới gần là một lực tác động mạnh mẽ cho làn sóng phục hoạt tôn giáo tại Mĩ, một phong trào được khởi động trong giai đoạn này. Kể từ đó đến nay, một loạt sách truyện thuộc loại bán chạy nhất, hư cấu cũng như phi-hư cấu, đã nhắm vào sở thích của hàng triệu người Mĩ trong khả năng là ngày tận thế đang triển khai tại Trung Đông, như đã được các ngôn sứ tiên tri trong Cựu ước và Tân ước.

Từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, thêm một lực tác động nữa đã tăng cường những quan hệ giữa quốc gia Israel và nhiều người Ki tô giáo bảo thủ của Mĩ. Khi cuộc phục hưng tôn giáo mang lại sức mạnh và sinh lực mới cho các giáo hội Tin Lành và chính thống, họ lại càng quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài. Trong quá khứ những cuộc phục hưng tôn giáo như thế đã dẫn đến các cao trào truyền giáo đầy nhiệt tình và rất năng động; cuộc phục hưng tôn giáo hiện nay không khác bao nhiêu. Và khi người Ki-tô giáo Mĩ đã quan tâm nhiều hơn đến an sinh của Ki-tô hữu khắp thế giới, họ đã gặp phải địch thủ quan trọng nhất của Ki-tô giáo toàn cầu, đó là Hồi giáo, và họ bắt đầu nhận chân rằng tình cảnh của người Ki-tô giáo tại một số nước có đa số theo Hồi giáo không được khả quan cho lắm.

Mối quan tâm về người Ki-tô giáo bị bách hại khắp thế giới là nét đặc trưng trường kì của Ki-tô giáo, và điều này không phải chỉ riêng ở Mĩ mới có. Trong quá khứ, chính những nhà lãnh đạo các giáo hội từng tham gia các nỗ lực bảo vệ người Do Thái ở châu Âu và Đế quốc Ottoman thường cũng là những người tham gia các chiến dịch bảo vệ các tín đồ Ki-tô giáo tại Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, và Đế quốc Ottaman cùng các nơi khác trên thế giới. Phong trào cộng sản, được coi như kẻ thù hung bạo nhất của tôn giáo trong thế kỉ 20, nhiên hậu đã thúc đẩy tín đồ Ki-tô giáo Mĩ xây dựng những tổ chức nhằm hậu thuẫn các tín hữu ở sau Bức màn sắt. Từ năm 1989, sự bách hại tín đồ Ki-tô giáo do bàn tay cộng sản đã giảm nhiều (mặc dù chưa biến mất), và nhờ vậy càng ngày trọng tâm của mối quan ngại càng chuyển qua Trung Đông, nơi nhiều tín đồ Ki-tố giáo và tín đồ của các đức tin khác hay người không theo tôn giáo nào hiện bị phân biệt đối xử về mặt xã hội và pháp lí – và cũng là nơi, lắm khi tín đồ Ki-tô giáo bị đánh đập và sát hại vì đức tin của mình. Luật pháp của nhiều nước Hồi giáo còn cấm truyền đạo và cải đạo – những vấn đề chiếm được quan tâm sâu sắc nhất của người Ki-tô rao giảng Phúc âm (evangelical Christians), những người tin rằng kẻ nào đến phút lâm chung mà chưa tiếp nhận Đức Ki-tô vào lòng thì sẽ chịu cực hình trong hoả ngục và rằng sự nghiệp truyền bá đức tin Ki-tô giáo là một trong những nghĩa vụ đạo lí trung tâm. Những cơ quan truyền thông chính mạch của Mĩ thường không coi nạn bách hại các tín đồ Ki-tô giáo ở nước ngoài là trọng tâm chính cho việc đưa tin của họ, nhưng sự thờ ơ này không ngăn cản được vấn đề tôn giáo ảnh hưởng lên quan điểm của nhiều người Mĩ đối với Hồi giáo và, nói rộng ra, đối với cuộc xung đột giữa Israel với một số nước láng giềng.

Dư luận tại Hoa Kì về vấn đề Trung Đông không phải là một khối thuần nhất, cũng không phải bất di bất dịch qua thời gian. Từ 1967 đến nay, nó đã kinh qua nhiều chuyển dịch, một số tổ chức hoặc nhóm cử tri trở nên thiện cảm hơn với Israel và một số khác thì ngược lại. Càng ngày người Mĩ gốc châu Phi càng ít ủng hộ đảng Likud hiện nay hơn họ đã từng hậu thuẫn quân đội Do Thái trong Thế chiến II. Thêm nhiều thay đổi có thể xảy ra. Một giới lãnh đạo Pa-let-tin và Ả-rập nhạy cảm hơn đối với những giá trị và những ưu tiên chính trị của nền văn hóa chính trị Mĩ có thể đã phát triển được những chiến thuật mới mẻ và hiệu quả hơn nhằm làm suy yếu, thay vì tăng cường, hậu thuẫn của Mĩ dành cho quốc gia Do Thái. Chẳng hạn, nếu chịu chấm dứt những cuộc tấn công khủng bố để tiến hành một cuộc đấu tranh dân sự bất bạo động có kĩ luật và có tổ chức, họ có thể đã thay đổi được cách nhìn của những người Jacksonian về cuộc tranh đấu của người Pa-let-tin. Một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra là, dần dà qua thời gian những tín đồ Tin Lành-chính thống Mĩ sẽ theo bước chân của Jimmy Carter, khi ông ta đi từ một chủ nghĩa Xi-ôn-nít trẻ trung đến một lập trường mà ông cho là quân bình hơn như hiện nay. Nhưng nếu Israel phải đối đầu với bất cứ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nào, dư luận Mĩ sẽ chuyển hướng ngược lại, và đây có vẻ là một khả năng còn lớn hơn. Nhiều thành phần trong số những người Mĩ ngày nay kêu gọi một chính sách quân bình hơn đối với người Pa-lét-tin, sở dĩ làm như vậy, là vì họ tin rằng trên cơ bản Israel đã được an ninh. Nếu một lúc nào đó thẩm định này thay đổi, những cuộc thăm dò dư luận quần chúng rất có thể sẽ chứng tỏ mức độ hậu thuẫn của Mĩ dành cho Israel còn cao hơn hiện nay.

Chí ít có một điều gần như hiển nhiên. Trong tương lai cũng như trong quá khứ, dù có tốt hơn hoặc xấu hơn, chính sách ngoại giao của Hoa Kì đối với Trung Đông vẫn tiếp tục được hình thành bởi ý chí của đại đa số dân Mĩ, chứ không bởi những thủ thuật hay mưu mô của bất cứ nhóm thiểu số nào, dù một số thành viên của nhóm này có giàu có hay tích cực tham gia vào tiến trình chính trị đến thế mấy đi nữa.

Walter Russell Mead là chuyên viên cấp cao trong chương trình Henry A. Kissinger về Chính sách đối ngoại Hoa Kì ở Hội đồng nghiên cứu Quan hệ đối ngoại và, gần đây nhất, là tác giả của cuốn God and Gold: Britain, America, and the Making of the Modern World (Chúa và Vàng: Anh, Mĩ và Sự hình thành của Thế giới Ngày nay).

[1]Lời dịch trích từ website: http://www.tinlanh.de/cuuuoc.html. (Trừ chú thích số 3, các chú thích là của người dịch)
[2]Theo Cựu ước, David là vị vua thứ hai của Vương quốc thống nhất Israel. Kinh thánh mô tả ông là một người công chính, một thi sĩ, nhạc sĩ, một danh tướng. Theo biên niên dựa vào kinh thánh, David ra đời khoảng 1037 và mất khoảng 967 trước Công nguyên. Tiểu sử của David có ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Do Thái và Ki-tô giáo.
[3]‘ngoại Do’: lựa chọn dịch thuật cho tính từ gentile, có ý nghĩa là ‘không phải là người Do Thái’ (về huyết thống và tôn giáo). Để tránh trùng lặp đơn điệu, ở những chỗ khác nhau trong bản dịch này tính từ gentile còn được dịch là ‘phi-Do-Thái’ hoặc ‘ngoại Xi-ô-nít’. (Chú thích của người biên tập)
[4]Chủ nghĩa Xi-ôn-nit (Zionism) là một phong trào chính trị quốc tế, một chủ trương thoạt đầu ủng hộ việc tái lập một quê hương cho người Do Thái tại Palestine và ngày nay vẫn còn tiếp tục hậu thuẫn quốc gia Israel hiện đại.
[5]Protestants còn được dịch là tín đồ “Thệ phản giáo” hoặc “Kháng Cách giáo” để nhấn mạnh chủ trương li khai với Giáo hội Công giáo La Mã, một sự kiện lịch sử diễn ra vào thế kỉ 16. Người dịch chọn từ Tin Lành vì tính phổ biến của từ này trong tiếng Việt, nhất là trong hầu hết các tự điển Anh-Việt thông dụng, và nhất là vì nó không làm thương tổn nội dung nguyên bản. Có lẽ vì tinh thần “đại kết” (ecumenism), một nỗ lực đoàn kết giữa các truyền thống Ki-tô giáo khác nhau, chúng ta không thấy các giáo hội Công giáo hay Tin Lành Việt Nam dùng các từ “Thệ phản giáo” hay “Kháng Cách giáo” trong văn chương của họ.
[6]Những tín đồ Ki-tô giáo theo truyền thống này tin tưởng Thiên Chúa là một ngôi duy nhất, tương phản với quan niệm Chúa Ba ngôi (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần). Đối với họ, đức Ki-tô là một gương sáng, một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, thậm chí là một đấng siêu nhiên, nhưng bản thân ngài không phải là Thiên Chúa.
[7]Người Hêbrơ (dân Do Thái cổ đại) là sắc dân mà Kinh thánh Cựu ước mô tả là hậu duệ của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Xem thêm chú thích 2.
[8]Người rao giảng Tin Lành (evangelist, evangelical) tin rằng họ có sứ mệnh truyền bá những điều đức Ki-tô đã dạy và được ghi lại trong các sách Phúc âm (tin mừng) của Tân ước (theo Mat-thêu, Mac-cô, Lu-ca và Gio-an).
[9]Lý thuyết tôn giáo của John Calvin, một nhà thần học Pháp thế kỉ 16, nhấn mạnh sự toàn năng của Thiên Chúa và sự cứu rỗi có tính cách tiền định mà Thiên Chúa chỉ dành cho một số người được ngài tuyển chọn (xuyên qua hồng ân của ngài mà thôi). Thuyết này phù hợp với quan niệm “tuyển dân” (chosen people) của một số nhà tư tưởng tôn giáo Mĩ.
[10]Giao ước (convenant) là một tín lí theo đó một cộng đồng tôn giáo tin rằng Thiên Chúa đã liên minh hay hiệp thông với họ. Một ví dụ về quan hệ giao ước trong Do Thái giáo và Ki-tô giáo là quan hệ giữa Áp-ra-ham và Thiên Chúa, theo đó Thiên Chúa giao ước với Áp-ra-ham là ngài sẽ ban phép lành cho con cháu của ông sinh sôi nhiều hơn cả sao trên trời. Theo đức tin Ki-tô giáo, Thiên Chúa làm thêm một giao ước nữa, còn gọi là “giao ước mới”, theo đó đức Giê-su Ki-tô chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho tất cả loài người.
[11]David và Goliath là hai nhân vật trong một truyện tích nổi tiếng của Cựu ước, trong đó David là một cậu bé chăn cừu và là vua tương lai của Israel (xem chú thich 3). David chỉ dùng chiếc ná bắn một hòn đá và giết chết Goliath. Goliath là chiến sĩ khổng lồ của quân Philistines, được cử ra để thách thức vua quan Israel. Đây là một truyện minh họa sức mạnh của đức tin: David bước ra chấp nhận thách thức, không một manh giáp trên người, nhưng đã làm cho kẻ địch được trang bị đầy đủ binh giáp phải hoảng sợ rút quân.
[12]Phái nông gia theo mô hình kinh tế Jefferson [tổng thống thứ ba của Mĩ] chủ trương rằng kinh tế Hoa Kì phải chủ yếu dựa trên nông nghiệp để sản xuất những hàng hoá chiến lược, hơn là dựa vào công nghiệp. Jefferson khẳng định tin tưởng rằng: “Những người đổ mồ hôi canh tác đất đai… là tuyển dân (chosen people) của Thiên Chúa, nếu có bao giờ ngài có một tuyển dân.”
[13]Theo Cựu ước, Joshua là nhà lãnh đạo Israel tiếp theo sau Mô-se.
[14]Theo Cựu ước, vua Solomon đã xây một ngôi đền để thờ phượng Thiên Chúa tại Jerusalem. Người Do Thái cho rằng ngôi đền mái vòm của Hồi giáo (the Dome of Rock, xây vào thế kỉ 7) hiện đang tọa lạc ngay trên địa điểm của Đền Solomon, còn gọi là Ngôi đền đầu tiên mà họ tin rằng quân Ba-by-lon san bằng vào năm 585 trước Công nguyên.
[15]Theo luật phân chủng Jim Crow, người da trắng và da đen phải sử dụng những phương tiện công cọng riêng rẽ, như xe buýt, công viên, trường học… Jim Crow là tên gọi của của một hệ thống phân chia giai cấp, theo đó người da đen bị dìm xuống thành một loại công dân thứ cấp (secon-class citizens) trong khi người da trắng được đề cao là một chủng tộc ưu việt, thậm chí là một dân tộc được Chúa chọn, theo quan điểm của nhiều người miền Nam trước và sau Nội chiến Mĩ.
[16]Những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy việc phục hồi kinh tế và cải tổ xã hội do tổng thống Franklin Roosevelt đề xuất vào thập niên 1930 với mục đích khắc phục hậu quả của cuộc Khủng hoảng kinh tế. Có nghĩa đen là “chia lại ván bài”, tạo cơ hội mới, New Deal mở ra một bước ngoặt quan trọng, thu hút ngày càng nhiều hậu thuẫn của người da đen. Trước giai đoạn này, đại đa số dân da đen hậu thuẫn đảng Cộng hòa, đảng của tổng thống Abraham Lincoln, người có công giải phóng nô lệ.
[17]Một trong những tuyên bố của Công đồng Vaticanô II, nhan đề Nostra Aetate hay “Trong thời đại của chúng ta”, xúy xoá trách nhiệm của dân Do Thái về cái chết của đức Ki-tô đồng thời lên án việc bách hại và kì thị người Do Thái “vào bất cứ thời nào do bất cứ ai”.
[18]Evangelical có nghĩa là “phúc âm, tin mừng, tin lành” (good news). Những người theo đạo Tin Lành (evangelicals) tin vào thẩm quyền tuyệt đối của các sách Phúc âm Tân ước ( theo Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an). Người Tin Lành không những triệt để thay đổi chính bản thân (born again) dựa trên những nguyên tắc của sách Phúc âm, mà còn coi mình có sứ mệnh đi truyền đạo, thuyết phục người của các đức tin khác chấp nhận đức Ki-tô là con đường duy nhất đi đến “sự sống đời đời”.
[19]Andrew Jackson, tổng thống thứ 7 của Hoa Kì (1829-37). Trước khi trở thành tổng thống, Jackson là một nhà quân sự lập được nhiều chiến công lẫy lừng trong các trận đánh chống lại người Anh và các bộ lạc da đỏ liên minh với đế quốc Anh trong Chiến tranh 1812. Ông được coi là một vị anh hùng có công chống ngoại xâm và nới rộng biên cương của Mĩ. Jackson rất được lòng binh sĩ và giới bình dân. Trên cương vị tổng thống, Jackson nới rộng quyền lực của chính phủ liên bang.
[20]Trong bối cảnh của một nước đa chủng như nước Mĩ, từ nationalism nên được dịch là “chủ nghĩa quốc gia”, đối trọng với chủ nghiã quốc tế hay những xâm lấn từ nước ngoài vào. Sự nghiệp nhà binh của Andrew Jackson gắn liền với việc chống sự can thiệp và xâm lấn của đế quốc Anh. Vì thế từ Jacksonian mà tác giả dùng trong bài viết còn có nghĩa là “chống lại sự can thiệp của nước ngoài” kể cả các tổ chức quốc tế như LHQ.
[21]Triệt để tin vào lối giải thích theo nghĩa đen của Kinh thánh (fundamentalist). Các tín đồ Tin Lành-chính thống sống trong một văn hóa bảo thủ, lấy Kinh thánh làm khuôn thước đạo lí, sống đông đảo ở các tiểu bang miền Nam [của Nội chiến Mĩ], những tiểu bang thường được mệnh danh là “Vòng đai thánh kinh” (the Bible Belt).
Nguồn: Walter Russell Mead, “The New Israel and the Old. Why Gentile Americans Back the Jewish State?”, Foreign Affairs, July/August 2008.