Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp tất yếu giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Lịch sử 82 năm từ khi thành lập và 67 năm liên tục ở vị trí cầm quyền và duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định là “nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”[1].
Nhận thức đúng đắn về năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, những điều kiện đảm bảo và những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cầm quyền của Đảng để từ đó có giải pháp nâng  cao và tăng cường năng lực cầm quyền của đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần phát triển lý luận về đảng cầm quyền ở nước ta.
Cho tới nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về năng lực cầm quyền của đảng, song một cách khái quát có thể xem: Năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng hòa những phẩm chất, tri thức, kinh nghiệm, phương thức, phương pháp lãnh đạo của Đảng tạo thành sức mạnh, uy tín giúp Đảng có thể tập hợp lực lượng, đáu tranh giành chính quyền và tổ chức thực hiện thành công lý tưởng, mục tiêu chính trị, củng cố địa vị cầm quyền của Đảng.[2]
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp với nhiều thách thức khó lường, để Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, củng cố địa vị và nâng cao năng lực cầm quyền, thiết nghĩ cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: .
Trước hết, Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam  là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, Đảng dễ bị sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử thách, trở ngại để đi tới thành công. Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu những kinh nghiệm, tri thức của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các Đảng Cộng sản trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta. Biểu hiện cụ thể ở việc hiểu sâu sắc về bản chất cách mạng và khoa học, phương pháp luận, nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm  của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không phải là thuộc lòng các câu chữ trong các tác phẩm kinh điển.
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi hoạt động gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, buông lỏng kỷ luật đều dẫn tới nguy cơ làm mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
 Tăng cường thành phần công nhân trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Cấp ủy, cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp  tiêu biểu cho bản lĩnh chính trị của Đảng và của mỗi tổ chức Đảng. Do vậy phải tăng cường giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, quan điểm của giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của dân tộc  cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, tranh quyền, ham tiền, vụ lợi. Xây dựng cấp ủy các cấp thực hiện tốt vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị vững vàng.
Thứ hai, nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng
Tầm trí tuệ của Đảng chính là trình độ trí tuệ của Đảng gắn với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, là sự kết hợp chặt chẽ của bốn yếu tố: năng lực tư duy, tri thức tích lũy được, sự sáng tạo phát hiện ra cái mới, sự vận dụng các yếu tố của trí tuệ vào cuộc sống. Nâng tầm trí tuệ của Đảng, trình độ lý luận của Đảng là phương thức hiệu quả nhất để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Đảng ta cần quan tâm tập trung một số nội dung sau:
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh  về đảng, chống lại những quan điểm bôi nhọ, những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan tâm tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm, thành công và không thành công từ thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta cũng như các Đảng Cộng sản trên thế giới để bổ sung, phát triển học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình cầm quyền của Đảng ta, từ đó tìm ra bản chất, quy luật vận động cơ bản của thực tiễn cách mạng nước ta trong thời kỳ đổi mới. Mặt khác, đấu tranh chống biểu hiện bảo thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận vào thực tiễn. Kịp thời thay đổi những chủ trương, chính sách không phù hợp.
Phát huy tiềm năng, sáng tạo trong công tác nghiên cứu lý luận, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các Viện nghiên cứu trong công tác nghiên cứu lý luận của Đảng. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lý luận của Đảng trong đó trọng tâm là nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về CNXH, con đường đi lên CNXH ở nước ta và những vấn đề nảy sinh trong quá trình đổi mới như mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện toàn cầu hóa …
 Nâng cao năng lực nghiên cứu dự báo xu thế khách quan của sự phát triển xã hội, của thế giới và khu vực, những nhân tố ảnh hưởng, tác động tới sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong những thập niên tới. Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ trí tuệ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp không những giỏi trong chỉ đạo thực tiễn mà còn có tư duy lý luận độc lập, sáng tạo, có tầm nhìn xa trông rộng, chủ động triển khai có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của đảng trong thực tiễn.
Thứ ba, đổi mới, chỉnh đốn Đảng  đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới
Đổi mới, chỉnh đốn  là việc Đảng quyết tâm từ bỏ những lạc hậu, lỗi thời, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi. Đây là bài học lớn nhất, cũng là vấn đề sống còn, có quan hệ đến sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và vận mệnh của bản thân Đảng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, đảm bảo cho Đảng có tổ chức chặt chẽ, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao. Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, đảng sẽ mất quyền lãnh đạo, bị suy yếu nhanh chóng, thậm chí biến chất và tan rã. Do vậy, phải kịp thời bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy trình để đảng viên được tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Có cơ chế để cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của đảng viên, cán bộ dưới quyền, kể cả những ý kiến trái chiều; trong những trường hợp cần thiết cần tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các trung tâm, viện nghiên cứu trước khi đưa ra quyết định. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, các biểu hiện kèn cựa, tranh giành địa vị, lợi lộc, cục bộ, bản vị.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi cấp thiết phải phòng chống nguy cơ thoái hóa, biến chất, tự diễn biến từ trong nội bộ Đảng. Hồ Chí Minh coi mỗi sai lầm, khuyết điểm như một chứng bệnh, là kẻ địch từ bên trong phát hoại Đảng, như “ giặc ở trong lòng”. Do vậy, Đảng cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong đấu tranh phòng chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Đảng, chính quyền; hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy định của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tham nhũng; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội trong xây dựng Đảng và Nhà nước.
Cấp ủy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cần nêu gương trong việc rèn luyện về đạo đức lối sống, giữ gìn bản thân trong sạch, trong sáng; kiên quyết chống lại các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các hiện tượng tiêu cực, khắc phục hiện tượng nể nang, “dĩ hòa vi quý”. Đảng và Nhà nước cần có các biện pháp xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, bất kể là ai, bất kể ở cương vị nào. Chống suy thoái bên trong phải đi đôi với phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phê phán, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, chống đối nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta và chế độ XHCN ở nước ta. 
Thứ tư, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trọng tâm là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Lãnh đạo bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là một trong những phương thức cầm quyền chủ yếu của Đảng. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước mà phải có cơ chế phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước phải được triển khai toàn diện trên các mặt  lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với các cấp tương ứng của Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước  trong giai đoạn hiện nay phải trên cơ sở quán triệt những quan điểm: Đảng là người lãnh đạo, Nhà nước là người quản lý, nhân dân là người làm chủ; Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật, Đảng không đứng trên Nhà nước, trên pháp luật; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, đồng thời xây dựng một nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động chủ động, năng động, có hiệu lực, hiệu quả, và nhân dân được thực sự làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước phải đảm bảo theo những nguyên tắc: Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không điều hành xã hội thay Nhà nước; Nhà nước điều hành xã hội, nhưng không xa rời sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp chặt chẽ  đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với đổi mới phương thức hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà nước, đổi mới phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng  trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi chúng ta phải quan tâm xây dựng và thực hiện tốt Quy chế làm việc của các tổ chức Đảng, tiếp tục thể chế hóa trong hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra việc cụ thể hóa, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, nâng cao năng lực của cấp ủy các cấp; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong toàn xã hội.
Thứ năm, đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ trọng tâm là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp
Công tác tổ chức và cán bộ là hai nội dung trọng tâm trong nhiệm vụ đổi mới Đảng về tổ chức. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới Đảng về tổ chức  đòi hỏi phải tập trung lãnh đạo tiếp tục kiện toàn tổ chức của Đảng các cấp trọng tâm là tổ chức cơ sở Đảng, phân định rõ bộ máy tổ chức Đảng với tổ chức của Nhà nước cả về quy mô và chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; các quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đổi mới về tổ chức phải gắn kết chặt chẽ với đổi mới công tác cán bộ. Những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những nguyên nhân chủ yếu đã dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm của Đảng. Do vậy, Đảng phải quan tâm xây dựng một đội ngũ cán bộ có tầm trí tuệ, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, được bố trí, sử dụng đúng để  đường lối đổi mới của Đảng đi vào cuộc sống và không ngừng được bổ sung, phát triển. Đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt các cấp  phải vững vàng về tư tưởng chính trị, lành mạnh về đạo đức lối sống, đủ bản lĩnh trong kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế  thế giới... Đổi mới công tác cán bộ nhất là đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp ở nước ta hiện nay cần chú ý một số định hướng :
Đổi mới công tác cán bộ là trách nhiệm của toàn Đảng, các tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo các cấp. Đổi mới phải trên cơ sở phương châm dân chủ, công khai, minh bạch, có tầm chiến lược, tầm nhìn dài hạn trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Tránh quan liêu, cửa quyền trong việc lựa chọn, bố trí cán bộ; quan niệm đẳng cấp, chủ nghĩa cá nhân, đầu óc địa vị, tư lợi,  cục bộ, địa phương...
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm giai cấp  trong công tác cán bộ, phải đặc biệt quan tâm trẻ hóa đội ngũ cán bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận có tâm, có tầm, có tài cho Đảng, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển trong đội ngũ cán bộ; trọng dụng nhân tài cho sự phát triển đất nước. Cụ thể hóa những tiêu chuẩn đối với cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt, lãnh đạo quản lý các cấp trên cơ sở chức danh, cương vị công tác ( quan tâm những tiêu chuẩn hiện nay mới dừng lại ở định tính).
Tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy trình lựa chọn, đánh giá, đề bạt, điều động cán bộ, nâng cao chất lượng quản lý cán bộ. Thực hiện chủ trương của Đảng và Quốc hội khóa XIII ( kỳ họp thứ tư) về lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt đảm bảo thực chất.
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền đảm bảo cho Đảng không có sự cạnh tranh quyền lực. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với Đảng ta do nguy cơ sự tha hóa quyền lực mà biểu hiện cụ thể là sự độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng. Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao năng lực cầm quyền, Đảng phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả.
Trước hết, cần quan tâm đến việc tự kiểm soát  trong nội bộ Đảng. Phát huy vai trò, năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp đối với tổ chức đảng và đảng viên, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện mơ hồ, dao động, những việc làm không đúng quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình liên quan đến các khâu của công tác cán bộ, do đây là việc làm phức tạp, nhạy cảm, dễ sinh ra các hiện tượng tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, không đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, từ đó dẫn đến giảm sút năng lực lãnh đạo , cầm quyền của Đảng.
Bên cạnh đó, cần xây  dựng cơ chế và phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị-xã hội và quần chúng nhân dân trong giám sát và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, hoạt động của tổ chức Đảng, nhà nước và cán bộ, đảng viên nhất là đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải trở thành các lực lượng nòng cốt giám sát việc việc thực hiện chính sách của Đảng, phản biện đối với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên nền tảng đối thoại dân chủ. Đảm bảo những chủ trương, chính sách của Đảng trước khi thông qua phải có ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể; Kịp thời phản ánh, góp ý với Đảng những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống để Đảng và nhà nước kịp thời điều chỉnh các chính sách, chủ trương, điều chỉnh trong triển khai thực hiện. Quan tâm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ  Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.Khi tiếp nhận ý kiến còn có vấn đề khác nhau, Đảng cần tổ chức trao đổi, thảo luận với Mặt trận và các đoàn thể để đi tới thống nhất.
Cùng với tự kiểm soát của hệ thống chính trị, Đảng phải có cơ chế phát huy vai trò giám sát, phát hiện vấn đề của các tầng lớp nhân dân; Thực sự tôn trọng lắng nghe ý kiến từ nhân dân; tiếp tục hoàn thiện những quy định của Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Có cơ chế để thẩm tra, xác minh những ý kiến phản ánh của nhân dân để Đảng tự soi lại các chủ trương, chính sách. Tự do, dân chủ, công khai trong bầu cử để lôi cuốn đông đảo nhân dân thực sự tham gia vào đời sống chính trị và lựa chọn đúng ngườiđại diện cho mình. Những chính sách có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân như: xây dựng các công trình công cộng, giao thông, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, di dân và tái định cư … phải có tổ chức hoặc đại biểu của nhân dân giám sát quá trình ra chính sách, thực thi chính sách và kiểm tra đánh giá chính sách. Mở rộng thực hiện các loại hình dân chủ trực tiếp như: Trưng cầu ý dân; triển khai có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở. Nghiên cứu quy định về trưng cầu dân ý, lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân theo định kỳ đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt do dân bầu ra.
Đảng ta là đảng cầm quyền. Trải qua biết bao thử thách, nhân dân đã tin Đảng, trao cho Đảng vai trò dẫn dắt sự phát triển của đất nước, của dân tộc, bởi Đảng không có mục đích nào khác ngoài quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề luôn mới bởi những những điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.
  Lê Kim Anh
                Hội Liên Hiệp Phụ nữ TP Hà Nội
       
----------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.
2. Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Hoà ( đồng chủ biên) (2005), Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay, Nxb CTQG, H.
3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền –FES (2009), Chính trị và phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CT-HC, H.
4. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), Đảng Cộng sản cầm quyền, nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb CTQG, H.
5. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2008), Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới, Nxb CTQG, H.
6. Dương Xuân Ngọc (2005), Vận dụng tư tưởng của Lênin về Đảng cầm quyền vào công việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí lý luận chính trị, số 6
7. Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb CTQG, H.
8. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Nxb CTQG, H


[1]  Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.

[2] Lý Tuấn Vũ ( Trung Quốc) cho rằng: Năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc là bản lĩnh của Đảng đề ra và vận dụng lý luận, đường lối, phương châm, chính sách và sách luợc đúng đắn, lãnh đạo xây dựng và thực hiện hiến pháp và pháp luật, áp dụng chế độ lãnh đạo và phương thức lãnh đạo khoa học, động viên và tổ chức nhân dân quản lý công việc của nhà nước và xã hội, sự nghiệp kinh tế và văn hóa theo pháp luật, xây dựng đảng lãnh đạo đất nước và quân đội có hiệu quả, xây dựng đất nước hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa- Học viện Báo chí và Tuyên truyền –FES (2009), Chính trị và phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CT-HC, H, .tr 720
Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét