Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Một số suy nghĩ về đề nghị đối thoại an ninh Mỹ - Trung - Nhật


Một số suy nghĩ về đề nghị đối thoại an ninh Mỹ - Trung - Nhật
Tác giả: Nguyễn Phương Bình.
Theo tin tức những tháng gần đây, Nhật Bản đã đưa ra với Trung Quốc đề nghị về việc tổ chức đối thoại an ninh giữa Mỹ, Nhật và Trung Quốc. Cuộc đối thoại này nếu diễn ra chắc chắn sẽ thu hút sự tập trung chú ý của cả thế giới và khu vực vì tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó.
Từ khi Liên Xô (cũ) sụp đổ, thế giới hai cực Xô - Mỹ chi phối các công việc quốc tế trên thế giới, trong đó có khu vực Châu A' - Thái Bình Dương (CA-TBD) của thời kỳ chiến tranh lạnh không còn nữa. Tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung, vốn vẫn đặc trưng cho mối quan hệ phức tạp, tác động qua lại lẫn nhau giữa các nước lớn ở CA-TBD, vì vậy cũng tác động đến tình hình kinh tế, an ninh chính trị chung của khu vực, không còn cơ sở để tồn tại. Chiến tranh lạnh chấm dứt, những giây phút hân hoan ban đầu về một kỷ nguyên mới hoà bình và hợp tác qua đi, dần nhường chỗ cho những lo nghĩ về việc thế giới và khu vực sẽ vận động tiếp như thế nào, về một trật tự thế giới và khu vực mới trong tương lai. Không ít các học giả và quan chức an ninh trong khu vực đã gọi giai đoạn chuyển tiếp sau chiến tranh lạnh là "thời kỳ của những điều không chắc chắn". Nay dường như mọi việc đã rõ ràng hơn.
Tam giác chiến lược Mỹ - Trung - Nhật bắt đầu được đề cập đến nhiều, nghiên cứu, phân tích và đánh giá sau chiến tranh lạnh. Nhưng sự công nhận đối với tam giác chiến lược mới của khu vực CA-TBD chưa phải đã đến ngay vì bên cạnh đó vẫn có những quan điểm khác về trật tự khu vực với tứ giác chiến lược Mỹ - Trung - Nhật - Nga - ASEAN, và thậm chí cả lục giác chiến lược Mỹ - Trung - Nhật - Nga - ASEAN - Â'n Độ. Vì vậy, có thể thấy rằng nếu cuộc đối thoại an ninh Mỹ - Nhật - Trung, theo đề nghị của phía Nhật, được các bên đồng ý tiến hành thì điều đó cũng có nghĩa là cơ cấu chiến lược giữa ba nước bước đầu sẽ được xác định chính thức ở CA-TBD.
Chiến tranh lạnh chấm dứt cũng là lúc mà hình thức hợp tác an ninh đa phương ở khu vực CA-TBD được quan tâm xây dựng như diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) mà số thành viên hiện nay đã bao gồm 21 nước và vùng lãnh thổ ở khu vực và đại diện của Liên minh châu Âu (EU). Cuộc đối thoại an ninh tay ba Mỹ - Nhật - Trung cũng sẽ là một mô hình mới của hợp tác an ninh đa phương ở CA-TBD, mô hình hợp tác an ninh giữa ba nước lớn và là các tác nhân chính ở khu vực. Khác với thời kỳ chiến tranh lạnh chỉ tồn tại các cuộc đối thoại an ninh song phương giữa các nước lớn như Mỹ - Nga, Mỹ - Trung và sau đó Nga - Trung. Đối thoại an ninh Mỹ - Nhật Trung sẽ xác định ảnh hưởng của tam giác chiến lược Mỹ - Trung - Nhật đối với an ninh CA-TBD, và mặc nhiên xác định cả vị trí và vai trò của mỗi nước ở khu vực sau chiến tranh lạnh.
Vị thế của hai nước Mỹ và Trung Quốc đã được đề cập đến nhiều và khá rõ ràng. Mỹ ra khỏi cuộc chiến tranh lạnh với tư cách là một siêu cường duy nhất tuy có suy yếu đôi chút về kinh tế. Sự hồi phục rõ rệt của kinh tế Mỹ và việc triển khai một chính sách khu vực tích cực những năm gần đây cho thấy quyết tâm của Mỹ duy trì vị trí lãnh đạo ở CA-TBD, khu vực có vị trí chiến lược cũng như tầm quan trọng thiết yếu đối với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ.
Trung Quốc đã phát triển với những thành tựu to lớn vượt bậc qua những năm cải cách kinh tế theo hướng thị trường, một sự phát triển mà cả Mỹ và đồng minh của Mỹ đang phải để mắt quan tâm đến. Được dự đoán có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới vào đầu thế kỷ tới, sự lớn mạnh về quân sự, sức thu hút của một thị trường khổng lồ và một chính sách ngoại giao linh hoạt duy trì mối quan hệ đối tác với cả Mỹ, Nga, Nhật, úc, ASEAN... đã và đang là những nhân tố thuận lợi củng cố vị trí của Trung Quốc trong so sánh lực lượng giữa các nước lớn ở khu vực.
Trường hợp của Nhật có đặc biệt hơn. Mối quan hệ an ninh của Nhật với Mỹ được hình thành từ hiệp ước an ninh giữa hai nước ký năm 1951. Từ một nước thua trận phải đầu hàng Mỹ và đồng minh, bị chiến tranh tàn phá... nhờ vào sự bảo hộ của Mỹ về quân sự Nhật Bản đã có thể tập trung sức vào phát triển kinh tế và đã tạo ra những "sự thần kỳ" về kinh tế, khoa học và công nghệ. Vào những năm 1980, Nhật Bản đã tiến kịp với các quốc gia công nghiệp phát triển trên thế giới và trở thành một cường quốc kinh tế, nước cho vay và cung cấp viện trợ phát triển lớn nhất thế giới. Hiện tại Nhật cũng đang là nước cung cấp phương tiện tài chính và kỹ thuật cho sự có mặt về quân sự của Mỹ ở CA-TBD và cho các hoạt động quân sự của Mỹ và đồng minh như trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, các hoạt động gìn giữ hoà bình ở Campuchia của Liên Hiệp Quốc (LHQ)... Cùng với những phát triển mới đó, vị trí và vai trò của Nhật trong quan hệ với Mỹ và với cả khu vực CA-TBD cũng dần thay đổi. Sự thay đổi theo hướng nâng cấp vị trí và vai trò của Nhật trong quan hệ với Mỹ và với cả khu vực được thể hiện khá rõ nét qua những hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, từ hiệp ước an ninh 1951 đến "Liên minh chiến lược hướng tới thế kỷ 21" tháng 4 năm 1996, qua đạo luật cơ sở Nhật - NATO ký hồi tháng 5 năm 1997 và gần đây nhất là phương hướng hợp tác phòng thủ mới Nhật - Mỹ được công bố ngày 23 tháng 9 năm 1997.
Không chỉ là sự phát triển, vươn lên của Nhật Bản cùng mối quan tâm chung về sự trỗi dậy của Trung Quốc mới đưa đến những thay đổi về vị trí, vai trò của Nhật trong quan hệ với Mỹ và ở khu vực CA - TBD mà những yếu tố nội bộ ở cả Mỹ và Nhật cũng đã và đang thúc đẩy những thay đổi đó. Mỹ dường như không thể tiếp tục bằng lòng với việc cán cân buôn bán luôn nghiêng về phía Nhật, với việc "Nhật Bản chỉ chi tiền, rồi sau đó vẫy cờ chào vĩnh biệt các binh sĩ Mỹ" - như cách nói hài hước của một số học giả, mà muốn Nhật phải chia xẻ trách nhiệm nhiều hơn cả về vật chất lẫn tài chính. Còn phía Nhật, vốn chỉ quen chi tiền để đạt được các mục đích của mình, bảo đảm an ninh của mình, cũng đang muốn có những bảo đảm chắc chắn hơn cho tương lai.
Nói một cách hình tượng, dường như cô gái Nhật yêu say đắm, nồng nàn, và bi luỵ người lính viễn chinh Mỹ trong vở kịch nổi tiếng "Chiô - Chiô Xan" (hay còn gọi là "Madam Butterfly"), đang vươn lên với khát vọng mới của mình. Cùng với sức mạnh kinh tế, Nhật đang tìm kiếm một vai trò chính trị lớn hơn ở khu vực, và muốn vậy trước hết phải tìm cách độc lập hơn trong quan hệ với Mỹ, tìm kiếm sự công nhận của Mỹ và các nước khác đối với vai trò mới (vai trò cường quốc khu vực của Nhật), vừa chứng tỏ được thiện chí đối với khu vực, và vừa "tự bảo vệ được mình". Và viện trợ đã trở thành công cụ đầy sức mạnh của Nhật trong chính sách đối với khu vực. Đến đầu những năm 1990, gần hai phần ba viện trợ của Nhật là dành cho châu A', cao gấp 6 - 7 lần viện trợ chính thức của Mỹ cho khu vực này (1) . Ngoài viện trợ kinh tế, Nhật Bản còn tích cực tham gia vào quá trình đem lại hoà bình cho cuộc xung đột ở Campuchia, chương trình tái thiết các nước Đông Dương, Diễn đàn khu vực ASEAN, các chương trình hợp tác phát triển vùng sông Mê Công, đề nghị gặp gỡ cấp cao Nhật - ASEAN v.v...
Bên cạnh đó, các chính khách Nhật Bản cũng đang tìm cách diễn giải điều 9 - điều khoản chống chiến tranh trong Hiến pháp Nhật theo hướng tìm kiếm tính hợp pháp và vai trò lớn hơn cho lực lượng phòng vệ Nhật được thành lập năm 1954. Ngày 15 tháng 6 năm 1992, Quốc hội Nhật đã thông qua dự luật về việc tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của LHQ, chấm dứt việc cấm đoán đưa lực lượng phòng vệ Nhật ra nước ngoài vốn được bảo lưu từ khi lực lượng này được thành lập. Sau khi hợp pháp hoá việc tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình, tháng 9 năm 1992 chính phủ Nhật đã quyết định đưa 600 lính công binh, 9 kiểm soát viên về ngừng bắn và một đội sĩ quan cảnh sát dân sự tham gia vào đội quân 22.000 người trong sứ mạng gìn giữ hoà bình của LHQ ở Campuchia(2).
Cũng phải nói thêm rằng hiện nay, chính việc nhấn mạnh đến sức mạnh mang tính "đe doạ tiềm tàng" của Trung Quốc đối với an ninh khu vực đã tạo thêm thuận lợi cho Nhật trong việc tranh thủ được sự ủng hộ ở cả trong và ngoài nước đối với việc tăng cường và củng cố lực lượng phòng vệ Nhật cũng như các quan hệ an ninh phòng thủ với Mỹ. Trong mối quan hệ Mỹ - Nhật, mỗi bên đều theo đuổi những mục tiêu riêng. Phía Mỹ muốn Nhật chia xẻ bớt trách nhiệm để có thể tập trung hơn cho các vấn đề kinh tế, đối nội mà vẫn bảo đảm được ảnh hưởng của mình trong khu vực, kiềm chế được cả hai đối thủ tiềm tàng là Nhật và Trung Quốc. Còn phía Nhật là tìm kiếm sự độc lập hơn về chính trị, an ninh để thực hiện mục tiêu của mình, tăng cường khả năng "tự bảo vệ" cho bản thân giữa "các láng giềng không thân thiện". Như vậy, cả Mỹ và Nhật đều gặp nhau ở điểm tăng cường vai trò an ninh chính trị của Nhật, của lực lượng phòng vệ Nhật đối với khu vực, mà phương hướng hợp tác phòng thủ mới Nhật - Mỹ là một minh chứng.
Đối thoại an ninh với Mỹ và Trung Quốc sẽ càng củng cố thế ngoại giao cho Nhật trong quan hệ với hai nước này và cả với những nước khác như Nga, tạo thuận lợi cho nỗ lực ngoại giao của Nhật trở thành thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ, điều mà trở lại sẽ càng làm tăng thêm vị thế của Nhật.
Chấp nhận đề nghị của Nhật, một đề nghị mang tính khẳng định vị trí và tầm quan trọng của Trung Quốc đối với các vấn đề an ninh của CA-TBD sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc sẽ có dịp thể hiện "thiện chí đối thoại" của mình với các nước vì mục tiêu hoà bình và an ninh của khu vực, và theo đuổi phương châm "vì đại cục" mà phía Trung Quốc đã nhiều lần giải thích (thực chất là vì những mục tiêu chiến lược lâu dài của Trung Quốc). Hơn thế nữa, sau khi xây dựng được quan hệ "Đối tác chiến lược hướng tới thế kỷ 21" với Nga (tháng 4 năm 1996), Trung Quốc đã cố gắng cải thiện quan hệ với Mỹ qua mối quan hệ "đối tác chiến lược mang tính xây dựng hướng tới thế kỷ 21", với Nhật qua "Quan hệ láng giềng thân thiện hướng tới thế kỷ 21", và với các nước ASEAN qua "Quan hệ bè bạn láng giềng thân thiện và tin cậy hướng tới thế kỷ 21" (tháng 11, 12 năm 1997). Những mối quan hệ chiến lược này sẽ ngày càng củng cố thêm vị trí và vai trò của Trung Quốc ở khu vực và trên thế giới trong tương lai.
Chính vì vậy, trước ý đồ đã rõ ràng của Nhật là muốn loại Nga ra khỏi cuộc đối thoại giữa các nước lớn, nhằm tập trung quyền lực vào ba nước Mỹ - Trung - Nhật và vừa kiềm chế Trung Quốc trong cơ cấu đối thoại đó, Trung Quốc đã nêu vấn đề đối thoại bốn nước lớn Mỹ - Trung - Nhật - Nga, theo đó Trung Quốc vẫn khẳng định được vị trí nước lớn của mình, vừa tạo thế cân bằng hơn cho Trung Quốc trong quan hệ với Mỹ và Nhật. Hơn nữa trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay, cùng với sức mạnh và ảnh hưởng tiềm tàng của Nga cũng không dễ dàng gì loại Nga ra khỏi "cuộc chơi".
Ngoài sự quan tâm theo dõi chung, các nước khu vực chắc sẽ đón nhận cuộc đối thoại an ninh lịch sử này (dù là tay ba hay tay tư) với những tình cảm hết sức trái ngược nhau: vui mừng và lo ngại. Xuất phát từ những trường phái tư duy khác nhau, cách đề cập khác nhau, sự nhìn nhận vấn đề cũng rất khác nhau. Quan điểm lạc quan có thể cho rằng việc các nước lớn đối thoại an ninh với nhau sẽ tác động tích cực và góp phần vào hoà bình, an ninh và hợp tác khu vực. Còn nếu nhìn nhận thực tế hơn lại có thể lo ngại rằng các nước lớn sẽ thoả thuận và quyết định mọi vấn đề của khu vực, theo những tính toán chiến lược của họ mà không tính quyền lợi của các nước nhỏ, và trong trường hợp đó cơ may cho các nước nhỏ sẽ ít hơn. Đó cũng là quan điểm của một số học giả hàng đầu hiện nay, trong đó điển hình là Harry Harding (3).
Đối với đề nghị nói trên của Nhật, một số nước chắc chắn sẽ có thái độ và phản ứng của người bị gạt ra ngoài rìa. Còn các nước Đông Nam A' do những vấn đề lịch sử vốn vẫn nghi ngờ về ý đồ đối với khu vực của Nhật và Trung Quốc, và ủng hộ sự có mặt về quân sự của Mỹ ở khu vực như một đối trọng, chắc sẽ vừa hoan nghênh, vừa theo dõi cuộc gặp với sự cảnh giác cao độ.
Có thể nói các cuộc đối thoại an ninh giữa các nước lớn sẽ tác động không nhỏ, nếu không nói là một thách thức, đối với vai trò lãnh đạo hiện nay của ASEAN trong ARF, diễn đàn được thành lập theo sáng kiến của ASEAN. Về mặt an ninh khu vực sẽ có hai cơ chế đa phương ARF và cơ chế các nước lớn, trong đó tất cả các thành viên của cơ chế thứ hai đều lại là thành viên của cơ chế thứ nhất. Trong tương lai hai cơ chế đó sẽ tồn tại song song và tác động qua lại đến nhau như thế nào thì cho đến nay vẫn còn là câu hỏi.
Liên quan đến vai trò trong ARF, ASEAN còn bị thách thức ngay cả ở Campuchia, nước đã tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác (Hiệp ước Bali) và trở thành quan sát viên của tổ chức này, thành viên của ARF. Mỹ và Trung Quốc - hai trong số năm nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và là hai nhân vật chính đã đưa đến việc ký kết Hiệp định hoà bình cho cuộc xung đột Campuchia trước đây (10/1991). Còn Nhật Bản lại là nước "đặt cược" cho việc tìm kiếm vai trò chính trị của mình ở khu vực đầu tiên ở Campuchia, và đang muốn tiếp tục duy trì ảnh hưởng của mình ở đây. Điều này được thể hiện rất rõ qua những diễn biến liên quan đến tình hình Campuchia gần đây.
Một trong những yếu tố được công nhận rộng rãi đã dẫn đến sự thành công của ASEAN trong 30 năm qua là việc ASEAN đã xử lý rất khéo quan hệ với các nước lớn để tồn tại và phát triển thành một tổ chức có tiếng nói ở khu vực và trên thế giới như ngày nay. Nhưng đó là việc xử lý mối quan hệ đối đầu và mâu thuẫn nhau giữa các nước lớn của thời kỳ chiến tranh lạnh. Còn khi các nước lớn đã hoà hoãn với nhau, tìm cách dàn xếp quan hệ với nhau, cách xử lý quan hệ với họ của ASEAN sẽ như thế nào cũng lại là một thách thức mới đối với ASEAN, nhất là khi không phải tất cả các quốc gia thành viên đều có cách nhìn nhận về các nước lớn giống nhau, và kinh nghiệm ứng xử chung của ASEAN trước "chuyện tình" giữa các nước lớn còn thiếu. Tuy nhiên, với Hội nghị A' - Âu (ASEM) và nhất là Hội nghị 9 + 3 tháng 12 năm 1997 vừa qua giữa 9 nước ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc dường như đã cho thấy một hướng đi mới trong công thức hợp tác của ASEAN, đang góp phần củng cố vị thế của ASEAN như một trong những tác nhân chính của khu vực Đông A' và CA-TBD.
Tình hình an ninh CA-TBD, Đông Nam A' và cả những vấn đề an ninh nội bộ của các nước thành viên đang đặt ra cho ASEAN những thách thức mới mang tính quyết định đến tương lai phát triển, vị trí và vai trò của Hiệp hội. Có lẽ hơn lúc nào hết, tình đoàn kết ASEAN, tinh thần đồng đội ASEAN, sự nhạy bén và thích ứng nhanh chóng với tình hình mới đã từng giúp đưa ASEAN đến vị trí hôm nay lại càng cần thiết để đưa ASEAN vượt qua những khó khăn,thách thức trước mắt, vững bước đi tới thế kỷ 21./.
Tài liệu trích dẫn:
1. Kenneth B.Pyle, "Japan's emerging strategy in Asia",- Southeast Asia security in the new millenium, New York, 1996, p.131.
2. Kenneth B.Pyle, "Japan's emerging strategy in Asia",- Southeast Asia security in the new millenium, New York, 1996, p.136..
3. Harry Harding, "The role of China, the U.S. and Japan in the Asia Pacific in the 21' century", Asia im the 21st century, ASEAN-ISIS, IIR, Hanoi-June, 1997. p.9-99./.

Mô hình lý thuyết giải thích hiện tượng ASEM


Mô hình lý thuyết giải thích hiện tượng ASEM
Tác giả: Tôn Sinh Thành.
Gần đây, bên cạnh xu thế khu vực hoá, xu thế hợp tác giữa các khu vực ngày càng phát triển. Cuối những năm 80, bên cạnh các quan hệ vốn có từ thập kỷ 70 của EU với nhóm các nước Châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương (ACP), nhóm các nước Địa Trung Hải, nhóm các nước Nam Mỹ (MERCOSUR) và Hiệp Hội các nước Đông Nam A' (ASEAN), trên thế giới xuất hiện những cơ chế hợp tác liên khu vực mới. APEC thực chất là cầu nối giữa hai khu vực Đông A' và Bắc Mỹ. Khu vực tự do thương mại Châu Mỹ (AFTAA), mà Mỹ đề nghị là cầu nối giữa Bắc Mỹ với Trung và Nam Mỹ. Khu vực tự do thương mại xuyên Đại Tây Dương (TAFTA) mà Canađa đề nghị là cầu nối Bắc Mỹ với Châu Âu. Đó là chưa kể tới các đề nghị sát nhập NAFTA với AFTA, sát nhập ASEAN với khu vực kinh tế gần gũi (CER) của Australia và New Zealand. Sáng kiến hợp tác liên khu vực quan trọng mới đây nhất là Hợp tác A'-Âu (ASEAM), ra đời tháng 3/1996.
Giải thích hiện tượng hợp tác liên khu vực nói chung và ASEM nói riêng như thế nào ? Căn cứ trên lập luận của Robert Keohane rằng "các thể chế (quốc tế) ít khi sinh ra từ sự hỗn độn ; ngược lại, chúng thường được xây dựng trên cơ sở của nhau" (1), bài viết này nêu giả thiết rằng ASEAN và EU đang dịch chuyển cơ chế hợp tác ASEAN-EU sang cơ chế hợp tác A'- Âu rộng lớn và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chưa đi sâu phân tích để chứng minh giả thiết nói trên, mà chỉ đề cập đến một mô hình lý thuyết để tiếp cận hiện tượng này.
Mô hình lý thuyết mà chúng tôi đề nghị chủ yếu dựa trên mô hình kinh tế cung cầu. Đây là một mô hình từng được Moravcsik sử dụng để giải thích quá trình nhất thể hoá Châu Âu (2). Theo mô hình này, mọi tiến trình hợp tác hay xung đột đều có thể được giải thích như một qúa trình tác động qua lại giữa cung và cầu. Trong quá trình này, các bên trước hết xác định nhu cầu của mình và sau đó tìm cách thoả mãn nhu cầu đó thông qua một quá trình mặc cả giữa họ với nhau.Quá trình tác động qua lại giữa cung và cầu sẽ đem lại các kết quả hợp tác. Sự chuyển biến về chất của cung và cầu sẽ dẫn tới chuyển biến về cấu trúc của các cơ chế hợp tác.
Mô hình phân tích ASEM mà chúng tôi đề nghị cũng dựa trên lập luận của Putnam cho rằng các cuộc thương lượng quốc tế có thể được xem như một trò chơi hai cấp độ : ở cấp quốc gia, các nhóm lợi ích gây áp lực với chính phủ để hình thành chính sách, ở cấp quốc tế, các chính phủ tìm cách đạt được khả năng mặc cả cao nhất để thoả mãn các áp lực trong nước (3). Tuy nhiên, Putnam cũng thừa nhận rằng có thể còn nhiều cấp độ khác nữa. Đối với hợp tác liên khu vực, trò chơi đó bao gồm 3 cấp độ: quốc gia, khu vực và liên khu vực; ở cấp quốc gia, các chính phủ xác định các lợi ích quốc gia dưới áp lực của các nhóm trong nước; ở cấp khu vực, các chính phủ mặc cả với nhau nhằm đạt được một lập trường chung cho cả nhóm; và cuối cùng ở cấp liên khu vực, các nhóm khu vực thương lượng với nhau để hợp tác nhằm thoả mãn các lợi ích quốc gia và khu vực.
Khi cả hai lập luận trên được phối hợp với nhau, hợp tác liên khu vực có thể được xem như là một tiến trình tác động qua lại giữa cung và cầu ở cả ba cấp : quốc gia, khu vực và liên khu vực. Nói cách khác, các quốc gia và nhóm khu vực lúc đầu hình thành các ước vọng về các mối lợi khi hợp tác liên khu vực với các khu vực khác. Sau đó các nhóm đó thương lượng với nhau để làm sao biến các ước vọng đó thành hiện thực.
Cung và cầu của hợp tác liên khu vực được hình thành và biến chuyển như thế nào? Dưới tác động của những nhân tố nào? Sau đây bài viết sẽ đi vào chi tiết:
Những nhân tố tác động đến nhu cầu hợp tác liên khu vực:
Không có nhân tố đơn lẻ nào quyết định nhu cầu hợp tác liên khu vực. Trái lại nó là kết quả của sự phối hợp nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, an ninh, lịch sử, văn hoá... Có thể chia các nhân tố này làm hai loại : các nhân tố tuyệt đối và các nhân tố tương đối. Nhấn mạnh nhân tố nào trong hai nhân tố trên đây tuỳ thuộc cách lập luận theo quan điểm nào.
Có quan điểm cho rằng các mối lợi tuyệt đối như thương mại, đầu tư và các lợi ích khác là những nhân tố chủ yếu quyết định hợp tác liên khu vực. Theo quan điểm này, hợp tác liên khu vực là câu trả lời tất yếu đối với đòi hỏi của các lực lượng thị trường trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, và quá trình nhất thể hoá kinh tế không còn bị bó hẹp trong biên giới quốc gia hay khu vực. Các cơ chế hợp tác liên khu vực đã trở thành vũ đài chủ yếu cho các tác động qua lại giữa các khu vực, là một biện pháp mới để quản lý kinh tế thế giới.
Tuy nhiên có người đã lập luận rằng các mối lợi tương đối như lợi ích chính trị chiến lược và lợi thế đối với bên thứ ba mới là nhân tố chủ yếu quyết định hợp tác liên khu vực. Theo quan điểm này, các quốc gia luôn luôn có tham vọng giành lợi thế tương đối tối đa. Chính khát vọng giành sức mạnh tương đối là động cơ khiến các nước tập hợp lại với nhau và dùng chiến lược cân bằng. Với hợp tác liên khu vực, trò chơi cân bằng được nâng lên cấp độ cao nhất, cân bằng giữa các khu vực với nhau. Duncan Snidal nói rằng, trong một hệ thống đa cực, các bên dễ có xu hướng muốn giành lợi thế tương đối hơn (4). Nếu ASEAN và NAFTA tăng quan hệ thương mại giữa hai bên, thế cân bằng thương mại mới sẽ hình thành, có lợi cho NAFTA và ASEAN, trong khi EU phải trả giá. Để bảo vệ mình, EU phải thương lượng một khuôn khổ quan hệ hợp tác mới với cả NAFTA lẫn ASEAN. Hơn nữa, nếu các nhóm khu vực phối hợp thực hiện được vai trò thống trị tập thể trong hệ thống thương mại đa biên, các nước còn lại sẽ không còn cách nào khác hơn là chấp nhận hệ thống đó.
Các nhân tố quyết định mặt "cung" của hợp tác liên khu vực:
Mặt "cung" của hợp tác liên khu vực là kết quả của tiến trình thương lượng nhằm thoả mãn "cầu" của mỗi khu vực, mỗi nước trong khu vực đó và các nhóm lợi ích trong mỗi nước. Theo các lý thuyết về thương lượng, các nhân tố cơ bản sau đây sẽ quyết định quá trình thương lượng : phân bố quyền lực giữa các bên tham gia hợp tác; cơ chế thương lượng; nội dung thương lượng (hay chương trình nghị sự); và vấn đề thành viên.
Phân bố quyền lực là nhân tố đầu tiên tác động đến hành vi của các bên hợp tác. Có hai loại phân bố quyền lực cơ bản : Phân bố cân đối là tình huống lý tưởng và các cuộc thương lượng có khả năng thành công nhất. Tuy nhiên trên thực tế, các bên tham gia thương lượng thường có sức mạnh không cân nhau. Bên nào có sức mạnh lớn hơn sẽ gây áp lực với bên yếu hơn, đặc biệt là bằng những biện pháp gắn vấn đề, để giành thêm lợi thế. Tình huống này thường dẫn đến tranh chấp và vì thế hợp tác trở nên khó khăn hơn.
Kết quả hợp tác còn bị tác động bởi cơ chế mặc cả trong đó bao gồm các thể chế và các thể lệ ra quyết định. Các thể chế làm giảm cơ hội phá rào và tăng cơ hội hợp tác vì nó tạo điều kiện cho các bên gặp nhau lại. Robert Keohane lập luận rằng, hành động của các quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các dàn xếp về mặt thể chế, bởi vì chúng tạo điều kiện cho sự lưu chuyển thông tin và cơ hội để thương lượng, khả năng theo dõi sự tuân thủ của các nước khác (6). Tuy nhiên các bên thường có quan điểm khác nhau về việc tạo lập các cơ chế thương lượng bởi vì họ có đặc điểm văn hoá khác nhau. Ví dụ, trong khi châu A' nhấn mạnh các tính không chính thức, không đối đầu, mềm dẻo và từng bước trong các cơ chế, thì phương Tây lại nhấn mạnh tính chất pháp lý, thể chế hoá và tính khẩn trương. Sự khác biệt này ảnh hưởng rất rõ đến đàm phán giữa hai nhóm và kết quả hợp tác.
Chương trình nghị sự là nhân tố quan trọng của quá trình thương lượng. Chương trình nghị sự mà mỗi nước đưa ra thể hiện lợi ích quốc gia và thương lượng là một tiến trình hoà giải các lợi ích đó. Trong quan hệ liên khu vực, hợp tác là tiến trình hoà giải lợi ích của hai khu vực. Sự đồng nhất lợi ích quốc gia trong mỗi nhóm càng lớn thì lợi ích của hai khu vực chồng lên nhau càng nhiều, nhờ thế làm cho nội dung hợp tác giữa hai khu vực mở rộng hơn(7). Khi sức mạnh của các thành viên tăng lên, họ thường sẵn sàng mở rộng phạm vi hợp tác và chấp nhận việc gắn các vấn đề để giành lợi thế tối đa (8). Tuy nhiên thủ thuật gắn các vấn đề trong thương lượng thường gây rắc rối và phải trả giá về mặt chính trị bởi vì nó tạo ra tình trạng kẻ được và người mất ở tất cả các nước và các bên tham gia, vốn là các bên có lợi ích rất khác nhau trên các vấn đề khác nhau.
Cuối cùng, vấn đề thành viên tham gia bao giờ cũng là điều nan giải trong các cuộc thương lượng. Khi số lượng thành viên tăng lên thì người ta khó quyết định hành động hơn và khó tìm ra giải pháp thoả mãn cho các vấn đề liên quan hơn. Việc mở rộng thành viên sẽ làm giảm hiệu quả ra quyết định, bởi vì điều đó làm tăng sự đa dạng của các hệ thống quốc gia và lợi ích quốc gia. Như vậy hợp tác sẽ trở nên khó khăn hơn nếu số thành viên tham gia tăng lên (9).
Thay đổi thể chế trong hợp tác liên khu vực.
Sự dịch chuyển hợp tác liên khu vực một cấu trúc này sang một cấu trúc khác là kết quả của những thay đổi "cung" và "cầu" hợp tác. Sự thay đổi các kì vọng và nguồn lực thực sự dành cho hợp tác sẽ dẫn đến sự thay đổi cấu trúc hợp tác. Arthur Stein lập luận rằng, "khi sự phân bố quyền lực quốc tế biến chuyển, đến lượt nó tác động đến cách đề cập (lợi ích) của các bên thì các thể chế sẽ thay đổi" (10). Tuy nhiên, trên thực tế ngay cả khi cách đề cập của các bên đã thay đổi, thì các thể chế cũng có thể không đổi, bởi vì theo Stein lập luận: "Có các chi phí ngầm liên quan đến các thể chế quốc tế, và vì thế chúng khó bị thay đổi hay xoá bỏ" (11). Theo Stein, truyền thống và uy tín cũng là cơ sở để duy trì thể chế cũ. Keohane cho rằng khả năng thiết lập hợp tác mới sẽ phụ thuộc vào cách thức của các thể chế hiện tại. Các thể chế quốc tế mới có thể được hình thành dưới ảnh hưởng của sự tin tưởng lẫn nhau do các thể chế cũ tạo nên (12). Như vậy một khuôn khổ lý thuyết để giải thích việc ASEM không những phải tính đến nhiều nhân tố tác động đến cung và cầu hợp tác liên khu vực, mà còn những tác động của chúng tới sự thay đổi cấu trúc hợp tác liên khu vực.
Hợp tác ASEAN-EU và ASEM:
Nếu mô hình lý thuyết trên được áp dụng cho hợp tác ASEAN - EU và ASEM, có thể sơ bộ nhận thấy những thay đổi cung và cầu xuất hiện trong hai cơ chế trên. Những năm 70, nhu cầu của EU chỉ giới hạn vào việc nhất thể hoá kinh tế và an ninh ở Châu Âu, trong khi ASEAN bị giới hạn bởi các nhu cầu phát triển kinh tế và ổn định chính trị tại mỗi nước và trong khu vực Đông Nam A'. Hợp tác ASEAN-EU là sản phẩm của các nhu cầu đó trong những năm 70. Đến những năm 90, EU có nhu cầu đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế và chính trị thế giới, trong khi ASEAN hy vọng sẽ đóng vai trò quan trọng ở cả Châu A'-Thái Bình Dương. Những nhu cầu đó hình thành dưới tác động của các biến chuyển trong mỗi khu vực và trên thế giới sau chiến tranh lạnh. Về lợi ích tuyệt đối, cả EU lẫn ASEAN đều bước vào một kế hoạch lớn để phát triển kinh tế và nhất thể hoá khu vực. Các kế hoạch đó đòi hỏi nhiều hơn nữa các nguồn lực quốc gia, trong khu vực và ngoài khu vực. Tốc độ toàn cầu hoá nhanh của kinh tế thế giới làm tăng đòi hỏi đối với các chính phủ đáp ứng để tạo ra các khung thể chế thương lượng cho các hoạt động của các lực lượng thị trường. Về lợi ích tương đối, các sự kiện như sự kết thúc chiến tranh lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô và sự suy yếu tương đối về sức mạnh của Mỹ đã tạo ra một khoảng trống quyền lực không những trên thế giới nói chung và cả châu A' nói riêng. Trong bối cảnh đó, EU hy vọng sẽ tăng vai trò kinh tế và chính trị của mình trên thế giới. EU cho rằng họ không thể bị gạt ra khỏi châu A', một vũ đài quan trọng của cuộc chạy đua kinh tế và chính trị trên thế giới. ASEAN phản ứng đối với tình hình này bằng mong muốn tăng sức mạnh tương đối của mình thông qua việc củng cố bản thân, kiến tạo một liên minh kinh tế và chính trị châu A' và xây dựng một mạng lưới quan hệ kinh tế và chính trị với các cường quốc lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, về mặt "cung" mà nói, cấu trúc ASEAN-EU đã không được nâng cấp thoả đáng trong những năm 90 và không đáp ứng những tham vọng ngày càng tăng của cả EU lẫn ASEAN. Sự mất cân đối về sức mạnh giữa hai nhóm tiếp tục tác động tiêu cực tới quan hệ giữa hai bên. Nội dung hợp tác không được mở rộng do sự khác biệt về lợi ích ngày càng tăng. Trong chiến tranh lạnh, chương trình nghị sự trong hợp tác ASEAN-EU bao gồm các sự ủng hộ lẫn nhau về chính trị, giúp đỡ phát triển và thương mại ưu đãi. Sau chiến tranh lạnh, nội dung chính trị không còn những vấn đề dễ chịu như trước nữa, mà là những vấn đề tranh cãi như nhân quyền và môi trường. Các tranh chấp về thương mại và đầu tư cũng không còn được bỏ qua như trước. Sau hai thập kỷ, cơ chế hợp tác ASEAN-EU cũng không cải tiến gì. Sự bất đồng giữa hai nhóm càng bị khoét sâu khi hai nhóm mở rộng thành viên. Ví dụ việc ASEAN kết nạp Mianma đã gây ra những trục trặc khó giải quyết cho hợp tác ASEAN-EU. Kết quả là nguồn lực thực sự cung cấp cho hợp tác ASEAN-EU bị giảm sút.
Trong bối cảnh đó, ASEM ra đời. ASEM là bước đột phá trong quan hệ ASEAN-EU và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đang tăng lên của EU và ASEAN. ASEM tạo cho ASEAN cơ hội quý báu để thúc đẩy chủ nghĩa khu vực Châu A', trong đó ASEAN đóng một vai trò quan trọng. Đối với EU, ASEM là một công cụ quan trọng để thúc đẩy chiến lược mới đối với châu A', ASEM là công cụ của EU trong cuộc chơi toàn cầu để cân bằng lại với Mỹ và để giành thêm sức mạnh tương đối trong các cuộc thương lượng đa phương. Hợp tác ASEAN-EU khó có thể đáp ứng được các mục tiêu trên đây. Về mặt "cung", các nguồn lực đã được cung cấp cho ASEM nhiều hơn là cho hợp tác ASEAN-EU. Trong một quan hệ cân đối hơn, hai bên EU và Đông A' sẵn sàng đi đến thoả hiệp và dễ đạt được thoả thuận hơn. Sau ASEM I, một mạng lưới các mối liên hệ và hội nghị đã được thiết lập. Với các cuộc trao đổi ở cấp cao, cơ chế hợp tác ra quyết định mềm dẻo, ASEM tỏ ra có hiệu quả hơn cơ chế hợp tác ASEAN-EU. ASEM có chương trình nghị sự rộng hơn và đạt tiến bộ nhanh hơn trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế, chính trị, an ninh và văn hoá. Hơn nữa trong một diễn đàn lớn như ASEM, các bất đồng giữa ASEAN và EU về nhân quyền và các vấn để khác khó trở thành tiêu điểm thảo luận. Tóm lại cả hai mặt "cung" và "cầu" của ASEM đều cao hơn hợp tác ASEAN-EU . Vì vậy, có thể nói sự ra đời của ASEM là kết quả của sự vận động lôgich của ASEAN và EU trong bối cảnh hợp tác ASEAN-EU giảm bớt vai trò. Tuy nhiên với cơ chế có được sau nhiều năm tồn tại, hợp tác ASEAN-EU không dễ gì bỏ đi được.
Trên đây là minh hoạ sơ bộ về việc áp dụng mô hình cung-cầu vào việc phân tích quan hệ ASEAN-EU và sự hình thành ASEM. Mô hình này có tính khả thi hay không, còn phải có thời gian và cần được chứng minh thêm bằng những phân tích chi tiết và sâu hơn nữa những chuyển biến cung-cầu trong hợp tác ASEAN-EU và ASEM cùng những mối quan hệ tác động qua lại giữa hai cơ chế hợp tác đó.
Tài liệu tham khảo:
(1) Robert O. Keohane, After Hegemony. (Princeton New Jersey, Princeton University Press, 1984), 79.
(2) Andrew Moravesik, "A Liberal Inter-governmentalist Approach", Journal of Common Market 31, no. 4 (December 1993) : 473-524.
(3) Robert Putnam, "Diplomacy and domestic Politics : the Logic of Two-level Games", International Organization 42, no 3 (summer 1988) 427-460.
(4) Duncan Snidal, "International Cooperation Anong Relative-Gains Maximizers," in Cooperative Models in Internatioal Relations Research, edited by Michael D. Intriligator and Urs Luterbacher (Massachusetts : Kluwer Academic Publishers, 1994), 105-126.
(5) Fen Osler Hampson, Multilateral Negotiations (Johns Hopkins University Press. 1995),9.
(6) Robert O. Keohane, International Institutions and State Power (Westview, 1989) 1-20.
(7) Robert Putnam, "Diplomacy and Domestic Politics : the Logic of Two-level Games, International Organization 42, no.3 (summer 1988) : 427-460.
(8) Miles Kahler, International Institutions and the Political Economy of Integration (Washington, D.C : The Brooking Institutons, 1995), 124.
(9) Hampson, 1995, 8.
(10) Arthur Stein, Why Nations Cooperate (New York : Cornell University Press, 1990), 24-53.
(11) Arthur Stein, "Coordination and Collaboration : Regimes in an Anarchic World,", in Neorealism and Neoliberalism : The Contemporary Debate, edited by David Baldein (Colombia University Press, 1993), 29-59.
(12) Robert O. Keohane, After Hegemony (Princeton, New Jersey : Princeton University Press, 1984) 79./.

Trung Quốc đẩy mạnh phát triển quan hệ với châu Phi


Trung Quốc đẩy mạnh phát triển quan hệ với châu Phi
Tác giả: Văn Luyện.
Từ đầu thập kỷ 90, nhất là từ năm 1992 đến nay, Châu Phi đã có nhiều biến chuyển quan trọng về chính trị và kinh tế. Một mặt những thành quả trên toàn cầu đã làm giảm bớt khó khăn cho một số quốc gia Châu Phi, đặc biệt là những nước có xung đột hoặc khủng hoảng xã hội, mặt khác các lãnh tụ Châu Phi đã và đang đi dần đến quan điểm rõ ràng về cải cách kinh tế và mở rộng cửa với thế giới bên ngoài. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy kinh tế Châu Phi phát triển. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á cũng đang mở cánh cửa vận hội cho Châu Phi. Tuy không ai hy vọng một nước nào đó ở Châu Phi có thể ganh đua với thành công quá khứ của các con hổ Châu á, nhưng những thành tựu mà các nước Châu Phi giành được sau chiến tranh lạnh đã làm cho người ta thay đổi quan niệm về lục địa này, nhất là các nước lớn như Mỹ và Trung Quốc. Rõ ràng mọi người bắt đầu nhận thấy Châu Phi hoàn toàn không phải là trường hợp tuyệt vọng như lâu nay vẫn tưởng.
Vì vậy, Mỹ đã coi Châu Phi là một thị trường quan trọng nhất trong thế kỷ tới. Bộ trưởng Thương mại Mỹ William Daley nói : "Mỹ rất coi trọng quan hệ với Châu Phi, nhất là thương mại; Mỹ có thể mở ra một chương mới trong quan hệ với Châu Phi"1. còn Trung Quốc thì cho rằng : "Châu Phi đã vượt qua thời kỳ hỗn loạn chính trị và phần lớn các nước đã có vai trò ngày càng quan trọng trên thế giới" 2, và muốn thiết lập quan hệ toàn diện với Châu Phi khi bước vào thế kỷ 21. Tạp chí "Thế giới tri thức" của Trung Quốc số 11 năm 1998 cũng ví Châu Phi là "vùng đất trinh nữ cuối cùng" trên thế giới chưa được khai phá, và kêu gọi các nhà đầu tư Trung Quốc phải nắm bắt thời cơ tiến vào Châu Phi.
1. Về kinh tế
Trong khi kinh tế Châu á đang lao đao trước tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ, thì nền kinh tế Châu Phi lại đi vào ổn định và phát triển, 31 nước (trong 57 nước) Châu Phi có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt trên 4%3. Như giám đốc IMF, Michel Candessus nói :"....kinh tế Châu Phi đã khá hơn và có vẻ họ đã tìm ra con đường dẫn đến thành công, tuy còn chậm song rất đều đặn. Nó được minh chứng thông qua việc cải thiện các chính sách kinh tế và tài chính, và các cuộc cải cách cơ cấu nhằm cải thiện quản lý công cộng của các quốc gia Châu Phi. "Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Phi (ABD) đều tỏ ra lạc quan và cho rằng kinh tế Châu Phi đang tăng trưởng, tuy chậm nhưng mà đều. Tỷ lệ tăng GDP hàng năm từ 2% (1993-1994) lên 4% (1995-1997), và dự đoán năm 1998 sẽ đạt 5%, cao hơn so với tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ (3,8%), Liên minh Châu Âu (2,5%) và Nhật Bản (1,0%), nhưng thấp hơn Châu á (6,8%), Mỹ Latinh (5,4%); lạm phát giảm từ 50% xuống dưới 20%, thâm hụt thương mại từ gần 50% xuống còn 4,8%4. Như vậy, trong vòng 3 năm lại đây mức tăng trưởng bình quân toàn châu lục là 4,5%, mức tăng dân số là 2,8%, thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên sau nhiều năm tụt xuống (nổi bật như Mô-dăm-bích, U-gan-đa). Những nước như Mô-rit-xơ, Bốt-xoa-na và Ga-na vốn đạt tỷ lệ tăng trưởng cao, đến nay vẫn duy trì. Những số liệu trên cho thấy chiều hướng này dường như sẽ tiếp tục trong thời kỳ trung hạn. Trong tương lai tự do hóa buôn bán sẽ là nhân tố tiềm tàng để cho nền kinh tế Châu Phi tiếp tục phát triển. Ngoài ra người ta còn cho rằng, nếu Châu Phi thu hút được nguồn vốn nước ngoài đang rút ra từ Châu á thì tăng trưởng kinh tế của họ sẽ đạt 6% năm5. Chính vì Châu Phi là châu lục phát triển chậm trễ nên ngày nay mảnh đất với hơn 730 triệu người, có tài nguyên quý hiếm và dồi dào đang trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn trong giai đoạn phát triển mới của thế giới.
Do nhận thức được khả năng và tầm quan trọng của Châu Phi tương lai, nên các nước lớn đã có những điều chỉnh chính sách. Anh tiếp tục thông qua khối Thịnh vượng chung để thâm nhập vào Châu Phi. Pháp cố gắng dùng "quan hệ phụ thuộc" thông qua tổ chức Francophonie nhằm duy trì, củng cố không gian tiếng Pháp trước sự xâm lấn của tiếng Anh. Nhưng do tình hình phát triển của Châu Phi trong những năm gần đây, mối quan hệ đó đã có nhiều thay đổi, vai trò của Pháp đang mờ nhạt dần, đặc biệt là khi Pháp vẫn cố bảo vệ chế độ Mobutu đến cùng. Trong khi đó, Mỹ điều chỉnh chính sách, coi trọng khu vực châu Phi hơn trước, và thu được nhiều thành công. Qua chuyến thăm Châu Phi tháng 3/1998, với việc đến Nam Phi (nước đã từng tạo ra những khó khăn kéo dài đối với Nhà Trắng trong việc hoạch định chính sách Châu Phi) của Tổng thống Mỹ B. Clinton, và với chính sách tài trợ, hợp tác kinh tế mới của Mỹ, quan hệ Mỹ - Châu Phi lại có bước đột phá mới. Dư luận đánh giá mục đích của Mỹ là tranh giành ảnh hưởng tại khu vực mà từ lâu được coi là thuộc "quyền sở hữu" của các nước thực dân Châu Âu, hay chính xác hơn là khu "vườn cấm" của Anh và Pháp. Trước đó, xuất khẩu của Mỹ sang thị trường Châu Phi đã lên tới 6 tỷ USD năm 1996, cao hơn với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Châu Phi cũng theo đó tăng mạnh (31% so với 12% là phần còn lại của thế giới)6. Việc Mỹ xóa khoản nợ 30 triệu USD và hứa cho Châu Phi vay thêm 700 triệu USD trong năm 1998, đồng thời đưa ra 4 chương trình trợ giúp (giáo dục, luật pháp, thương mại và môi trường), và thi hành chính sách mềm mỏng trong chính trị đối với Châu Phi đã thực sự khích lệ chính phủ các nước Châu Phi, đánh dấu bước phát triển mới giữa Mỹ và Châu Phi, tạo ra cho Mỹ một thị trường rộng lớn mới sau khi Pháp mất dần ảnh hưởng ở khu vực này. Đây cũng là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các nước lớn khác tại châu lục này trong giai đoạn tới.
Trong khi đó đối với Trung Quốc vấn đề cạnh tranh thị trường xuất khẩu và đầu tư là sức ép đè nặng lên nền kinh tế đang đi vào giai đoạn cải cách cơ cấu, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á tác động mạnh tới kinh tế các nước khu vực. Nếu như mức tăng xuất khẩu của Trung Quốc 6 tháng đầu năm 1997 là 20%, thì 6 tháng cuối năm 1997 tụt xuống còn 17%, và đến 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 7,6% 7. Để đối phó tình trạng xuất khẩu giảm mạnh, trong khi cố gắng giữ giá đồng Nhân dân tệ, chính phủ Trung Quốc đưa ra hàng loạt chính sách ứng phó, chủ yếu tập trung vào hai mặt là tiền tệ và ngoại thương. Họ đề ra chính sách "đa nguyên hóa thị trường", tạo môi trường và không gian bên ngoài rộng lớn hơn để tăng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài việc mở rộng thị trường sang Châu Âu, Bắc Mỹ và Trung Cận Đông thì Châu Phi là thị trường lớn thu hút sự chú ý của Trung Quốc.
Mấy năm gần đây, các nhà lãnh đạo Trung Quốc như Chủ tịch Giang Trạch Dân (từ 8-22/5/1996), Thủ tướng Lý Bằng, các Phó Thủ tướng Chu Dung Cơ, Lý Lam Thanh, Tiền Kỳ Tham lần lượt đến thăm Châu Phi và mới đây đã thành lập "Tiểu ban điều phối công tác hợp tác kinh tế mậu dịch, kỹ thuật với Châu Phi" do Lý Lam Thanh làm Trưởng tiểu ban. Trung Quốc đưa ra chương trình hợp tác trên 8 lĩnh vực với Châu Phi gồm : sản xuất sản phẩm cơ điện và hàng tiêu dùng hàng ngày; nông nghiệp và gia công sơ cấp hàng nông nghiệp; khai thác và gia công nông nghiệp ; đánh cá và gia công nghề cá; sản xuất thuốc chữa bệnh ; khai thác mỏ ; lập các trung tâm phân phối và buôn bán sản phẩm; khai thác và sử dụng năng lượng. Đến nay Trung Quốc đã có quan hệ buôn bán với 57 nước và tiểu khu vực, lập hơn 150 công ty và phòng đại diện mậu dịch tại Châu Phi. Để thúc đẩy và giúp đỡ các doanh nghiệp đầu tư vốn sang Châu Phi, Trung Quốc đã thành lập trung tâm đầu tư phát triển mậu dịch ở 10 nước Châu Phi. Tính đến cuối năm 1996 Trung Quốc đã cung cấp viện trợ cho 53 nước Châu Phi; xây dựng hơn 560 hạng mục thiết bị toàn bộ bằng tiền viện trợ. Đến cuối năm 1997, Trung Quốc ký hơn 20 thỏa thuận khung cho vay tín dụng lãi suất ưu đãi với 19 nước, đồng thời đã mở chi nhánh ngân hàng tại Dăm-bi-a (22/7/1997). Tới cuối tháng 6/1997, Trung Quốc đã đưa sang Châu Phi 260.000 lao động; đầu tư và nhận thầu nhiều công trình lớn nhỏ khác (lớn nhất là đường sắt ở Ni-giê-ri-a với giá trị hợp đồng là 528 triệu USD)8.
Những con số thống kê mà Tân Hoa xã đưa ra (14/3/1998) cho thấy, năm 1997 tổng kim ngạch buôn bán của Trung Quốc - Châu Phi lên tới 5,7 tỷ USD, tăng 40,6% so với năm 1996 (gấp 7 lần so với năm 1990). Năm 1997 xuất khẩu Trung Quốc sang các nước Châu Phi tăng 24,9% bằng 3,21 tỷ USD. Ngược lại nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước Châu Phi tăng 68,2%, lên tới 2,46 tỷ USD. Trung Quốc xuất sang Châu Phi các mặt hàng tiêu dùng, sản phẩm điện tử, máy móc, và nhập nguyên liệu từ Châu Phi 9. Xuất khẩu Trung Quốc sang Châu Phi 6 tháng đầu năm 1998 đã đạt 1,99 tỷ USD tăng 44,1% so với cùng kỳ năm 1997 và đà này có thể duy trì trong 6 tháng cuối năm 10.
Ngoài ra, Trung Quốc là bạn hàng thứ 6 của Nam Phi, tổng giá trị trao đổi hàng hóa hai bên là 1,57 tỷ USD/1997, tăng 16,8% so với năm 1996 trong đó xuất 784 triệu USD, nhập 789 triệu UDS 11, (chưa kể Hồng Kông). Thực ra, con số đó sẽ rất có ý nghĩa nếu ta đem so sánh với kim ngạch thương mại hai bên thời kỳ năm 1992 (chỉ là 10 triệu USD). Điều đáng chú ý là, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc sang Châu Phi tăng mạnh, thì xuất khẩu của họ sang Châu á với nhiều nguyên nhân khác nhau lại giảm mạnh. ví dụ : với Thái Lan giảm 41,9%, với Malayxia giảm 39,4%, với Inđônêxia giảm 23%, với Philipin giảm 17,3%, với Hàn Quốc giảm 24,5%...12.
Qua các con số so sánh trên đây, chúng ta có thể thấy rõ rằng, ngoài việc tìm kiếm các thị trường mới và gia tăng thương mại với Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Cận Đông..., Trung Quốc đang chú trọng và thúc đẩy quan hệ kinh tế với các nước Châu Phi để bù lại sự thâm hụt xuất khẩu do cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á gây ra. Đây cũng được coi là một thành tích bước đầu trong chính sách "đa nguyên hóa thị trường" của Trung Quốc. Nếu so sánh với thập kỷ 80 trở về trước thì có thể thấy rằng, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Châu Phi là có động lực và mục tiêu rõ ràng, chắc chắn sẽ được đẩy mạnh trong thời gian tới.
2. Về chính trị
Hơn 40 năm qua, từ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cho đến Đặng Tiểu Bình đều coi việc cố gắng phát triển quan hệ với các nước Châu Phi (thuộc thế giới thứ 3) là điểm cơ bản trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Vì vậy với sự phát triển thương mại và kinh tế, thì việc cải thiện quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Châu Phi đã mang một ý nghĩa chính trị lớn hơn ý nghĩa kinh tế nhiều lần. Với thành tích tiến vào Châu Phi, lãnh đạo Trung Quốc đã chứng minh thế hệ thứ 3 kế nhiệm có đủ khả năng để đạt được mục đích mà những thế hệ cha anh họ chưa thực hiện được, bởi những biến cố chính trị trong nửa thế kỷ qua.
Một ý nghĩa quan trọng khác là quan hệ Trung Quốc - Châu Phi phát triển thì không gian chính trị truyền thống của Đài Loan tại châu lục này cũng bị thu hẹp. Đây là một thắng lợi trong chính sách phong tỏa Đài Loan bằng ngoại giao của Trung Quốc. Mấy năm qua, theo đà lớn mạnh của Trung Quốc, Châu Phi đã trở thành khu vực tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Đài Loan. Nếu Mỹ giành được ảnh hưởng từ người Pháp, thì Trung Quốc đang từng bước đẩy lùi Đài Loan ra khỏi châu lục này. Chính ngoại trưởng Đài Loan Hồ Chí Cường ngày 2/5/1998 đã thừa nhận tình trạng đó : "Hiện nay trong hơn 27 nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan, thì đã có 2 đến 3 nước bật đèn đỏ và 2 đến 3 nước bật đèn vàng dao động trong quan hệ với Đài Loan" 13. Việc Nam Phi cắt bỏ quan hệ với Đài Loan để thiết lập quan hệ ngoại giao toàn diện với Trung Quốc (ngày 1/1/1998) được ghi nhận là một thắng lợi ngoại giao của Trung Quốc. Nó đánh dấu thất bại đối ngoại của Đài Loan, chấm dứt 21 năm quan hệ giữa đất nước lớn nhất, có vị trí trọng yếu và giàu tài nguyên nhất Châu Phi với Đài Loan. Đây cũng là kết quả tất yếu của lập trường chống chủ nghĩa A-pac-thai của Trung Quốc đã được Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela ghi nhận. Vì vậy, việc Nam Phi thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và đoạn tuyệt quan hệ với Đài Loan là điều rất quan trọng đối với Trung Quốc trong việc thực hiện chiến lược ngoại giao "tiến xuống Tây - Nam". Mối quan hệ Trung Quốc - Nam Phi chắc chắn sẽ gây nên hiệu ứng mới trong toàn Châu Phi. Bước phát triển mới này không những thách thức địa vị của Mỹ ở Châu Phi, gây tác động mạnh đến tình hình hai bờ eo biển Đài Loan, mà sẽ tạo thuận lợi cho Trung Quốc tiến hành chính sách đa cực hóa trong quan hệ quốc tế. Nó không những mở ra cho Trung Quốc một thị phần rộng lớn ở Châu Phi để cạnh tranh với Mỹ và các nước lớn khác mà về lâu dài sẽ thúc giục các nước Châu Phi, đặc biệt là 8 nước 14 còn giữ quan hệ ngoại giao với Đài Loan phải tính toán lại lợi ích chiến lược của họ.
Như vậy, ngoài mục đích khai phá thị trường mới, chiều hướng phát triển trên cho thấy Trung Quốc đang tiếp tục chính sách bao vây phong tỏa ngoại giao đối với Đài Loan, đồng thời đẩy mạnh chính sách tập hợp lực lượng mới. Với quan niệm "tiến xuống Tây - Nam" để "giữ vững Đông-Bắc", Trung Quốc đã coi Châu Phi là một mắt xích quan trọng trong "vành đai sinh trưởng" (ASEAN - Nam á - Trung Đông - Châu Phi - Mỹ Latinh) của thế giới đa cực để điều hòa mối quan hệ với các nước lớn trong tương lai.
3. Hướng phát triển và những hạn chế
Trung Quốc nhận rõ địa vị và vai trò quốc tế của họ đã khích lệ một số nước Châu Phi từ bỏ Đài Loan để lập quan hệ ngoại giao với mình. Họ công khai xác nhận, "quan hệ Trung Quốc - Châu Phi đã có bước phát triển mới". Chủ tịch Giang Trạch Dân trong chuyến đi thăm Châu Phi (1996) nhận xét : "Tình hình thế giới thay đổi sau chiến tranh lạnh mang lại những xung đột lớn cho Châu Phi nay không còn nữa. Chúng tôi vui mừng thấy tình hình chính trị của nhiều nước Châu Phi đang hướng tới ổn định. Sự ra đời của nước Nam Phi mới đánh dấu việc hoàn thành sứ mạng giải phóng chính trị ở Châu Phi. Hợp tác khu vực đã có bước đi quan trọng.... Châu Phi đang bước vào thời kỳ lịch sử mới, tìm kiếm hòa bình, ổn định và phát triển. Hơn 50 nước Châu Phi là lực lượng quan trọng duy trì hòa bình và ổn định thế giới... Hòa bình toàn cầu không thể tách rời sự ổn định của Châu Phi; phồn vinh của thế giới không tách rời sự phát triển của Châu Phi. Trung Quốc mong muốn củng cố và phát triển quan hệ nhà nước, hợp tác toàn diện, lâu dài, ổn định, hướng tới thế kỷ XXI với các nước Châu Phi". Gần đây Trung Quốc lại nhấn mạnh: "chúng ta không những cần hết sức coi trọng Châu Phi về mặt chính trị mà đồng thời cũng phải coi trọng hợp tác kinh tế với Châu Phi" 15. Với cách nhìn trên, có thể thấy Trung Quốc phát triển quan hệ với Châu Phi không chỉ nhằm bao vây cô lập Đài Loan về ngoại giao hay đơn thuần về kinh tế, mà còn vì các nước Châu Phi tương lai sẽ trở thành một lực lượng quan trọng thúc đẩy đa cực hóa thế giới trong thế kỷ tới. Mặc dù Trung Quốc không phủ nhận vai trò giúp đỡ của bên ngoài đối với Châu Phi nhưng đã thẳng thừng phê phán chủ nghĩa thực dân Phương Tây bóc lột nhân dân Châu Phi. Trung Quốc muốn Châu Phi đi theo con đường riêng, chứ không phải phụ thuộc vào Mỹ hay phương Tây.
Tuy con đường Trung Quốc tiến vào Châu Phi có vẻ đã được hoạch định rõ ràng trong chính sách, nhưng những thành công và chưa thành công còn ở phía trước. Thực tế bên cạnh những thắng lợi bước đầu về chính trị và kinh tế, Trung Quốc vẫn còn vấp phải những khó khăn cơ bản trong chính sách Châu Phi hiện nay. Việc Mỹ cam kết sẽ nâng viện trợ công cộng cho Châu Phi tới mức cao nhất trong lịch sử (700 triệu USD), tăng giá trị đầu tư của Mỹ vào Châu Phi lên 650 triệu USD, xóa khoản nợ cũ, miễn 50% thuế quan cho hàng hóa nhập từ Châu Phi, cho thấy chính sách Châu Phi của Mỹ có sự chuyển hướng mạnh hơn, sau những thành công rõ rệt trong những năm gần đây. Quả thật, chính sách Châu Phi của Mỹ là thức thời và đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện nay của Châu Phi, còn chính sách của Trung Quốc nặng về hợp tác lâu dài. Điều đó cho thấy Trung Quốc đang vấp phải sự cạnh tranh của Mỹ trong khu vực.
Mặt khác, Châu Phi vốn là khu vực có ý nghĩa quan trọng về địa chính trị đối với Đài Loan ; ảnh hưởng của Trung Quốc ở đây còn hạn chế. Một số nước Châu Phi còn chịu ảnh hưởng của Đài Loan (như Xê-nê-gan, Xao-tô-mê và Pơ-nanh-xi-pê lại cắt quan hệ với Trung Quốc để lập quan hệ với Đài Loan). Như vậy muốn giành được ưu thế hơn Đài Loan, thì ngoài việc mở rộng quan hệ chính trị với toàn khu vực, Trung Quốc còn phải có sức mạnh kinh tế. Đây là điều kiện không thể thiếu. Thế nhưng, xét về thực lực kinh tế Trung Quốc sẽ gặp không ít khó khăn trong cuộc cạnh tranh với các nước Pháp, Mỹ và Đài Loan ở châu lục này. Trung Quốc hy vọng duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước Châu Phi, nhằm mở rộng thị trường hàng hóa rẻ, thúc đẩy liên doanh liên kết, nhưng khả năng tài chính và kỹ thuật của Trung Quốc có hạn. Trung Quốc cũng chỉ mới đi vào lĩnh vực hợp tác nông nghiệp, ngư nghiệp, chứ chưa đủ khả năng để đầu tư, viện trợ hay trao đổi thương mại với Châu Phi như Pháp, Mỹ và Đài Loan (buôn bán hàng năm giữa Đài Loan - Châu Phi là 25 tỷ USD, trong khi đó Trung Quốc chỉ đạt khoảng 5,7 tỷ USD). Mặt khác, các nước Châu Phi đang rất cần vốn để khai thác tài nguyên giàu có của mình, chứ không cần nhiều lao động, mà Trung Quốc thì lại đang dư thừa lao động và cần xuất khẩu. Điều rõ ràng là con đường tiến vào Châu Phi của Trung Quốc còn nhiều chông gai. Bên cạnh những ảnh hưởng lâu đời của Pháp, thì những gặt hái nổi bật gần đây của Mỹ, cũng như sự có mặt của Đài Loan (về kinh tế), chưa cho phép Trung Quốc dễ dàng tiến sâu vào Châu Phi như ý muốn.
Tuy vậy, sự phát triển quan hệ các mặt giữa Trung Quốc với Châu Phi trong thời gian qua cho thấy, Trung Quốc đã xác định hướng tiến vào Châu Phi - "mảnh đất trinh nữ" chưa được khai khẩn, với lợi ích kinh tế và chính trị đã rõ ràng. Trong tương lai Trung Quốc sẽ tiếp tục tiến sâu hơn vào Châu Phi theo chiều hướng như hiện nay : Từng bước lôi kéo các nước Châu Phi, trước hết là trao đổi thương mại và hợp tác kỹ thuật trên một số lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và y tế... Tuy kết quả còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng đây rõ ràng là bước tiến mới trong quan hệ Trung Quốc - Châu Phi./.
Tài liệu trích dẫn:
1. TTXVN - An-giê-ri (Tin kinh tế hàng ngày 24/3/1998)
2. Phát biểu của Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham thăm Châu Phi 12-18/1/1998.
3. Trung Quốc/Ngoại giao 1998 trang 203
4. AFP-Bruc-xen (Tin kinh tế hàng ngày 17/2/1998)
5. TTXVN - New york (Tin kinh tế hàng ngày 5/2/1998).
6. (Tin kinh tế hàng ngày 13, 24/3/1998)
7. Số liệu của Cục Thống kê Trung Quốc thông báo 17/7/1998
8. Tạp chí "Thế giới tri thức" 11/1997 và Nhân dân nhật báo 1/6/1998.
9. TTXVN - Tin kinh tế hàng ngày 11/8/1998.
10. Trung Quốc/Ngoại giao 1998 trang 315.
11.
12. THX Bắc Kinh (Tin kinh tế hàng ngày 14/3/1998)
13. TTXVN tại Hồng Kông 3/5/1998
14. 8 nước Châu Phi còn giữ quan hệ ngoại giao với Đài Loan là : Ghi-nê Bit-xô, Ma-la-uy, Trung Phi, Xoa-di-lan, Buốc-ki-na Pha- xô, Găm-bi-a, Xê-nê-gan, Xao-tô-mê và Pơ-ranh-xi pê (mới có quan hệ năm 1997).
15. Nhân dân nhật báo 1/6/1998./.

Hội nghị Cấp cao Hà Nội: ASEAN hướng tới tương lai


Hội nghị Cấp cao Hà Nội: ASEAN hướng tới tương lai
Tác giả: Luận Thùy Dương.
Trong hai ngày 15 và 16-12-1998, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ VI với sự tham gia của chín nước thành viên ASEAN và một nước quan sát viên (Campuchia) đã diễn ra tại Hà Nội. Nước chủ nhà Việt Nam đã chuẩn bị tốt mọi điều kiện cho một cuộc hội tụ của hơn 600 đại biểu gồm những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, cùng nhiều Bộ trưởng, Thứ trưởng, quan chức cao cấp và hơn 750 nhà báo từ 26 nước.
Hội nghị cấp cao Hà Nội diễn ra với chủ đề "Đoàn kết và hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển đồng đều". Đây là Hội nghị cấp cao cuối cùng của ASEAN trong thế kỷ 20 - thế kỷ đã đánh dấu sự ra đời của tổ chức ASEAN, đã chứng kiến những thành công huy hoàng cũng như những thử thách nặng nề của tổ chức. Hội nghị cũng thể hiện rõ nguyện vọng và quyết tâm của các nước ASEAN củng cố đoàn kết và hợp tác, vượt qua các khó khăn hiện tại, đưa ASEAN vững bước vào thế kỷ 21. Hội nghị cấp cao Hà Nội trở thành chiếc cấu nối hai thế kỷ quan trọng của tổ chức ASEAN.
Trong hơn 31 năm hoạt động, cho đến Hội nghị cấp cao Hà Nội, ASEAN đã có tới 5 Hội nghị cấp cao chính thức, hai Hội nghị cấp cao không chính thức, 32 Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao, 30 Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế. ..Nhưng Hội nghị cấp cao Hà Nội là Hội nghị bàn về nhiều vấn đề nhất trong lịch sử ASEAN. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính đang tác động trực tiếp đến khu vực Đông Nam A'. O' các mức độ khác nhau, thể chế kinh tế, chính trị và xã hội của nhiều nước thành viên ASEAN đang bị de dọa. Biện pháp "tự cứu" mà các nước thành viên đang áp dụng, cũng như cuộc tranh cãi gay gắt về việc từ bỏ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau - một trong những nguyên tắc cơ bản của ASEAN - được xem như là biện pháp "cứu nhau", đã đe dọa tính liên kết của ASEAN. Mặt khác, trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng khu vực, ASEAN lại đứng trước một nhu cầu khác, chưa bao giờ cấp bách như hiện nay, là phải mở rộng ASEAN, liên kết tất cả 10 nước Đông Nam A' trong một tổ chức, tạo nên sức mạnh khu vực để đương đầu với những tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa. Hơn thế nữa, chỉ mấy tuần trước khi các nước ASEAN bước lên thềm Hội nghị cấp cao VI, tranh chấp Biển Đông lại trở thành vấn đề nóng bỏng sau khi Trung Quốc và Philippin có tranh chấp tại đảo Vành Khăn. Trong những bối cảnh như vậy, Hội nghị cấp cao Hà Nội đứng trước nhiều nhiệm vụ nặng nề. Trong đó, ba nhiệm vụ cơ bản nhất là tìm kiếm biện pháp khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội ở khu vực, kết nạp Campuchia, và duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực.
Trước ngày 15/12/ 1998, không phải là không có những nghi ngờ về sự thành công của Hội nghị. Có nhiều ý kiến cho rằng, do phải lo đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính, các nước ASEAN sẽ có khuynh hướng gia tăng bảo hộ mậu dịch, trì hoãn tiến trình thực hiện tự do hóa mậu dịch, và do phải đối phó với cuộc khủng hoảng, các nước ASEAN sẽ khó đạt được thỏa thuận về các biện pháp tập thể nhằm khắc phục khủng hoảng. Liên quan đến vấn đề thành viên của Campuchia, cũng có những ý kiến cho rằng các nước ASEAN sẽ bị chia rẽ sâu sắc, vì việc đặt ra quá nhiều điều kiện cũng như chú ý quá nhiều vào công việc nội bộ của Campuchia sẽ gây tổn hại tới nguyên tắc không can thiệp của ASEAN. Về tranh chấp Biển Đông, có ý kiến cho rằng các nước ASEAN sẽ không thể đạt được sự nhất trí về lập trường chung đối với Trung Quốc, và như vậy, tranh chấp ở khu vực này sẽ thêm căng thẳng. Tuy nhiên, với nỗ lực của các nước thành viên ASEAN, đặc biệt là của nước chủ nhà, Hội nghị cấp cao Hà Nội đã thành công tốt đẹp, hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra.
Thành công lớn nhất của Hội nghị cấp cao Hà Nội là đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng. Các văn kiện cho thấy sự hợp tác giữa các nước ASEAN ngày càng nghiêm túc và thực chất hơn. Việc thông qua các văn kiện lớn về hợp tác chính trị và kinh tế, trong khi các nước thành viên đều đang gặp khó khăn, cho thấy sức tồn tại mạnh mẽ của ASEAN, chứng tỏ con thuyền ASEAN vẫn có khả năng vượt sóng to gió lớn để không ngừng tiến lên phía trước.
Tiếp sau các cuộc họp trù bị của các quan chức cao cấp ASEAN (SOM), các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM), cuộc họp tư vấn chung (JCM), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM), Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM), Hội nghị liên Bộ trưởng (JMM), trong hai ngày Hội nghị cấp cao Hà Nội, các nhà lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua hai văn kiện đặc biệt quan trọng là bản Tuyên bố Hà Nội và Chương trình Hành động Hà Nội. Tuyên bố Hà Nội với 34 điểm thể hiện quyết tâm chính trị của ASEAN ra sức củng cố đoàn kết và tăng cường hợp tác, nhằm sớm phục hồi kinh tế, nhanh chóng khắc phục khó khăn do khủng hoảng kinh tế - tài chính gây ra, củng cố hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực, tăng cường vai trò và vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Trong Tuyên bố của mình, các nhà lãnh đạo ASEAN đã khẳng định tầm quan trọng của sự đoàn kết nội bộ trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội trong khu vực.
Chương trình hành động Hà Nội gồm 10 chương với 269 biện pháp đẩy mạnh chương trình hợp tác trên 10 lĩnh vực quan trọng nhằm phục hồi và gia tăng sự liên kết kinh tế ASEAN, phát triển cơ sở hạ tầng của khu vực, phát triển khoa học công nghệ thông tin, phát triển các nguồn nhân lực, phát triển xã hội, tăng cường bảo vệ môi trường, củng cố hòa bình và an ninh khu vực, khuyến khích sự hợp tác trong nội bộ ASEAN và tăng cường hợp tác giữa ASEAN với các nước, các tổ chức khác trên thế giới. Hội nghị cũng đã thông qua Tuyên bố về các biện pháp đẩy mạnh đầu tư và thương mại, đưa ra những biện pháp ngắn hạn và dài hạn nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư và thương mại của ASEAN. Đây có thể coi là những biện pháp gieo mầm cho sự phục hồi kinh tế khu vực và cũng chứng tỏ ASEAN cương quyết không ngả theo khuynh hướng bảo hộ mậu dịch , cô lập nền kinh tế của mình với thế giới.
Ba văn kiện trên, ("Tuyên bố Hà Nội", "Chương trình Hành động Hà Nội", và "Tuyên bố về các biện pháp đẩy mạnh") cùng với các Hiệp định được ký kết tại Hội nghị cấp cao Hà Nội (Hiệp định khung ASEAN về tạo thuận lợi cho hàng quá cảnh; Nghị định thư về thực hiện giai đoạn 2 các cam kết về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN; Hiệp định khung của ASEAN về các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau) đều nhằm, trước mắt là phục hồi sự phát triển của các nền kinh tế, giảm thiểu các tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính đang đè nặng lên các tầng lớp xã hội, sau nữa là nhằm thực hiện các mục tiêu của Tầm nhìn ASEAN 2020, bao gồm việc duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực, tăng cường hợp tác chuyên ngành, đảm bảo phát triển bền vững và đồng đều, và xây dựng cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau.
Hội nghị cấp cao Hà Nội đánh dấu nỗ lực phối hợp đầu tiên ở cấp cao nhất của ASEAN nhằm giúp các nước thành viên vượt qua cơn khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực. Do tác động của cuộc khủng hoảng, nhiều nước ASEAN phải đối mặt với những khó khăn gay gắt cả về kinh tế lẫn xã hội. Trong hơn một năm qua, mỗi nước đều đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm khắc phục khủng hoảng. Một số nền kinh tế đã vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất, song cho đến nay cuộc khủng hoảng khu vực vẫn đang diễn biến phức tạp. Nhận thức rõ tình hình này, tại Hội nghị cấp cao Hà Nội, các nhà lãnh đạo ASEAN đã dành nhiều thời gian thảo luận các biện pháp khắc phục khủng hoảng. Các biện pháp phối hợp chính sách tài chính - tiền tệ, củng cố hệ thống tài chính và thị trường vốn, tăng cường qui chế giám sát các dòng vốn, nhất là vốn ngắn hạn, khuyến khích sử dụng rộng rãi hơn các đồng tiền ASEAN để thanh toán trên cơ sở tay đôi và tự nguyện, thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các thỏa thuận về Khu vực mậu dịch tự do (AFTA), khu vực đầu tư ASEAN (AIA)... được coi là những biện pháp tập thể hữu hiệu giúp các nước thành viên vượt qua khủng hoảng. Tất cả các biện pháp này đều được phản ánh trong các văn kiện và các hiệp định được ký kết và thông qua tại Hội nghị cấp cao Hà Nội.
Một trong những kết quả nổi bật được ghi nhận tại Hội nghị lần này là lộ trình AFTA sẽ được thực hiện sớm hơn một năm, không phải đến năm 2003 mà đến năm 2002, sáu quốc gia phát triển hơn trong khối sẽ thực thi AFTA hoàn toàn, áp dụng thuế suất hàng xuất nhập khẩu trong khối ở mức 0-5%, trong đó phần lớn các mặt hàng ở mức 0%. Ba nước kém phát triển hơn và gia nhập ASEAN muộn hơn là Việt Nam và Lào, Mianma sẽ thực hiện AFTA đầy đủ vào 2006 và 2008.
Về khu vực đầu tư ASEAN, tháng 10-1998, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 30 họp tại Ma-ni-la (Philippin) đã ký Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Theo hiệp định này, một khu vực đầu tư ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2010. Nhưng tại Hội nghị cấp cao Hà Nội, các nhà lãnh đạo ASEAN đã bàn đến khả năng đẩy thời hạn này sớm lên bảy năm, tức là vào năm 2003. Trước mắt, các nước ASEAN sẽ đưa ra chế độ đãi ngộ đặc biệt cho các nhà đầu tư đăng ký làm ăn ở khu vực trong thời gian từ năm 1999 đến năm 2002, nhưng chế độ đãi ngộ ở mỗi nước sẽ khác nhau. Ví dụ, sẽ bao gồm các khoản khấu trừ thuế và nhập khẩu không bị đánh thuế các nguyên liệu thô, hoặc cho phép đầu tư 100% vào một số ngành nhất định... Đứng trước những thử thách của cuộc khủng hoảng khu vực, việc đẩy nhanh AFTA cũng như tính đến khả năng thực hiện sớm khu vực đầu tư ASEAN càng chứng tỏ quyết tâm cao độ của các nước ASEAN nhanh chóng vượt qua khó khăn, giành lại vị thế trên trường quốc tế. Các nước ASEAN muốn chứng tỏ cho thế giới thấy rằng họ chẳng những không chùn bước trước khó khăn mà còn thể hiện một sức sống mới.
Hội nghị cấp cao Hà Nội đặc biệt quan tâm về vấn đề phát triển bền vững và đồng đều của ASEAN. Tại Hội nghị, các nhà lãnh đạo ASEAN đã cam kết phấn đấu thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên thông qua các chương trình hợp tác tiểu vùng, nhất là ở lưu vực sông Mê Công. Hội nghị cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề thống nhất trong đa dạng, gắn bó và hài hòa của ASEAN, trên cơ sở tôn trọng những bản sắc và giá trị vốn có của mỗi nước và của cả khu vực. Kết quả quan trọng của Hội nghị là các nhà lãnh đạo ASEAN đã khẳng định lại các nguyên tắc cơ bản của ASEAN. Đó là : tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đồng thuận và tham khảo lẫn nhau.
Thành công tiếp theo của Hội nghị là đã thực hiện được mục tiêu xây dựng ASEAN bao gồm toàn bộ 10 nước Đông Nam A'. Các vị lãnh đạo ASEAN đã quyết định kết nạp Vương quốc Campuchia làm thành viên thứ 10 của ASEAN và chỉ thị cho các Bộ trưởng Ngoại giao tổ chức một buổi lễ kết nạp đặc biệt tại Hà Nội trong thời gian gần nhất. Bằng quyết định này, Hội nghị cấp cao Hà Nội đã hoàn tất một giai đoạn tập hợp tất cả nước Đông Nam A' vào một cơ chế liên kết khu vực để chuyển sang giai đoạn tăng cường và thống nhất Đông Nam A' trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Kể từ Hội nghị này, khối ASEAN với đầy đủ 10 nước Đông Nam A' cùng nắm tay nhau bước vào thế kỷ 21. Qua đó, Hội nghị cấp cao Hà Nội đã làm tăng vị thế của ASEAN đối với thế giới bằng một thông điệp mạnh mẽ cho thấy ASEAN vẫn giữ vững đoàn kết, tiếp tục hòa nhập và phát triển.
Hội nghị cấp cao Hà Nội đã nêu một bằng chứng sinh động về mong muốn của ASEAN tiếp tục chính sách hợp tác rộng mở với các nước và tổ chức quốc tế. Đây là Hội nghị cấp cao chính thức đầu tiên của ASEAN tiến hành cuộc gặp cấp cao với ba nước đối thoại trong vùng Đông A' là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Điều này tạo nên một truyền thống tốt đẹp mới trong sinh hoạt của ASEAN.
Về vấn đề Biển Đông, trong các cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, các đại biểu ASEAN và Trung Quốc đã nêu nhiều ý kiến khác nhau, chưa đưa ra một giải pháp thực sự cho các tranh chấp. Nhưng các bên đều nhắc lại cam kết tôn trọng những thỏa thuận đã đạt được trước đây, giữ nguyên trạng, và đều thống nhất ý kiến cho rằng giải quyết và ngăn chặn những xung đột có thể xảy ra ở Biển Đông cần thông qua thương lượng hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế năm 1982 về Luật biển và Tuyên bố về Biển Đông. Điều có nghĩa quyết định và bao trùm là các nhà lãnh đạo ASEAN và các nhà lãnh đạo ba nước đối thoại đã thỏa thuận hợp lực duy trì hòa bình và ổn định lâu dài ở khu vực.
Cam kết của Nhật Bản về quĩ cứu trợ cả gói 30 tỷ USD và khoản cho vay ODA trị giá 1000 tỷ Yên với lãi suất 0,75% (thời hạn thanh toán 40 năm) nhằm giúp các nước khủng hoảng và chịu tác động của cuộc khủng hoảng, trong đó có Việt Nam, là sự giúp đỡ kịp thời và có hiệu quả của Nhật Bản đối với các nước ASEAN. Sự hỗ trợ của Trung Quốc (4,5 tỷ USD và cam kết không phá giá đồng Nhân dân tệ) và những biện pháp của Hàn Quốc đã được các nước ASEAN hoan nghênh. Tổng thống Hàn Quốc đã đề nghị gắn khu vực Đông Bắc A' với Đông Nam A', đề nghị thành lập "nhóm quan sát" về hợp tác Đông A' và gợi ý rằng cuộc họp trù bị đầu tiên của nhóm sẽ được tiến hành tại Xơ-un vào năm tới. Thủ tướng Nhật Bản và nhiều nước ASEAN đã tán thành đề nghị này. Điều đó cho thấy một xu hướng tập hợp lực lượng mới hình thành trong khu vực và các nước lớn, đặc biệt là các nước lớn ở Đông Bắc A' đang ra sức nâng cao vai trò và ảnh hưởng của mình ở khu vực.
Những kế hoạch giúp đỡ, các cuộc tiếp xúc song phương và đa phương của các nhà lãnh đạo 3 nước đối thoại Đông A' này với các nhà lãnh đạo ASEAN, cùng với các bức điện chúc mừng Hội nghị cấp cao Hà Nội của Tổng thống Mỹ, Tổng thống Nga và các nhà lãnh đạo nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực khác, đã chứng tỏ mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với ASEAN. Hội nghị cấp cao Hà Nội đã khẳng định giá trị ASEAN không hề bị xói mòn, ngược lại, ASEAN vẫn có vị trí quan trọng và sức hấp dẫn trên trường quốc tế
Sự thành công của Hội nghị cấp cao Hà Nội cùng với các hội nghị cấp cao ASEAN trước đó là những mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của tổ chức ASEAN. Hội nghị cấp cao Hà Nội là bức thông điệp của các quốc gia và nhân dân khu vực quyết tâm thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị của ASEAN lên một tầm cao mới. Hội nghị đã góp phần nâng cao uy tín chính trị của Việt Nam, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, ngay trước, trong và sau Hội nghị cấp cao của ASEAN, còn lần lượt diễn ra các chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của các vị Tổng thống Hàn Quốc, Tổng thống Philippin, Thủ tướng Nhật Bản, Phó Chủ tịch Trung Quốc, Thủ tướng Campuchia, đã đánh dấu bước phát triển quan trọng mới trong quan hệ song phương giữa nước ta với các nước trong và ngoài Đông Nam A'.
Việc đăng cai Hội nghị cấp cao ASEAN -VI chỉ ba năm sau khi gia nhập đại gia đình ASEAN đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Việt Nam, góp phần vào thực hiện các chương trình của Hiệp hội. Đồng thời cũng chứng tỏ rằng Việt Nam có quyết tâm và có khả năng tham gia sự nghiệp phát triển ASEAN một cách bình đẳng với các thành viên khác, vì lợi ích của dân tộc mình và của các dân tộc khác trong cộng đồng ASEAN.
Cùng với thành công trong việc đăng cai Hội nghị cấp cao các nước nói tiếng Pháp vào tháng 11-1997, trở thành thành viên chính thức APEC tháng 11-1998, việc đăng cai thành công Hội nghị cấp cao ASEAN -VI tháng 12 - 1998 là những bước phát triển có ý nghĩa lớn trên con đường hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam./

Quan hệ Nhật - Nga và vấn đề tranh chấp lãnh thổ


Quan hệ Nhật - Nga và vấn đề tranh chấp lãnh thổ
Tác giả: Lê Linh Lan.
Tranh chấp lãnh thổ là vấn đề tương đối phổ biến trong quan hệ giữa các nước. Tranh chấp lãnh thổ giữa Nhật Bản và Trung Quốc, giữa các nước ASEAN và Trung Quốc ở Biển Đông vốn vẫn là điểm tối không chỉ trong quan hệ song phương, mà còn có nguy cơ gây mất ổn định an ninh khu vực. Tuy nhiên, ít có mối quan hệ song phương nào mà sự khai thông và phát triển của nó lại phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề tranh chấp một vùng lãnh thổ biển như giữa Nhật và Nga. Hơn năm thập kỷ đã trôi qua kể từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhưng hiệp định hoà bình vẫn chưa được ký chủ yếu là do bế tắc về vấn đề tranh chấp bốn hòn đảo phía Bắc Hokkaido, Nhật Bản (vùng lãnh thổ phía Bắc theo cách gọi của Nhật, hay các đảo Nam Kurile theo cách gọi của Nga). Chiến tranh lạnh -cuộc chiến đã một lần nữa đẩy hai nước vào hai mặt trận đối kháng- kết thúc đã gần một thập kỷ, nhưng chỉ đến năm 1997 người ta mới thấy có cơ sở để hy vọng về khả năng quan hệ Nhật Bản và Nga cuối cùng sẽ chuyển sang một trang mới.
Vài nét về tranh chấp vùng lãnh thổ phía Bắc:
Vùng lãnh thổ phía Bắc bao gồm đảo Etorufu, Kunashiri, Shikotan và nhóm đảo Habomai do quân đội Liên Xô chiếm đóng năm 1945 khi Nhật bại trận và chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc . Đây là vấn đề tranh chấp lãnh thổ phức tạp có lịch sử lâu đời giữa Nhật và Nga. Cơ sở đòi hỏi chủ quyền của Nhật đối với vùng lãnh thổ phía Bắc dựa vào Hiệp định Shimoda (1855) và St. Petersburg (1875), theo đó Nga hoàng công nhận các đảo Etorufu, Kunashiri, Shikotan và nhóm đảo Habomai thuộc chủ quyền của Nhật Bản. Trong khi đó, Liên Xô cho rằng quần đảo Kuril được người Nga khám phá ra đầu tiên và người Nga đã là những người đầu tiên định cư và phát triển những hòn đảo này. Theo Nga, hai hiệp định nói trên trở nên vô hiệu lực bởi cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1905 và Hiệp định Porstmouth năm 1905.
Những diễn biến và thoả thuận giữa các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ hai làm phức tạp thêm tranh chấp vùng lãnh thổ phía Bắc giữa Nga và Nhật. Theo Hiệp định Yalta, Liên xô, Mỹ và Anh thống nhất trao cho Liên Xô quần đảo Kuril. Tuy nhiên, phía Nhật cho rằng đây là thoả ước giữa các nước thắng trận, Nhật không được biết cũng như không tham gia vào Hiệp định này. Ngược lại, Nga cho rằng Hiệp định Yalta là hợp pháp và có giá trị như giải pháp cuối cùng cho tranh chấp chủ quyền quần đảo Kuril. Hơn nữa, theo Nga, vì Nhật là nước khởi đầu thế chiến thứ hai, nên khi thua trận Nhật phải chấp nhận những hậu quả của nó. Trong Hiệp ước hoà bình Sanfrancisco năm 1951, Nhật Bản từ bỏ chủ quyền của mình đối với Nam Sakhalin và quần đảo Kuril (Hiệp ước không chỉ rõ những đảo nào nằm trong chuỗi đảo này). Nga cho rằng vùng lãnh thổ phía Bắc (4 hòn đảo tranh chấp) thuộc về quần đảo Kuril. Tuy nhiên, ở Nhật nhìn chung có một sự nhất trí trong số 4 đảo, hai đảo Etorufu và Kunashiri thuộc về quần đảo Kuril và đảo Shikotan và các đảo Habomai không thuộc về quần đảo Kuril.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đã có thời điểm hai nước gần đi đến được thảo thuận về tranh chấp lãnh thổ và ký Hiệp ước hoà bình. Đó là vào năm 1956, khi giai đoạn hậu Stalin bắt đầu và Nikita Khrushchev chủ trương thúc đẩy chính sách ngoại giao "chung sống hoà bình". Tuyên bố sẽ từ chức sau khi ký được hiệp ước hoà bình với Liên Xô của Thủ tướng Nhật Hatoyama đã tạo điều kiện để nội bộ Nhật thống nhất quay trở lại lập trường đàm phán mềm dẻo. Tháng 10 năm 1956, Thủ tướng Hatoyama thăm Matxcơva và ký Tuyên bố chung, theo đó Liên Xô đồng ý "chuyển giao" đảo Shikotan và nhóm đảo Habomai (hai đảo không thuộc về chuỗi đảo Kuril) cho Nhật ngay sau khi hai nước ký Hiệp ước hoà bình. Tuy nhiên, dưới áp lực của Mỹ, Hatoyama sau đó đã thay đổi lập trường và yêu cầu Liên Xô trao trả cả 4 đảo cho Nhật trước khi hai bên có thể ký Hiệp ước hoà bình. Năm 1960, vào thời điểm quan hệ Đông-Tây căng thẳng và khi Mỹ Nhật tái khẳng định Hiệp định hợp tác an ninh, Liên xô đã từ bỏ cam kết năm 1956 của mình. Năm 1973, không lâu sau những cú sốc Nixon và vào thời điểm cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất, Thủ tướng Nhật Tanaka Kakuei thăm Matxcơva với ý định đàm phán một giải pháp cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ, theo đó Nhật sẽ giúp đỡ Liên Xô về mặt kinh tế để đổi lấy lãnh thổ. Nỗ lực của Nhật lần này cũng thất bại bởi không những lập trường hai bên cách xa nhau, mà còn bởi thực tế chiến tranh lạnh. Đến năm 1979, khi Liên Xô can thiệp vào Afganistan, quan hệ Nhật Nga lại trở nên căng thẳng.
Sự sụp đổ của Liên Xô và chiến tranh lạnh kết thúc đặt quan hệ Nhật- Nga vào một cục diện mới. Quan điểm của Nga về tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản đã thay đổi cơ bản so với quan điểm của Liên Xô cũ.
Năm 1991, trong chuyến thăm Nhật, người phát ngôn của Xô viết tối cao Nga lúc đó đã chuyển tới Thủ tướng Nhật Toshiki Kaifu bức thông điệp của Yeltsin về chủ trương của Nga từ nay sẽ tiếp cận vấn đề lãnh thổ theo nguyên tắc "luật pháp và công lý", thay vì coi quan hệ giữa Nga và Nhật là quan hệ giữa một nước thắng trận và một nước bại trận. Năm 1990, trong chuyến thăm Nhật của mình với tư cách đại biểu Xô viết tối cao Liên Xô, Yeltsin đã đưa ra kế hoạch năm giai đoạn:1. Matxcơva thừa nhận có vấn đề lãnh thổ; 2. Tuyên bố Nam Kuril là vùng đặc quyền kinh tế; 3. Phi quân sự hoá 4 đảo đang tranh chấp; 4. Ký hiệp ước hoà bình; 5. Các thế hệ tương lai giải quyết dứt điểm vấn đề.
Tháng 10 năm 1993, trong chuyến thăm Nhật, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã chính thức thừa nhận cốt lõi vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Nga và Nhật là chủ quyền đối với vùng lãnh thổ phía Bắc. Chuyến thăm kết thúc bằng Tuyên bố Tokyo kêu gọi một giải pháp cho tranh chấp quần đảo Kuril dựa trên những nguyên tắc về luật pháp và công lý. Tuy nhiên, tiếp xúc Nhật- Nga trong giai đoạn này không đi đến kết quả cụ thể nào. Không những thế, triển vọng giải quyết vấn đề lãnh thổ và ký Hiệp ước hoà bình không sáng sủa gì hơn thời kỳ chiến tranh lạnh bởi trở ngại nội bộ cả hai bên.
Lợi ích của Nhật và Nga đối với một giải pháp cho tranh chấp quần đảo Kuril:
Cả Nhật Bản và Nga đều có những lợi ích vô cùng to lớn trong việc đạt được một giải pháp cho tranh chấp quần đảo Kuril, làm cơ sở cho việc ký Hiệp định hoà bình và cải thiện quan hệ giữa hai nước.
Lợi ích của Nhật:
Đối với Nhật, vùng lãnh thổ phía Bắc có ý nghĩa nhiều hơn về mặt tâm lý và thể diện dân tộc, bởi chừng nào những đảo này còn nằm trong tay Nga thì Nhật còn cảm thấy gánh nặng của một nước bại trận trong chiến tranh thế giới thứ hai-một gánh nặng mà Nhật đã luôn cố gắng thoát ra trong những thập kỷ sau chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, nếu Nhật không vượt qua được gánh nặng tâm lý và không thoả hiệp để tiến tới một giải pháp thì những lợi ích to lớn, lâu dài của Nhật sẽ bị ảnh hưởng. Thứ nhất, Nhật có lợi ích an ninh trực tiếp đối với một nước Nga láng giềng hữu nghị, ổn định và phát triển. Một nước Nga thù địch, bất ổn định và nội chiến sẽ là mối đe doạ trực tiếp đối với Nhật Bản. Thứ hai, nước Nga với những tài nguyên thiên nhiên bất tận và một thị trường to lớn sẽ tạo ra những cơ hội không thể bỏ qua cho kinh tế Nhật Bản. Dầu lửa và khí đốt thiên nhiên của vùng Viễn Đông có ý nghĩa chiến lược đối với nước Nhật Bản nghèo tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt khi tính đến sự cần thiết đa dạng hoá nguồn cung cấp nhiên liệu của Nhật.
Cuối cùng, việc cải thiện quan hệ với Nga phù hợp với những nỗ lực chung của Nhật Bản tăng cường vai trò quốc tế của mình thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Nhật sẽ có cơ hội để đóng một vai trò đặc biệt trong sự chuyển đổi của nước Nga. Hơn nữa, Nhật cũng rất cần sự ủng hộ của Nga đối với nỗ lực trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ngoài ra, cải thiện quan hệ với Nga nằm trong điều chỉnh chính sách chung của Nhật theo hướng cân bằng quan hệ với các nước lớn thay vì dựa hẳn vào Mỹ như trước đây, qua đó tăng cường vai trò chính trị của mình ở khu vực và trên thế giới.
Trong diễn văn trước Quốc hội Nhật Bản chiều ngày 16/2/1998, cựu Thủ tướng Nhật Hashimoto đã tuyên bố: "4 nước Mỹ Nhật Trung Nga thiết lập mối quan hệ trên cơ sở tin cậy và phối hợp là quan trọng, vì hoà bình và ổn định ở châu A'-Thái Bình Dương. Trong đó, tôi chú trọng nhất việc triệt để cải thiện quan hệ với Liên bang Nga".
Lợi ích của Nga:
Vấn đề chủ quyền các hòn đảo tranh chấp cũng có ý nghĩa tượng trưng, tâm lý và đặc biệt là lòng tự hào dân tộc đối với Nga. Vượt lên trên nhũng lý do đó, Nga có những lợi ích to lớn trong việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Nhật. Cải cách kinh tế và những nỗ lực đưa nước Nga ra khỏi cuộc khủng hoảng sẽ có được sự ủng hộ của Nhật, một cường quốc về kinh tế mà sự giúp đỡ về vốn cũng như công nghệ, kỹ thuật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Nga. Điều này càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh những kỳ vọng của Nga về sự hỗ trợ của Mỹ và các nước phương Tây khác đối với cải cách kinh tế đã tỏ ra không có cơ sở. Những tính toán về kinh tế có thể nói là ưu tiên hàng đầu của Nga trong quan hệ với Nhật.
Cải thiện quan hệ với Nhật Bản cũng phù hợp với lợi ích chính trị của Nga. Trước xu thế Mỹ ngày càng trở nên lũng đoạn các công việc quốc tế, mục tiêu nổi bật của ngoại giao Nga là góp phần tạo dựng một trật tự đa cực trong đó Nga cũng là một cực quan trọng. Điều này cũng nhằm hạn chế vai trò áp đảo của Mỹ và bảo vệ vị trí nước lớn của Nga. Để thực hiện mục tiêu này, Nga thực hiện chính sách ngoại giao đa phương hoá và đặc biệt đặt trọng tâm vào củng cố quan hệ với các nước lớn.
Quan trọng hơn, có thể thấy những tính toán về cân bằng quyền lực ở châu A'- Thái Bình Dương có tác dụng như lực đẩy hai nước láng giềng lại với nhau. Theo bản báo cáo tổng kết chiến lược của Viện nghiên cứu chiến lược Luân Đôn (IISS), Nhật và Nga chia sẻ mối lo ngại chung đối với một nước Trung Quốc quân sự hùng mạnh đang nổi lên và chiều hướng dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc. Mặc dù Nga và Trung Quốc đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện quan hệ song phương được đánh dấu đặc biệt bởi tuyên bố xây dựng mối quan hệ "đối tác chiến lược cho thế kỷ 21", mối quan hệ đối tác chiến lược Nga-Trung không được xây dựng trên cơ sở bền vững cả về mặt kinh tế, an ninh cũng như chính trị. Những tính toán ngắn hạn của Nga như mối lợi thu được từ việc bán vũ khí cho Trung Quốc cũng như việc tăng cường quan hệ với Trung Quốc nhằm phục vụ mục tiêu hoà nhập với dòng chảy chính trong quan hệ quốc tế ở Đông A' và cũng để cân bằng quan hệ không mấy xuôn xẻ với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, là nguyên nhân chủ yếu. Tiềm năng phát triển quan hệ kinh tế thấp, những nghi kỵ do lịch sử để lại và những tính toán chiến lược lâu dài mâu thuẫn đặt mối quan hệ đối tác chiến lược này trước những thách thức to lớn. Bộ trưởng Quốc phòng Nga, Tướng Rodionov trong tiếp xúc riêng với phía Nhật đã khẳng định có những hạn chế đối với sự phát triển mối quan hệ đối tác chiến lược Nga -Trung.
Tóm lại, nhìn từ góc độ lợi ích và tính toán chiến lược thì quan hệ Nga- Nhật hoàn toàn có khả năng phát triển theo hướng tích cực. Hơn nữa, đối với cả Nhật và Nga, nhóm đảo này không có tầm quan trọng sống còn cả về mặt chiến lược lẫn lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, một giải pháp cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ chấp nhận được cho cả Nhật và Nga phải đứng trước những trở ngại nội bộ không dễ vượt qua.
Giải pháp cho tranh chấp đảo Kuril: những trở ngại chính:
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, bối cảnh quốc tế và mâu thuẫn đối kháng hai cực là một trong những trở ngại to lớn, nếu không nói là có tính chất quyết định đối với quan hệ Nhật -Xô. Mỹ luôn phản đối bất kỳ sự nhượng bộ nào từ phía Nhật để tiến tới giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Phụ thuộc vào Mỹ trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Nhật Bản không thể không tính đến lập trường của Mỹ trong quan hệ với Liên Xô. Tuy nhiên, lập trường căn bản của Mỹ đã thay đổi cùng với sự kết thúc chiến tranh lạnh. Mỹ tỏ ý ủng hộ việc Nhật và Nga sớm giải quyết vấn đề lãnh thổ và cải thiện quan hệ song phương. Trung Quốc, vốn luôn quyết tâm đào sâu mâu thuẫn Nhật- Xô trong bối cảnh mâu thuẫn Xô- Trung thời kỳ chiến tranh lạnh, nay cũng đã tỏ thái độ ủng hộ việc Nhật- Nga xích lại gần nhau. Trong khi môi trường quốc tế trở nên thuận lợi cho việc tìm kiếm giải pháp cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ Nhật-Nga, những trở ngại trong nước trở thành những lực cản chủ yếu đối với vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước.
Đối với Nhật Bản, nhượng bộ đối với Nga trong vấn đề lãnh thổ sẽ khơi dậy sự chống đối của các lực lượng hữu khuynh ở Nhật Bản. Sẽ không dễ dàng đối với tân Thủ tướng Nhật Keijo Obuchi trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của Thượng Nghị Viện đối với một giải pháp cho tranh chấp lãnh thổ với Nga. Mặc dù LDP vẫn chiếm đa số trong Hạ Nghị Viện, nhưng thất bại trong cuộc bầu cử giữa kỳ tháng 7/98 đã đặt LDP vào vị trí thiểu số trong Thượng Nghị Viện. Tình hình này đặt vị tân thủ tướng vào một tư thế khó khăn trong việc thực hiện chính sách đối nội cũng như đối ngoại. Hơn nữa, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế nặng nề trong nước cũng như ở châu A', ưu tiên hàng đầu của chính phủ Nhật là phục hồi phát triển kinh tế và đưa Nhật Bản ra khỏi cơn suy thoái trầm trọng đã kéo dài gần một thập kỷ.
Đối với Nga, tình hình kinh tế và chính trị trong nước của Nga cũng không dễ dàng hơn đối với việc tìm kiếm giải pháp cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Nhật. Những nỗ lực cải cách kinh tế của Nga cho đến nay vẫn chưa thu được kết quả. Không những thế, khủng hoảng kinh tế và tài chính của Nga trầm trọng hơn bao giờ hết. Bất ổn định chính trị cũng là một trong những đặc điểm nổi bật trong tình hình Nga thời gian gần đây. Trong bối cảnh như vậy, khả năng Nga nhượng bộ trong vấn đề lãnh thổ là gần như không thể có. Phần lớn người Nga cho rằng đây chưa phải là thời điểm để giải quyết vấn đề lãnh thổ. Khủng hoảng kinh tế đi liền với khủng hoảng chính trị đã xói mòn cơ sở quyền lực của Yeltsin. Hơn nữa, sức khoẻ của Yeltsin càng ngày càng suy yếu, và điều này đã có ảnh hưởng rõ ràng đối với sự tham gia của Nga vào các vấn đề quốc tế. Gần đây, trong cuộc gặp thượng đỉnh APEC ở Kuala Lumpur, khi Nga được chính thức chấp nhận là thành viên của APEC, Tổng thống Nga Yeltsin đã không thể tham dự vì vấn đề sức khoẻ và Thủ tướng Nga Primakov đã phải thay mặt Yeltsin dự cuộc họp này. Trong chuyến thăm Nga từ ngày 22 đến 24/11/1998, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã phải gặp Yeltsin và tiến hành cuộc gặp thượng đỉnh tại bệnh viện nơi Yeltsin đang điều trị bệnh phổi. Bởi cá nhân Yeltsin đóng một vai trò rất quan trọng trong quan hệ Nhật Nga, vấn đề sức khoẻ của ông có khả năng trở thành trở ngại chính trong việc tìm kiếm giải pháp cho tranh chấp lãnh thổ Nhật -Nga.
Tiến triển trong quan hệ Nhật Nga và triển vọng:
Từ đầu năm 1997, quan hệ Nhật- Nga có những bước tiến triển khả quan. Sự hợp tác của phía Nga trong việc điều tra vụ tàu chở dầu của Nga bị đắm ở Biển Nhật Bản tháng 1/1997 đã tác động tích cực lên tâm lý lãnh đạo Nhật. Không lâu sau đó, tháng 3/97, Thủ tướng Nhật Hashimoto đã bày tỏ sự ủng hộ của Nhật Bản đối với việc Nga trở thành thành viên của nhóm các nước công nghiệp phát triển G7. Nhật cũng tích cực ủng hộ nỗ lực của Nga gia nhập APEC và WTO. Đáp lại thiện ý của Thủ tướng Nhật, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã tuyên bố trong cuộc gặp bên lề hội nghị thượng đỉnh G8 tại Denver tháng 6/1997 là tên lửa của Nga không còn chĩa vào Nhật Bản, Nga không phản đối việc nâng cấp hiệp định an ninh Mỹ-Nhật và hơn nữa, Nga ủng hộ Nhật Bản trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Những cử chỉ mang đầy tính xây dựng giữa hai nhà lãnh đạo đã mở đường cho cuộc gặp riêng nồng ấm nhất giữa các nhà lãnh đạo Nhật- Nga trong thế kỷ 20. Có thể nói quan hệ cá nhân giữa hai nhà lãnh đạo Nga và Nhật là một trong những nhân tố dẫn đến bước đột phá trong quan hệ song phương. Thủ tướng Nhật Hashimoto khi đọc diễn văn từ chức trước Quốc hội Nhật cũng đã công nhận thành tựu đối ngoại quan trọng bậc nhất của mình (thoả thuận Krasnoyarsk) một phần đạt được nhờ tạo dựng được mối quan hệ tốt đẹp với B. Yeltsin. Cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức tại Krasnoyarsk giữa Hashimoto và Yeltsin đã đánh dấu bước chuyển lịch sử trong quan hệ Nhật Nga với quyết tâm của hai nước ký được Hiệp định hoà bình trước năm 2000.
Tháng 4/1998, trong cuộc gặp không chính thức tại Kawana, Nhật Bản, Hashimoto đã đề nghị một giải pháp đối với vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Nhật và Nga. Mặc dù toàn văn giải pháp của Hashimoto chưa bao giờ được công bố, theo một số nguồn tin không chính thức, Hashimoto đề nghị hoạch định đường biên giới Nhật- Nga phía Bắc đảo Etorufu (1 trong số 4 đảo tranh chấp). Đề nghị của Hashimoto có nghĩa là Nga trao lại chủ quyền của cả 4 hòn đảo tranh chấp cho Nhật trong khi Nhật công nhận quyền quản lý hành chính tạm thời của Nga đối với 4 hòn đảo này. Theo kế hoạch, Tổng thống Nga Yeltsin đã trả lời đề nghị của Hashimoto trong dịp Thủ tướng Nhật Obuchi thăm chính thức Nga từ ngày 11 đến 13 tháng 11 năm 1998. Cũng như đề nghị của Hashimoto, phản hồi của phía Nga không được công bố chính thức. Theo nguồn tin của Hãng Thông tấn Interfax, Nga vẫn không thay đổi lập trường và tiếp tục khẳng định chủ quyền của Nga đối với bốn hòn đảo đang tranh chấp. Tuy nhiên, theo sáng kiến của Thủ tướng Nhật Obuchi, hai bên đã thống nhất thành lập hai ủy ban về phát triển kinh tế bốn hòn đảo đang tranh chấp và về việc hoạch định biên giới giữa Nhật và Nga ở vùng lãnh thổ phía Bắc.
Những diễn biến tích cực trong quan hệ Nhật- Nga dường như đã làm cho triển vọng giải quyết vấn đề lãnh thổ và ký Hiệp định hoà bình trở nên hiện thực hơn. Tuy nhiên, thực chất những tiến bộ đạt được không có hiệu lực đảm bảo hai nước sẽ thực hiện được cam kết đúng thời hạn, tức là trước năm 2000 bởi những trở ngại trình bày phần trên, đặc biệt là từ phía Nga. Hơn nữa, trong số các phương án đang được bàn đến, không có một phương án tối ưu có thể chấp nhận được đối với cả hai bên.
Phương án thứ nhất, trao trả cả 4 đảo vùng lãnh thổ phía Bắc cho Nhật là không thể hình dung được đối với phía Nga trong tình hình hiện nay, dù cho Nhật sẵn sàng cung cấp những khoản viện trợ kinh tế khổng lồ.
Phương án thứ hai, trao trả 2 đảo theo như thoả thuận năm 1956 cũng không hiện thực vào thời điểm hiện nay. Bất cứ sự nhượng bộ nào từ phía Yeltsin sẽ gây ra sự phản đối quyết liệt của những người cộng sản- Đảng đối lập lớn nhất ở Đuma quốc gia. Hơn nữa, phái quân sự Nga cực lực chống lại bất cứ sự nhượng bộ lãnh thổ nào với Nhật. Trong tình hình hiện nay, nhượng bộ với Nhật về vấn đề lãnh thổ gần như có nghĩa Yeltsin tự đặt dấu chấm hết lên con đường công danh chính trị của mình. Điều này khó có thể xảy ra đối với một nhà chính trị như Yeltsin.
Phương án thứ 3 là cùng phát triển kinh tế vùng lãnh thổ phía Bắc. Đây là phương án được phía Nga ủng hộ bởi Nga sẽ không phải đối đầu với vấn đề chủ quyền những hòn đảo đang tranh chấp trong khi vẫn đạt được mục tiêu chủ yếu của mình là tranh thủ Nhật về hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, Nhật tỏ ra lạnh nhạt với phương án này bởi lo ngại về ý định của Nga nhằm ký Hiệp định hoà bình trong khi gác lại vô thời hạn vấn đề chủ quyền.
Phương án cuối cùng, Nga cho Nhật thuê dài hạn hai đảo Shikotan và Habomai mà phía Nga đã đồng ý trao trả cho Nhật năm 1956 khó có thể có được sự ủng hộ của Nhật. Chấp nhận thuê cho dù thời hạn dài bao nhiêu vô hình chung là Nhật công nhận chủ quyền của Nga đối với những hòn đảo này.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng con đường dẫn tới Hiệp định hoà bình giữa Nhật và Nga dường như mới bắt đầu. Nếu tính đến những trở ngại cả hai nước phải vượt qua để đi đến được một giải pháp dung hoà cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ, quá trình này sẽ lâu dài và khó khăn. Tuy nhiên, bởi việc bình thường hoá quan hệ Nhật- Nga không chỉ đem lại những lợi ích to lớn cho hai nước mà còn góp phần vào hoà bình và ổn định ở châu A'- Thái Bình Dương, chúng ta chỉ có thể hy vọng quan hệ hai nước sẽ theo kịp những biến đổi lớn lao đã và đang diễn ra trước ngưỡng cửa thế kỷ 21./.