Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

Quan hệ Trung-Mỹ và “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương


Quan hệ Trung-Mỹ và “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương


Kể từ đầu thế kỷ 21, quan hệ Trung-Mỹ và quan hệ quốc tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương đều nảy sinh một số thay đổi có ý nghĩa quan trọng. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong quan hệ quốc tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã xuất hiện một mô hình lãnh đạo mới, đó là “cơ chế lãnh đạo kép”.

Trên lĩnh vực kinh tế, thương mại và tiền tệ quốc tế, Trung Quốc đã dần dần nâng cao địa vị của mình, và bắt đầu đóng vai trò lãnh đạo quan trọng, còn Mỹ bị rơi vào cảnh khó khăn về kinh tế bởi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Nhưng trên lĩnh vực quân sự, an ninh và chính trị, Mỹ vẫn giữ địa vị bá quyền của mình. Ảnh hưởng của Mỹ trên những mặt này vẫn đứng đầu và vượt xa so với tất cả các nước lớn khác bao gồm cả Trung Quốc. “Cơ chế lãnh đạo kép” đang hình thành này là một mô hình phát triển không đồng đều giữa Trung Quốc và Mỹ trong các lĩnh vực khác nhau, vừa phản ánh thành tựu phát triển nhanh chóng về kinh tế cũng như sự mở rộng về ảnh hưởng trong gần 30 năm qua của Trung Quốc, đồng thời cũng xác nhận lại địa vị lãnh đạo đã sớm được xác lập trong các công việc quốc tế của Mỹ từ khi Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc đến nay. Có thể nói, sự xuất hiện của “cơ chế lãnh đạo kép” trước tiên đã phản ánh xu thế mới nhất của việc Trung Quốc trỗi dậy, đặc biệt là những ảnh hưởng do sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, liên tục của Trung Quốc đưa tới. Trái lại, Mỹ bị suy thoái kinh tế do cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 gây ra, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, liên tục của Trung Quốc đang làm thay đổi ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việc Trung Quốc giúp khu vực châu Á-Thái Bình Dương thoát khỏi bóng đen của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, duy trì một cách thành công ổn định kinh tế khu vực, đây chính là ví dụ chứng minh Trung Quốc đang phát huy ảnh hưởng của mình. Bên cạnh đó, địa vị dẫn đầu của Mỹ trên các lĩnh vực quân sự, an ninh và chính trị, cũng khiến Mỹ có thể tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hiện tượng Trung Quốc và Mỹ đều tỏ rõ ưu thế của mình và phát huy vai trò lãnh đạo khác nhau, vừa có tác dụng kiềm chế và cân bằng lẫn nhau, vừa trở thành nền tảng cho sự ổn định khu vực. 
Một số nhà lý luận theo trường phái hiện thực có thể sẽ coi hiện tượng mới này là thể chế hai cực hoặc sự cân bằng quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ. Nhưng trên thực tế, khái niệm về “cơ chế lãnh đạo kép” này khác với thể chế hai cực, cơ chế lãnh đạo kép nhấn mạnh những ưu thế khác nhau mà hai nước lớn đã thể hiện trong tình hình nền tảng sức mạnh không đối xứng. Nói cách khác, Trung Quốc vẫn chưa đạt đến mức có thể thách thức một cách toàn diện địa vị lãnh đạo của Mỹ. Trung Quốc chỉ có thể tăng cường ảnh hưởng trên lĩnh vực kinh tế mà thôi. Mặc dù xu thế này cuối cùng sẽ tăng cường sức mạnh cứng của Trung Quốc trên lĩnh vực quân sự, an ninh và quyền phát ngôn trong lĩnh vực chính trị, nhưng quá trình chuyển dịch quyền lực này không thể thực hiện trong một sớm một chiều, mà kết quả của nó thường rất khó dự đoán. Nhìn bề ngoài, khái niệm “cơ chế lãnh đạo kép” này có những điểm chung với khái niệm “nhóm hai nước” (G2) và “cùng chia sẻ quyền lực”, nhưng từ lý luận và hiện thực cho thấy hai khái niệm này có sự khác biệt rất lớn. Với tư cách là nhà khởi xướng tích cực của khái niệm “nhóm hai nước”, Zbigniew Brzezinski cho rằng “ Trung Quốc và Mỹ đã hình thành mối quan hệ đối tác toàn diện trên phương diện toàn cầu”. Sự khác nhau giữa hai khái niệm này là khái niệm “cơ chế lãnh đạo kép” quan tâm đến cục diện mới xuất hiện ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, khái niệm này nhấn mạnh vai trò lãnh đạo khác nhau mà Mỹ và Trung Quốc đang phát huy trong các lĩnh vực khác nhau. Cụ thể là Mỹ và Trung Quốc đang lần lượt phát huy vai trò chủ đạo trong lĩnh vực an ninh quân sự và lĩnh vực kinh tế thương mại ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điều cần chỉ ra là cục diện mới hiện đang hình thành ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương về cơ bản vẫn chưa thể thay đổi được cục diện cơ bản của chính trị toàn cầu. Trên vũ đài thế giới, địa vị của Mỹ với tư cách là nước lớn siêu cường duy nhất vẫn không thay đổi, và trong giai đoạn hiện nay, Trung Quốc vẫn là một trong vài nước lớn có ảnh hưởng lớn chỉ sau Mỹ. 
Những biểu hiện khác nhau của Trung Quốc và Mỹ trên lĩnh vực kinh tế thương mại và an ninh quân sự, cũng được thể hiện trong nhận thức của công chúng. Gần đây, Trung tâm nghiên cứu Pew đã công bố kết quả điều tra về quan điểm của công chúng Mỹ đối với ảnh hưởng của các nước lớn trên toàn cầu. Năm 2008, 41% người Mỹ được hỏi cho rằng Mỹ chiếm địa vị chủ đạo trong nền kinh tế thế giới, ở thời điểm đó chỉ có 30% người được hỏi coi Trung Quốc là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế thế giới. Còn đến năm 2011, “gần một nửa (47%) người Mỹ được hỏi coi Trung Quốc là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế thế giới, và chỉ có 31% người Mỹ cho rằng Mỹ là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế thế giới”. Một cuộc điều tra tương tự của Gallup cũng đã phản ánh xu thế như vậy. Trong năm 2012, 53% dân chúng Mỹ được hỏi cho rằng Trung Quốc đang phát huy vai trò lãnh đạo trong các công việc kinh tế thế giới, chỉ có 33% người Mỹ cho rằng Mỹ phát huy vai trò lãnh đạo trong các công việc kinh tế thế giới, và 7% cho rằng là Nhật Bản. Nguồn gốc của những thay đổi trong nhận thức của công chúng là do Trung Quốc đã vượt qua một cách thành công cuộc khủng hoảng tài chính, còn Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu (EU) vẫn lún sâu vào khủng hoảng. Điều này cho thấy trong lĩnh vực kinh tế và thương mại, ngày càng nhiều người bắt đầu quan tâm đến tiếng nói của Trung Quốc. Bên cạnh đó, tầm quan trọng của Trung Quốc trong các tổ chức quốc tế (như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)) cũng ngày càng tăng lên. Ví dụ, tháng 3/2011, IMF thông qua một nghị quyết, quyết định gia tăng quyền bỏ phiếu của Trung Quốc, từ đó khiến cho Trung Quốc trở thành nước thành viên lớn thứ ba của tổ chức này. Đồng thời mức độ dựa vào thị trường tiền tệ và thương mại của TrungQu ốc của các thể kinh tế xung quanh TrungQu ốc không ngừng tăng lên cũng khiến cho xu thế này ngày càng được thể hiện rõ nét ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 
Sự xuất hiện của “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là một bước quan trọng của việc chuyển dịch quyền lực trong hệ thống quốc tế hiện nay. Lý luận chuyển dịch quyền lực cho rằng mức độ thỏa mãn của các nước lớn đang trỗi dậy đối với hệ thống quốc tế hiện nay sẽ quyết định việc quyền lực sẽ chuyển dịch hòa bình hay là đối kháng gay gắt giữa nước lớn đang trỗi dậy với nước đang giữ bá quyền; khi mối quan hệ giữa nước đang trỗi dậy với nước đang giữ bá quyền ở thời kỳ gần cân bằng và ngang nhau, thì dễ xảy ra xung đột nhất. Lịch sử cho thấy khi một nước đang trỗi dậy tạo nên mối đe dọa đối với nước bá quyền đang chiếm địa vị chủ đạo thì có thể nổ ra chiến tranh. Nhưng việc thông qua phương thức hòa bình để thực hiện sự chuyển dịch quyền lực giữa các nước lớn cũng từng có trong tiền lệ. Những năm gần đây, việc triển khai hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ đã tăng lên, nhưng đồng thời khả năng xảy ra xung đột tiềm tàng giữa hai nước cũng tăng lên. Sự xuất hiện của “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã tạo ra một mô hình mới để điều tiết quan hệ hai nước và thúc đẩy hợp tác song phương trong quá trình chuyển dịch quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ, đồng thời cũng tăng cường sự hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ với các nước chủ yếu khác trong khu vực (như Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và ASEAN), từ đó tạo điều kiện tất yếu để tránh xảy ra xung đột quân sự trên quy mô lớn. 

1. Thế nào gọi là vai trò chủ đạo 

Muốn xác định rõ việc một quốc gia có phát huy được vai trò chủ đạo trong các công việc quốc tế hay không, thông thường phải có 5 yếu tố cơ bản sau:
(1) Quốc gia này có ảnh hưởng và thực lực mang tính quyết định trong một hoặc nhiều lĩnh vực; (2) Quốc gia này phải có khả năng bố trí và cung cấp các hàng hóa công cộng trong thời kỳ hòa bình và khủng hoảng; (3) Quốc gia này phải phát huy được vai trò quyết sách trong việc chế định các quy tắc và biên soạn các chương trình nghị sự; (4) Quốc gia này phải chiếm địa vị chủ đạo trong các tổ chức quốc tế chủ yếu (như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng thế giới); (5) Quốc gia này phải ở tầm cao đạo đức. Địa vị lãnh đạo của một nước và nhận thức của bên ngoài đối với ảnh hưởng của nước đó có liên quan mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, thực lực của một nước có lẽ vẫn không đủ để thay đổi vị trí tương đối của mình trong hệ thống quốc tế, nhưng nhận thức của các nước khác đối với địa vị lãnh đạo của nước này lại có thể vượt quá khả năng toan tính của chính nước đó, trở thành một chỉ tiêu đánh giá vô cùng quan trọng. Vì các nước khác sẽ quan tâm một cách nghiêm túc hơn sự theo đuổi của nước này, đồng thời sẽ chuyển sự quan tâm này thành ảnh hưởng của nước đó trong các công việc quốc tế. Chẳng hạn như, mặc dù EU vẫn chưa xác định được việc Trung Quốc có khả năng trợ giúp cho cuộc khủng hoảng nợ châu Âu xuất hiện gần đây hay không, nhưng những nhận thức đối với thực lực kinh tế của Trung Quốc khiến cho EU có kỳ vọng rất lớn đối với việc Trung Quốc có thể trợ giúp Khu vực đồng euro, tái phục hồi kinh tế châu Âu. Từ góc độ này cho thấy địa vị lãnh đạo của “cơ chế lãnh đạo kép” là chỉ ảnh hưởng của một nước lớn mà các nước khác có thể cảm nhận được trên một lĩnh vực nào đó, nhưng điều này không có nghĩa là nước lớn này đã có địa vị lãnh đạo trên thực tế. 
Từ ý nghĩa này cho thấy chúng ta phải nhận thức một cách tỉnh táo rằng nếu dựa theo 5 yếu tố trên để đánh giá thì Trung Quốc còn chưa có địa vị lãnh đạo. Cũng có nghĩa là Trung Quốc vẫn còn chưa giành được địa vị ngang bằng với Mỹ. Điều cần phải nhấn mạnh là ảnh hưởng của Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế thương mại và tiền tệ đã tăng lên rất nhiều, những thành tựu mà Trung Quốc đã giành được trên lĩnh vực kinh tế bắt đầu được các nước xung quanh công nhận, bắt đầu phát huy vai trò lãnh đạo trên lĩnh vực này. Nhưng việc Trung Quốc muốn trở thành nước lãnh đạo toàn diện của khu vực châu Á-Thái Bình Dương hoặc trên toàn cầu, thì vẫn còn phải đi một chặng đường rất dài. Hiện nay, vẫn không thể dự đoán đến khi nào Trung Quốc có thể đạt đến giai đoạn này, vì còn có rất nhiều nhân tố khó lường ảnh hưởng đến sự phát triển của Trung Quốc. Cho nên, bài viết này không định dựa theo 5 yếu tố nêu trên để phân tích địa vị của Trung Quốc hiện nay như thế nào, mà đặt trọng điểm cần trình bày vào những thay đổi về phân bố quyền lực trên lĩnh vực kinh tế và quân sự chính trị theo nghĩa rộng, từ đó thể hiện rõ những động thái mới nhất của sự chuyển dịch quyền lực đang xảy ra hiện nay. Điều cần phải chỉ ra là khái niệm “cơ chế lãnh đạo kép” đã phản ánh xu thế phát triển đang nổi lên ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và nhận thức của các nước liên quan, chứ không đưa ra dự báo đối với tương lai. Cho dù trên lĩnh vực kinh tế, thực lực kinh tế của Trung Quốc thực chất cũng còn kém xa so với Mỹ; hơn nữa sự phát triển của Trung Quốc còn tồn tại một số khiếm khuyết, điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng bền vững của kinh tế Trung Quốc. Cho nên, khái niệm “cơ chế lãnh đạo kép” tập trung nhắc nhở mọi người quan tâm đến các xu thế phát triển khác nhau xuất hiện trong các lĩnh vực kinh tế và an ninh quân sự hiện nay, từ đó có sự chuẩn bị trước cho những thay đổi có thể nảy sinh trong tương lai. Những điều mà dưới đây muốn phân tích chính là thế mạnh và thế yếu của Trung Quốc và Mỹ trong các lĩnh vực khác nhau. 
Trong “cơ chế lãnh đạo kép”, sự điều tiết và hợp tác giữa hai nước lớn đứng đầu là nhân tố then chốt quyết định liệu cơ chế này có thể thành công hay không? Một số học giả quan hệ quốc tế cũng tiến hành nghiên cứu về điều này. Theo quan điểm của Robert Keohane, “Hợp tác... đòi hỏi hành vi của cá nhân hoặc tổ chức của bên này, thông qua phương thức điều tiết chính sách để đạt được sự nhất trí với bên kia”; “điều này cho thấy khi đang ở trong trạng thái hợp tác, bên này sẽ dựa theo các hành vi có thể đưa ra của bên kia để điều chỉnh tương ứng các hành vi của mình... điều mà hợp tác thực sự đem đến cho hai bên phải là cục diện hai bên cùng thắng lợi”. Robert Keohane nêu rõ hợp tác hoặc nói là hai nước lớn cùng nỗ lực để đạt được một cục diện cùng thắng lợi, không nên lẫn lộn với khái niệm hài hòa. “Hài hòa là chính sách của bên này (theo đuổi lợi ích bản thân) đã thúc đẩy một cách tự nhiên việc đạt được mục tiêu chính sách của bên kia... khi hai nước này ở trạng thái hài hòa, hợp tác là không cần thiết”. Trong quan hệ Trung-Mỹ, hợp tác là cần thiết, và việc hai bên có thể hợp tác được hay không là nhân tố mang tính quyết định đối với việc chuyển dịch quyền lực liệu có thể được thực hiện một cách hòa bình hay không? Trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, giữa các nước lớn tư bản chủ nghĩa đã xây dựng sự hợp tác với hình thức thể cộng đồng an ninh, tình hình này cho thấy hợp tác có thể trở thành mô hình trong quan hệ song phương hoặc đa phương giữa các nước lớn. Đúng như William Olson từng nói “đặc điểm chủ yếu của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh là (sự trưởng thành của) thể cộng đồng an ninh giữa các nước lớn tư bản chủ nghĩa, điều này cho thấy rất nhiều nước không muốn hoặc không chuẩn bị sử dụng vũ lực trong khi xử lý các mối quan hệ”. Thể cộng đồng an ninh có nghĩa là sử dụng biện pháp mang tính quy phạm trong nội bộ cộng đồng để tránh xảy ra xung đột. Còn quan hệ đồng minh hoặc các tổ chức mang tính phòng ngự khác được hình thành do xuất phát từ sự cảm nhận chung về các mối đe dọa bên ngoài của các nước, chứ không lấy việc giảm thiểu xung đột vũ trang làm ý nguyện ban đầu. Cùng với việc kinh tế tăng trưởng liên tục, quyền phát ngôn của Trung Quốc trong đàm phán quốc tế cũng đang tăng lên, điều này có nghĩa là khi đàm phán với Mỹ, Trung Quốc có thể có tư thế bình đẳng hơn để mặc cả với Mỹ, điều này cũng làm tăng khả năng thỏa hiệp và hiểu biết giữa hai bên.
Dưới “cơ chế lãnh đạo kép”, việc Trung Quốc và Mỹ tiếp tục triển khai trao đổi, có thể đem đến một diễn đàn mang tính quy phạm cho việc xây dựng thể cộng đồng an ninh có hiệu quả hơn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương do Trung Quốc và Mỹ làm hạt nhân. Trong “cơ chế lãnh đạo kép” đang hình thành này, xu thế hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ là điều tất yếu. James Dougherty và Robert Pfaltzgraff cho rằng: “Hợp tác giữa các nước có thể thực hiện giữa một bên tương đối mạnh với một bên tương đối yếu”. Từ quan điểm này cho thấy mặc dù giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn còn sự chênh lệch về sức mạnh quốc gia, nhưng cùng sự chênh lệch giữa hai nước ngày càng thu hẹp, hợp tác giữa hai nước sẽ càng trở nên quan trọng. Bên cạnh việc nghiên cứu khái niệm “nước lãnh đạo”, chúng ta cần bàn một chút về khái niệm “nước bị lãnh đạo”, cho dù nước bị lãnh đạo miễn cưỡng lựa chọn hay là bị ép buộc theo nước lãnh đạo. Trong trật tự quốc tế, địa vị của nước lãnh đạo vừa không phải tự phong, vừa không phải bầu ra, mà là được hình thành một cách tự nhiên. Cũng có nghĩa là nước lớn luôn có nước bám theo mình. Vì vậy, mỗi nước lớn đều có cơ hội phát huy vai trò lãnh đạo trên một số lĩnh vực nào đó. “Cơ chế lãnh đạo kép” khác với “trò chơi được mất ngang nhau” trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cơ chế này thể hiện sự thỏa hiệp và điều tiết không ngừng giữa hai nước lớn, đồng thời trong một số trường hợp cùng đóng vai trò nước lãnh đạo. Vì vậy, “cơ chế lãnh đạo kép” là cơ chế vừa có sự hợp tác vừa giúp cho việc giải quyết tranh chấp, cơ chế này phản ánh những cố gắng của hai nước lớn lần lượt phát huy vai trò lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế và quân sự chính trị để hy vọng thực hiện việc hai bên cùng thắng lợi, tránh xuất hiện “trò chơi được mất ngang nhau”. 
2. Vai trò lãnh đạo của Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế, thương mại và tiền tệ 
Tình hình kinh tế là một chỉ tiêu quan trọng có thể phản ánh một cách nhanh nhất cục diện thế giới đang thay đổi. Trong mấy chục năm qua, trung tâm kinh tế thế giới dần dần chuyển từ khu vực Đại Tây Dương sang khu vực Thái Bình Dương. Với tư cách là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Đông Á, kinh tế Trung Quốc học tập mô hình phát triển của Nhật Bản từ những năm 1950 đến năm 1980 và đã giành được sự tăng trưởng chưa từng có trong lịch sử. Năm 2010, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Mặc dù riêng chỉ tiêu GDP không đủ để phản ánh thực lực kinh tế của một quốc gia, nhưng những ảnh hưởng của sự thay đổi này đối với công việc quốc tế là rất sâu sắc. Cho dù triển vọng phát triển của kinh tế Trung Quốc luôn bị tuyên truyền méo mó, nhưng trên thực tế nó vẫn duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ. Có dự đoán cho rằng trong tương lai không xa, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Không ít công chúng Mỹ cũng nhận định như vậy. Nhưng giới chính trị và kinh doanh trong và ngoài nước vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, mỗi người có một cách nhìn nhận riêng đối với việc Trung Quốc có thể hoặc khi nào vượt Mỹ một cách toàn diện. Đương nhiên, chúng ta cũng có thể nhận thấy cho dù trên lĩnh vực kinh tế, thì thực lực giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn có sự chênh lệch rất lớn. GDP của Trung Quốc không bằng 40% của Mỹ, còn thu nhập bình quân đầu người bằng 1/ 13 của Mỹ (theo số liệu năm 2009). Ngoài ra, không ai có thể phủ nhận Trung Quốc còn đang đứng trước một loạt vấn đề trong nước nghiêm trọng, bao gồm bong bóng kinh tế tiềm tàng, ô nhiễm môi trường, sự bất mãn xã hội và tình trạng tham nhũng.... Những điều này đều có thể trở thành nhân tố làm giảm, thậm chí cản trở sự phát triển kinh tế của Trung Quốc trong tương lai. Đồng thời, ảnh hưởng của Trung Quốc trong các tổ chức quốc tế bao gồm cả Ngân hàng thế giới cũng kém xa Mỹ. Một khi đã như vậy, tại sao còn nói Trung Quốc đóng vai trò lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương? Trước tiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cao hơn Mỹ nhiều. Trong gần 30 năm, tức là từ năm 1980 đến năm 2009, tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Mỹ là 2,7%, còn Trung Quốc duy trì ở mức 10%. Mặc dù trong vài năm tới, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đứng trước một loạt thách thức, nhưng theo đánh giá của một chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu kinh tế quốc tế Peterson, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của kinh tế Trung Quốc vẫn sẽ giữ ở mức khoảng 7%. Điều này có nghĩa là đến năm 2030, GDP của Trung Quốc sẽ chiếm 20% GDP toàn thế giới, còn GDP của Mỹ giảm xuống và chiếm không đến 15%. 
Thứ hai, sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đủ để cung cấp các hàng hóa cộng cộng quan trọng cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương thậm chí toàn thế giới. Trung Quốc đã đóng vai trò đầu tàu trong quá trình khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, thúc đẩy kinh tế thế giới phục hồi. Trên mức độ rất lớn, sự tăng trưởng và phục hồi của kinh tế thế giới phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế và đầu tư của Trung Quốc. Trong 10 năm đầu thế kỷ 21, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chiếm đến 22% tăng trưởng kinh tế thế giới, trong khi đó Mỹ chỉ chiếm 17%. Năm 2011, những đóng góp của người tiêu dùng Trung Quốc đối với tăng trưởng kinh tế thế giới lần đầu tiên vượt Mỹ. Tháng 11/2011, hai bản báo cáo điều tra của công ty tư vấn hàng đầu thế giới McKinsey và Steamboat cho thấy ngày càng nhiều người tiêu dùng Trung Quốc bắt đầu thích hàng hóa nước ngoài, bao gồm thực phẩm và các mặt hàng nhập khẩu khác. Việc người tiêu dùng Trung Quốc tạo ra nhiều nhu cầu hơn cho thị trường khu vực và toàn cầu, đang ngày càng trở thành nguồn gốc của sự phồn vinh và ổn định. Từ đó có thể thấy cho dù là trên lĩnh vực sản xuất, đầu tư hay tiêu dùng, Trung Quốc đều trở thành một trong những động lực chủ yếu nhất của tăng trưởng kinh tế thế giới. Trung Quốc còn là nước chủ nợ lớn nhất trên thế giới, giữ 20,8% trái phiếu chính phủ Mỹ. Do nắm giữ lượng lớn trái phiếu chính phủ Mỹ, nên kinh tế Trung Quốc đã liên kết cao độ với kinh tế Mỹ, điều này cũng khiến cho Trung Quốc và Mỹ có sự nhạy cảm khác thường đối với những thay đổi về kinh tế chính trị của đối phương. Ví dụ như, mùa Hè năm 2011, do cục diện chính trị đảng phái bế tắc nghiêm trọng, Chính phủ Mỹ từng có lúc đứng trước cục diện không có cách nào nâng cao giới hạn mức trần nợ công của mình, điều này có nghĩa là Mỹ không có khả năng hoàn trả các món nợ. Tuy cuối cùng Chính phủ Mỹ đã nâng mức trần nợ công và tránh được khủng hoảng, nhưng sự kiện này cho thấy sự yếu kém của kinh tế Mỹ bao gồm cả vấn đề trái phiếu chính phủ, còn Trung Quốc đang là nước đầu tư chủ yếu của những trái phiếu này. Nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) nêu rõ nếu chưa trả hết nợ, thì lòng tin của người tiêu dùng trong nước Mỹ sẽ nảy sinh dao động, từ đó hạ thấp hơn nữa nhu cầu của họ đối với các hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, đồng thời tăng áp lực về sự không gắn kết giữa đồng nhân dân tệ với đồng USD, và điều này lại ảnh hưởng đến lòng tin của Trung Quốc đối với việc Chính phủ Mỹ thực hiện những cam kết trong tương lai. 
Sau khi hãng Standard & Poor’s hạ thấp xếp hạng tín dụng dài hạn Mỹ, một biểu hiện khác mang tính yếu kém tiềm tàng của kinh tế Mỹ cũng bắt đầu bộc lộ. Tháng 8/2011, Standard & Poor’s lần đầu tiên điều tra đánh giá xếp hạng tín dụng dài hạn của Mỹ, hạ từ mức AAA xuống AA+, điều này rất có thể ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư đối với trái phiếu chính phủ Mỹ. Vào hôm thứ hai sau khi Standard & Poor’s hạ thấp xếp hạng tín dụng dài hạn Mỹ, chỉ số bình quân công nghiệp Down Jones giảm 5,6 %, đây là lần giảm mạnh nhất từ cao trào cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đến nay. Sự kiện này càng khiến cho các nhà đầu tư và học giả kinh tế thêm lo ngại. Không ít người lo ngại kinh tế Mỹ đang đi vào cuộc suy thoái kép. Nếu kinh tế Mỹ trì trệ, thì từ góc độ chính trị cho thấy Chính phủ Mỹ sẽ khó có thể ban hành kế hoạch kích thích kinh tế lần thứ hai hoặc áp dụng các biện pháp khác để phục hồi kinh tế. Cuộc khủng hoảng về mức trần nợ công của Mỹ cho thấy bất kỳ biện pháp nào làm tăng nợ công của Mỹ như kế hoạch kích thích kinh tế của Mỹ, đều khó có thể nhận được sự ủng hộ của hai đảng trong Quốc hội. Mặc dù việc đánh giá những ảnh hưởng do sự kiện này gây ra vẫn còn là quá sớm, nhưng cuộc khủng hoảng này và tình trạng tương tự xuất hiện trong tương lai, đều có thể khiến cho Trung Quốc phân tán sự đầu tư của mình. Trong tương lai có thể dự đoán, cho dù kinh tế Mỹ tiếp tục xấu đi hay là phục hồi, nhưng có một điểm có thể khẳng định đó là quyền phát ngôn của Trung Quốc trong các công việc kinh tế quốc tế sẽ phát triển theo hướng không ngừng tăng lên. 
Trên lĩnh vực tiền tệ, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đứng đầu thế giới, nhiều hơn so với dự trữ của Nhật Bản đứng thứ hai và ASEAN đứng thứ ba cộng lại. Không chỉ có vậy, việc buôn bán với Trung Quốc đều chiếm vị trí hàng đầu trong ngoại thương của nhiều thể kinh tế châu Á-Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, ASEAN và Ôxtrâylia…, còn chiếm vị trí hàng đầu trong ngoại thương với Mỹ chỉ có hai nước láng giềng là Canađa và Mêhicô. Các nước ở Đông Á, Châu Đại Dương và Nam Á đang ngày càng phụ thuộc vào mối quan hệ mậu dịch với Trung Quốc, Trung Quốc cũng đang trở thành đối tác thương mại rất quan trọng của các nước trên thế giới. Trung Quốc vẫn giữ vị trí thứ hai về tổng mức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ sau Mỹ. Rất nhiều công ty Mỹ, chẳng hạn như công ty Wal-Mart (WMT) đều liên tiếp đầu tư vốn vào thị trường Trung Quốc. Tính đến tháng 5/2011, Wal-Mart có tới 90.000 nhân viên làm thuê tại Trung Quốc, doanh số bán hàng hàng năm đạt 7 tỷ USD. Ngoài ra, kim ngạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc cũng đang tăng lên không ngừng, đặc biệt là việc đầu tư vào các nước đang phát triển. Mặc dù vẫn kém xa so với nước đứng đầu là Mỹ, nhưng kim ngạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc đang tăng lên nhanh chóng, nếu gộp cả những đóng góp đầu tư của Hồng Công, xu thế này càng rõ rệt hơn. Trung Quốc đã trở thành nước đầu tư vào châu Phi chủ yếu, đặc biệt là cơ sở hạ tầng và một số dự án phát triển khác. Tờ “ Financial Times ” của Anh ngày 17/1/2011 đưa tin: “Trong năm 2009 và năm 2010, Ngân hàng phát triển Trung Quốc và Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc đã phê chuẩn khoản vay ít nhất là 110 tỷ USD dành cho các doanh nghiệp và Chính phủ các nước đang phát triển. Từ giữa năm 2008 đến năm 2010, để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính, Ngân hàng thế giới đã cho vay 100,3 tỷ USD, đây là lần cho vay lớn nhất trong nhiều năm qua”. 
Trung Quốc cũng lợi dụng thực lực kinh tế của mình, thông qua việc ký các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực để lãnh đạo và thúc đẩy việc xây dựng trật tự kinh tế khu vực. Đúng như Viện trưởng Viện khoa học xã hội Trung Quốc Trương U ẩn Lãnh từng nêu rõ hiệp định thương mại tự do “có thể thúc đẩy một cách có hiệu quả sự quản lý giữa các thể kinh tế và trong hệ thống khu vực”. Trung Quốc đã ký một loạt hiệp định thương mại tự do mang tính song phương và khu vực với các nước xung quanh và khu vực, trong đó bao gồm Khu thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN được thành lập năm 2010, “Thỏa thuận giữa Trung Quốc Đại Lục và Hồng Công về việc xây dựng quan hệ kinh tế thương mại chặt chẽ hơn” có hiệu lực năm 2003, “Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc-Pakixtan” có hiệu lực năm 2007, “Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc-Niu Dilân” có hiệu lực năm 2008, cũng như “Hiệp định khung hợp tác kinh tế hai bờ eo biển Đài Loan” có hiệu lực đầu năm 2010…. Tóm lại, do các nước châu Á khác vừa cần có sự đầu tư của Trung Quốc, vừa cần có đối tác hợp tác quan trọng là Trung Quốc, điều này sẽ khiến cho Trung Quốc có ảnh hưởng khu vực rõ rệt. Thông qua việc trở thành đối tác thương mại của nước khác, nắm giữ lượng lớn ngoại hối bao gồm trái phiếu Mỹ, cũng như kim ngạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ngày càng tăng, đã khiến Trung Quốc đang thu hẹp khoảng cách về kinh tế với Mỹ. 
Bài viết không xem nhẹ những thách thức mà kinh tế Trung Quốc đang phải đối diện, trong đó bao gồm tham nhũng, ô nhiêm môi trường, sự phát triển không đồng đều giữa ven biển và nội địa, sáng tạo khoa học kỹ thuật chưa mạnh.... Nhưng chúng ta cũng không thể vì thế mà phủ định những thành tựu to lớn mà kinh tế Trung Quốc đã giành được trong gần 30 năm qua, đặc biệt là ngành chế tạo đã giành được danh hiệu “công xưởng của thế giới” cho Trung Quốc. Mô hình này khiến cho sự theo đuổi về kinh tế của Trung Quốc đang ngày càng được sự quan tâm của các nước trong khu vực. Mặc dù thực lực kinh tế hiện nay vẫn kém xa Mỹ, nhưng vai trò lãnh đạo của Trung Quốc trên vực kinh tế đã được các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương thừa nhận. 
3. Địa vị lãnh đạo của Mỹ trên lĩnh vực quân sự, an ninh và chính trị 
Về quân sự, an ninh và chính trị, chắc chắn Mỹ vẫn giữ ưu thế tuyệt đối, chi phí quân sự năm 2010 của Mỹ lên tới 698 tỷ USD, chiếm 43% chi phí của toàn thế giới. Còn Trung Quốc mặc dù được cho là nước có chi phí quân sự cao thứ hai, chi phí quân sự năm 2010 của Trung Quốc là 119 tỷ USD, cũng chỉ chiếm 7,3% chi phí của toàn thế giới. Mấy chục năm qua, chi phí quân sự của Mỹ luôn giữ ở mức khoảng 4% GDP, còn Trung Quốc chỉ 2%. Về căn bản, điều này khiến cho Trung Quốc trong tương lai có thể dự kiến, rất khó thu hẹp khoảng cách về quân sự với Mỹ. Bên cạnh đó, Mỹ cũng là nước buôn bán vũ khí lớn nhất thế giới. Điều quan trọng hơn nữa là, phần lớn các tổ chức và cơ cấu quân sự quốc tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương đều nằm trong sự kiểm soát của Mỹ. Ngoài đồng minh Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ còn duy trì quan hệ đối tác quân sự lâu dài với các đồng minh như Philíppin, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Thái Lan, Ấn Độ, Pakixtan, Xinhgapo và Đài Loan. Ngoài ra, Mỹ cũng phát triển quan hệ an ninh gắn bó với các nước khác ở châu Á-Thái Bình Dương, chẳng hạn như Việt Nam... Quan hệ quân sự vững chắc nhất của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương là đồng minh quân sự giữa Mỹ với Nhật Bản và Hàn Quốc. Bắt đầu từ những năm 1970, Mỹ thường xuyên tham gia tập trận quân sự chung với Hàn Quốc, bao gồm tập trận “Ulchi Focus Lens” mỗi năm một lần lấy Bắc Triều Tiên làm kẻ địch giả tưởng. “Hành động tinh thần đồng đội” là cuộc tập trận quân sự mang tính giai đoạn được tiến hành từ năm 1976 đến năm 1997, và năm 2010 Mỹ và Hàn Quốc cùng tổ chức 4 cuộc tập trận hỗn hợp khác như tập trận “Tinh thần bất khả chiến bại”, tập trận răn đe trên biển đối với Bắc Triều Tiên, tập trận chống tàu ngầm và tập trận răn đe chiến tranh kéo dài là 11 ngày, sau vụ pháo kích ở đảo Yeonpyeong hai nước còn bố trí huấn luyện quân sự. Mỗi năm Mỹ tiến hành hơn 100 cuộc tập trận chung với Nhật Bản, ngoài ra Mỹ còn chỉ huy cuộc tập trận trên biển “Hòa bình -09” ( Trung Quốc cũng tham gia cuộc tập trận này) và một loạt các cuộc tập trận quân sự sau vụ pháo kích ở đảo Yeonpyeong. 
Trên lĩnh vực này, Trung Quốc trong tay chỉ có con bài “Tổ chức hợp tác Thượng Hải” (SCO). Tổ chức này do Trung Quốc và Nga cùng phát huy vai trò lãnh đạo. Ngoài ra còn có quan hệ đồng minh Trung Quốc-Bắc Triều Tiên và “quan hệ đối tác toàn diện” giữa Trung Quốc và Pakixtan. Diễn đàn quốc tế duy nhất mà Trung Quốc và Mỹ cùng phát huy vai trò lãnh đạo ở khu vực Đông Bắc Á chính là Đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên. Tuy thực lực quân sự của Mỹ vẫn ở địa vị lãnh đạo toàn cầu, nhưng ngân sách và chi phí quốc phòng của Trung Quốc trong mấy chục năm qua cũng tăng lên rõ rệt. Từ năm 1978-1987, chi phí quân sự bình quân hàng năm của Trung Quốc tăng 3,5%; từ năm 1988-1997 tăng 14,5%; từ năm 1998-2007 tăng 15,9%. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nước có chi phí quân sự lớn thứ hai thế giới. Từ đó có thể thấy sức mạnh quân sự của Trung Quốc đang được tăng cường một cách nhanh chóng, ngân sách quân sự đang tăng lên không ngừng. Tóm lại, về an ninh quân sự, Mỹ không những chiếm địa vị lãnh đạo tuyệt đối về thực lực và trang thiết bị quân sự, mà tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương này số lượng các nước hợp tác và đi theo Mỹ cũng đều nhiều hơn so với Trung Quốc. Với những phân tích nêu ở trên, mặc dù có học giả đánh giá kinh tế Trung Quốc có thể sẽ vượt Mỹ vào năm 2030, nhưng trong một thời gian ngắn, Trung Quốc lại khó có thể làm lung lay địa vị lãnh đạo của Mỹ trên lĩnh vực quân sự, an ninh. 
Về ảnh hưởng chính trị, chênh lệch giữa Trung Quốc và Mỹ cũng rất rõ rệt. Điều này không chỉ vì Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất trong các công việc quốc tế, mà còn vì Oasinhtơn rất coi trọng sức mạnh mềm và sức mạnh thông minh. Trong ngoại giao sức mạnh mềm, Mỹ đặc biệt chú ý vận dụng bốn điểm sau: bất kỳ lúc nào cũng có thể điều chỉnh chính sách ngoại giao để chiếm vị trí cao về đạo đức; tăng cường và định hướng dư luận công chúng; nâng cao sự tin cậy quốc tế để duy trì quan hệ đồng minh; thường xuyên tranh luận công khai về nội chính và ngoại giao khiến cho việc chế định các chính sách ngoại giao của Mỹ có khả năng tự điều chỉnh rất mạnh, từ đó tránh được việc xuất hiện thảm họa ngoại giao. Mặc dù chủ nghĩa chống Mỹ vẫn là một hiện tượng luôn nhận được sự quan tâm của mọi người trên khắp thế giới, nhưng về tổng thể, sức mạnh mềm và ảnh hưởng chính trị của Mỹ vẫn vượt xa Trung Quốc. Về ảnh hưởng dư luận, nhận thức của công chúng và khả năng lãnh đạo chính trị của Mỹ cũng lớn hơn Trung Quốc. Khi giải thích về chính sách chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á của Mỹ trong thời gian gần đây, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton từng nêu rõ: “Mỹ là quốc gia duy nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương có đồng minh rộng khắp, không có tham vọng lãnh thổ và có thể cung cấp hàng hóa công cộng cho các nước trong khu vực”. Mặc dù Trung Quốc luôn nhắc lại mong muốn phát triển hòa bình và theo đuổi một thế giới hài hòa, nhưng phương Tây và các nước xung quanh Trung Quốc vẫn hoài nghi đối với ý đồ của Trung Quốc. Sự trỗi dậy của Trung Quốc thường bị coi là mối đe dọa đối với các nước láng giềng châu Á và trật tự chính trị toàn cầu. Vì vậy, sức mạnh mềm đã trở thành một điểm yếu trong chính sách ngoại giao Trung Quốc, và đe dọa đến lợi ích cốt lõi của nước này. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã nhận được sự quan tâm rộng khắp trên phạm vi thế giới. Một số chuyên gia dự đoán, Trung Quốc sẽ xảy ra xung đột với các nước lớn chủ yếu khác (chẳng hạn như Mỹ). Trung Quốc có trỗi dậy một cách hòa bình hay không là liên quan trực tiếp tới ảnh hưởng cũng như uy tín của Trung Quốc trên phạm vi khu vực Đông Á và thế giới. Biện pháp nâng cao sức mạnh mềm của Trung Quốc bao gồm cử nhân viên y tế và giáo viên ra nước ngoài phục vụ, tiếp nhận lưu học sinh đến Trung Quốc, cũng như xây dựng Học viện Khổng Tử ở nước ngoài và mở các chương trình đào tạo ngôn ngữ... Tuy nhiên, vai trò mà sức mạnh mềm của Trung Quốc có thể phát huy vẫn còn hạn chế. 
4. Hàm nghĩa của “cơ chế lãnh đạo kép” 
Sự xuất hiện của “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đã phản ánh một quá trình phát triển tự nhiên. Điều này không chỉ đã thể hiện hiện trạng và lợi ích quốc gia cốt lõi của Trung Quốc và Mỹ, mà còn cho thấy trách nhiệm nước lớn mà Trung Quốc và Mỹ phải gánh vác trong hệ thống này. Hướng đi của cơ chế mới này trong tương lai được quyết định bởi việc cơ chế này có phù hợp với lợi ích của Trung Quốc và Mỹ cũng như các bên tham gia khác (như Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và ASEAN) hay không. Vì vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa các thực thể nêu trên là điều tất yếu. Từ hàm nghĩa của “cơ chế lãnh đạo kép” cho thấy cơ chế này đã tỏ rõ thế mạnh và thế yếu của cả Trung Quốc và Mỹ. Trên cơ sở hiện trạng này, Trung Quốc và Mỹ cần phải không ngừng thích ứng với đối phương và ủng hộ lẫn nhau. Hai bên đều phải có sự thỏa hiệp trong lĩnh vực mà mình tương đối yếu thế, đồng thời phải nhìn về tương lai và đồng ý đảm nhận vai trò của nước lãnh đạo trong lĩnh vực mà mình có thế mạnh. Thông thường chính trị không thể độc lập tồn tại nếu xa rời kinh tế, vì vậy phải phối hợp tốt hơn nữa quan hệ giữa kinh tế với chính trị. Nguyên tắc 3C (coordination, cooperation and compromise), tức là phối hợp, hợp tác và thỏa hiệp rất quan trọng trong quan hệ Trung-Mỹ, “hai nước cần phải tìm một phương thức phù hợp để thực hiện cùng tồn tại theo kiểu “bên tương quan lợi ích”, chẳng hạn như hai bên có nhận thức chung về lợi ích cốt lõi của nhau”. Mọi người có thể sẽ lấy nguyên tắc 3C tích cực này so sánh với một nguyên tắc 3C tiêu cực (competition, conflict and confrontation) là cạnh tranh, xung đột và đối kháng, nguyên tắc 3C tích cực là nguyên tắc mà việc xây dựng một “cơ chế lãnh đạo kép” hòa bình cần có, còn nguyên tắc 3C tiêu cực sẽ khiến cho cơ chế lãnh đạo chia rẽ. Tuy nhiên, xem xét đến việc Trung Quốc và Mỹ có lợi ích chung rộng khắp ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, “cơ chế lãnh đạo kép” này ngày càng có khả năng phát triển trên cơ sở của nguyên tắc 3C tích cực, từ đó đưa đến sự ổn định cho khu vực Đông Á. 
Đúng như đầu bài viết đã nhắc đến, dựa theo lý luận chuyển dịch quyền lực, khi nước giữ bá quyền với nước trỗi dậy ở thời kỳ cân bằng là thời kỳ nguy hiểm nhất có thể dẫn đến đối kháng giữa hai bên. Trên thực tế, đúng như Nick Bisley từng nói “Những sự việc đã xảy ra trong năm 2009-2010 đánh dấu trong một thời gian dài sau này, Trung Quốc và Mỹ sẽ xảy ra xung đột và mâu thuẫn trong các vấn đề như: lợi ích đan xen lẫn nhau, thực lực quân sự tăng lên không ngừng, cũng như các nước trong khu vực lấy thủ đoạn quân sự để quán triệt chính sách chiến lược… Nhưng bên cạnh đó, Trung Quốc và Mỹ lại cùng chia sẻ rất nhiều lợi ích, những điều này đều có thể trở thành nền tảng của trật tự mới trong khu vực”. Từ điểm này cho thấy nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay của Oasinhtơn và Bắc Kinh là tăng cường hơn nữa sự giao lưu và phối hợp giữa hai nước. Nghiên cứu các quan điểm khác nhau trong quan hệ Trung-Mỹ có thể giúp chúng ta kiểm chứng sự trỗi dậy của Trung Quốc tạo nên “trò chơi được mất ngang nhau” hay là cục diện hai bên cùng thắng lợi. Theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa hiện thực mang tính tấn công, thì môi trường chiến lược mà Trung Quốc và Mỹ đang đối diện là “trò chơi được mất ngang nhau”, việc hai nước chia sẻ quyền lực là điều không thể thực hiện, đặc biệt là về quân sự, sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa đến địa vị của Mỹ trên lĩnh vực này. John Mearsheimer khẳng định: “Thời kỳ đầu của thế kỷ 21, cục diện nguy hiểm nhất mà Mỹ có thể phải đối diện là Trung Quốc trở thành nước bá quyền tiềm tàng ở khu vực Đông Bắc Á. Trước tình hình thực lực Trung Quốc tăng lên không ngừng, Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ trở thành đối thủ của nhau”. 
Quả thật Trung Quốc và Mỹ đang tồn tại một số bất đồng quan trọng, những bất đồng này còn có thể gây nên xung đột thậm chí đối kháng quân sự, trong đó bao gồm việc Mỹ bán vũ khí quân sự cho Đài Loan, vấn đề Biển Đông... Bất đồng giữa Trung Quốc và Mỹ trong rất nhiều vấn đề như Biển Đông, nhân quyền…sẽ khiến cho mọi người hoài nghi về việc liệu hai nước có thể duy trì mối quan hệ hòa bình lâu dài hay không. Tranh chấp, tranh luận và xung đột rất có thể trở thành trạng thái thường xuyên, nhưng điều này không nhất thiết phải mâu thuẫn với xu thế hợp tác trên phạm vi rộng hơn. Ngay cả giữa các đồng minh với nhau, cũng không thể đạt được ý kiến đồng nhất trong tất cả các vấn đề, tranh luận gay gắt là điều không hiếm thấy. Bài viết này không có ý định chứng minh về khả năng xung đột trong tương lai giữa Trung Quốc và Mỹ không còn tồn tại. Trái lại, điều mà bài viết muốn đưa ra là trong khuôn khổ của “cơ chế lãnh đạo kép”, việc hợp tác và cùng quản lý các vấn đề khó giải quyết sẽ trở nên dễ dàng hơn. Toàn cầu hóa và việc dựa vào nhau đã làm tăng thêm hy vọng cho việc Trung Quốc và Mỹ thực hiện cục diện hai bên cùng thắng lợi, điều này đã hình thành sự tương phản rõ rệt so với cuộc cạnh tranh đối kháng gay gắt giữa Mỹ và Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Điều trước tiên và cũng là quan trọng nhất là giữa Mỹ và Liên Xô không hình thành sự dựa vào nhau về kinh tế, còn Trung Quốc hiện nay cần có đầu tư trực tiếp và tiêu dùng của Mỹ để thúc đẩy ngành chế tạo của nước này phát triển, Mỹ cũng cần có thị trường Trung Quốc và xuất khẩu hàng hóa. Trung Quốc giữ lượng lớn trái phiếu chính phủ Mỹ, sự thật này càng khiến cho sự ổn định của kinh tế Mỹ và tình trạng thâm hụt tài chính của Chính phủ Liên bang trở thành một trong những sự quan tâm quan trọng của Trung Quốc. Thứ hai, mô hình đối kháng ý thức hệ giữa Mỹ và Liên Xô cũng hoàn toàn không thích hợp với quan hệ Trung-Mỹ, vì hiện nay Trung Quốc quan tâm nhiều hơn đến tiến trình hiện đại hóa chứ không phải là ý thức hệ. Cho dù điều này không thể xóa bỏ một cách hoàn toàn khả năng đối kháng, nhưng lợi ích chung giữa Trung Quốc và Mỹ được hình thành trên cơ sở dựa vào nhau về kinh tế và những xem xét thiết thực về chiến lược, cũng khiến cho khả năng xuất hiện cục diện hai bên cùng thắng lợi lớn hơn rất nhiều so với khả năng xuất hiện “trò chơi được mất ngang nhau” dựa trên nguyên tắc 3C tiêu cực. Thông qua việc so sánh những lợi ích chung và đan xen giữa Trung Quốc và Mỹ (như việc ổn định và phồn vinh khu vực), chúng ta có thể thấy rằng Trung Quốc và Mỹ có thể lấy phương thức hòa bình để xử lý những bất đồng giữa hai nước. Vì mục đích này, Trung Quốc và Mỹ cần tránh xảy ra xung đột và xây dựng các cơ chế và hệ thống quản lý khủng hoảng và dự phòng khủng hoảng. Với quan niệm hai bên cùng thắng lợi, thì sự trỗi dậy của Trung Quốc đều có lợi cho cả Trung Quốc và Mỹ. Quan niệm dựa vào nhau cho rằng chỉ cần mối quan hệ giữa các nước lớn được quản lý một cách có hiệu quả, thì xung đột giữa các nước lớn trên thực tế là có thể tránh được. Ngoài ra, sự phát triển không ngừng của toàn cầu hóa và nhất thể hóa khu vực sẽ tạo nên sự dựa vào nhau về kinh tế ở mức độ lớn hơn. Hiện nay, chúng ta có thể nhìn thấy rất nhiều ví dụ về sự hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ. Chẳng hạn như, bắt đầu từ năm 2006, hai nước đã xây dựng cơ chế “Đối thoại chiến lược kinh tế Trung-Mỹ” được tổ chức luân phiên hàng năm ở Bắc Kinh và Oasinhtơn.
Báo chí thường xuyên đưa tin về các chuyến thăm viếng và các cuộc tiếp xúc cấp cao giữa hai nước. Ví dụ như Tổng thống Mỹ Barack Obama đến thăm Trung Quốc vào tháng 11/2009, Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cầm Đào đến thăm Mỹ vào tháng 1/2011, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình đến thăm Mỹ vào tháng 2/2012… Còn một điểm nữa là khái niệm cùng nhau quản lý là mang tính bao dung, và không có tính bài xích. Trung Quốc và Mỹ nên tiến hành hợp tác với các nước liên quan khác (chẳng hạn như Nhật Bản, Nga và Hàn Quốc). Sở dĩ nói cơ chế lãnh đạo kép đang “bước đầu hình thành” là vì hiện nay tiến trình này vẫn trong giai đoạn manh nha. Cơ chế này vẫn không phải là cơ chế mang tính chức năng có hiệp nghị bảo đảm như NATO hay đồng minh Mỹ-Nhật. Cho dù trong đàm phán 6 bên, cục diện lãnh đạo kép giữa Trung Quốc và Mỹ tuy đã xuất hiện, nhưng cơ chế này còn lâu mới được thể chế hóa. Sự phát triển của “cơ chế lãnh đạo kép” không chỉ được quyết định bởi việc Trung Quốc có thể phát triển bền vững hay không, mà việc quyết định vận mệnh tương lai của cơ chế này còn bao gồm việc xác định hơn nữa nền tảng của cơ chế và tính quy phạm. Do sự phát triển của “cơ chế lãnh đạo kép” không ổn định và luôn thay đổi, nên rất khó xác định ảnh hưởng của Trung Quốc liệu có thể mở rộng sang lĩnh vực chính trị, quân sự hoặc vượt ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương để phát triển ra toàn cầu hay không. Nhưng có thể hình dung được việc bố trí và xây dựng cơ chế cụ thể giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ phát triển theo hướng tăng cường “cơ chế lãnh đạo kép”. Điều này chắc chắn đưa tới sự quan tâm của mọi người. Chỉ có như vậy, Trung Quốc mới có thể nắm chắc một cách có hiệu quả các cơ hội lịch sử: từ khi Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc đến nay, sự phát triển nhanh chóng về kinh tế Trung Quốc trong gần 30 năm qua lần đầu tiên đã tạo ra cho Trung Quốc cơ hội phát huy vai trò lãnh đạo ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 
Còn điều tương tự đáng quan tâm là mặc dù tinh thần dân tộc của dân chúng Trung Quốc liên tục tăng cao, nhưng Trung Quốc lại chưa từng nhận thức một cách nghiêm túc khái niệm về “nhóm 2 nước”, mà còn luôn tránh sử dụng từ “lãnh đạo” khi miêu tả vai trò của Trung Quốc trên các lĩnh vực. Điều này chủ yếu là do thực lực thực sự của Trung Quốc vẫn chưa đạt đến mức độ này, nhưng quan trọng hơn “giấu mình chờ thời” vẫn là phương hướng chỉ đạo của ngoại giao Trung Quốc. 
5. Phương hướng phát triển trong tương lai 
Đến nay, “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương được chứng minh là có vai trò tích cực, cơ chế này mang lại lợi ích cho cả Trung Quốc và Mỹ. Nhưng chúng ta vẫn cần phải quan sát hơn nữa liệu cơ chế này có thúc đẩy sự hợp tác và phối hợp giữa Trung Quốc và Mỹ với các nước khác trong khu vực (như Nhật Bản và Nga) hay không. Có một khả năng là cơ chế mang tính khu vực nào đó (như đàm phán 6 bên) sẽ được cơ chế hóa hơn nữa, và tiếp tục lôi cuốn các nước lớn liên quan của khu vực tham gia cơ chế này. Ngoài ra, Trung Quốc và Mỹ có thể cũng cần mở rộng các cơ chế hiện nay, từ đó tham gia một cách chính thức hoặc không chính thức vào những cơ chế mở rộng này. Trung Quốc và Mỹ đều nên xem xét đến lợi ích cốt lõi của đối phương và đưa ra những nhượng bộ nhất định, ví dụ như Trung Quốc nên cố gắng thỏa mãn nhu cầu của Mỹ trong lĩnh vực kinh tế và tiền tệ, từ đó giúp Mỹ đẩy nhanh tốc độ phục hồi kinh tế. Đồng thời, Mỹ cũng phải đưa ra những xem xét tương tự, như liệu có thể đưa Trung Quốc vào cơ chế hội đàm “2+ 2” của bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao hiện nay của Mỹ và Nhật Bản hay không, từ đó khiến cơ chế này trở thành cơ chế “2+2+ 2” giữa ba nước Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Nếu làm được như vậy, “cơ chế lãnh đạo kép” sẽ có thể tiếp tục phát triển ổn định hơn. Ngoài ra, còn có thể tiến hành phân tích đối với “cơ chế lãnh đạo kép” từ hai góc độ sau: Một mặt, chúng ta nên nhận thức được rằng sự chênh lệch giữa Trung Quốc và Mỹ trên nhiều lĩnh vực đang được thu hẹp không ngừng, như tổng lượng GDP của Trung Quốc có khả năng vượt Mỹ trong 20 năm tới. Do ảnh hưởng, sức mạnh mềm và tổng lượng GDP của Trung Quốc trên phạm vi toàn cầu tăng lên, nên một số người cho rằng sự “tăng lên” của Trung Quốc có thể sẽ kèm theo sự “đi xuống” không ngừng của Mỹ. Mặt khác, mặc dù việc Trung Quốc phát triển mạnh mẽ có thể khiến cho nước này trở thành siêu cường trên lĩnh vực nhất định (như lĩnh vực kinh tế), nhưng trong một thời gian tương đối dài, Trung Quốc sẽ khó có thể nâng cao địa vị của mình ngang bằng với Mỹ trên lĩnh vực quân sự và chính trị. Cũng có nghĩa là, “cơ chế lãnh đạo kép” này sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tương đối dài, và khả năng xuất hiện sự chuyển đổi mang tính căn bản do bên này thay thế bên kia là không lớn. Đây là ý nghĩa hiện thực khiến chúng ta phải tiến hành nghiên cứu sâu sắc về khái niệm “cơ chế lãnh đạo kép” ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 
Trên thực tế, “cơ chế lãnh đạo kép” có hai hàm nghĩa. Cơ chế này không chỉ nhấn mạnh sự trỗi dậy và ảnh hưởng của Trung Quốc, mà còn làm nổi bật thực lực hùng mạnh và địa vị lãnh đạo vững chắc khó có thể lay động của Mỹ. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự can thiệp của Mỹ vào Ápganixtan và Irắc trên mức độ nhất định đã làm yếu đi uy tín của Mỹ trong các công việc quốc tế, nhưng hiện nay sức mạnh cứng và sức mạnh mềm của Mỹ vẫn đứng đầu trong thế giới. Từ khi Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc đến nay, mặc dù trên thế giới không ngừng xuất hiện nước thách thức địa vị lãnh đạo của Mỹ, nhưng cho dù là Liên Xô trước đây, hay các nước châu Âu, và Trung Quốc hiện nay, đều không đạt được mức độ thay thế Mỹ. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng vì sao trong 30 năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế liên tục của Trung Quốc và địa vị lãnh đạo quân sự chính trị tuyệt đối của Mỹ cùng tồn tại. Hiện nay, cho dù là châu Á-Thái Bình Dương hay toàn thế giới, đều đang trải qua “thời khắc lịch sử” quan trọng, đang kêu gọi chúng ta tiến hành kiểm nghiệm thực tiễn và xây dựng lý luận một cách sâu sắc hơn. Sở dĩ bài viết không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc xuất hiện cơ chế lãnh đạo mới này là vì cơ chế này sẽ tiếp tục tồn tại đến cuối thế kỷ 21 hoặc trong một thời gian dài nữa. Thực lực kinh tế của Trung Quốc sẽ không ngừng tăng lên, đồng thời Mỹ sẽ tiếp tục chiếm địa vị chủ đạo trên lĩnh vực quân sự, địa vị của hai bên trên các lĩnh vực đặc biệt không thể thay thế cho nhau. Chúng ta có lý do để tin tưởng rằng Trung Quốc và Mỹ cũng như các nước tham gia chủ yếu khác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ xây dựng được mô hình phát triển bổ sung ưu thế cho nhau. “Cơ chế lãnh đạo kép” không chỉ khiến cho Trung Quốc và Mỹ chiếm địa vị chủ đạo trong các lĩnh vực đặc biệt, mà trên mức độ nhất định còn bảo đảm sự ổn định và phát triển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong một thời gian tương đối dài trong tương lai./. 
Theo Tạp chí “Ngoại giao Trung Quốc” (Trung Quốc) 
Lê Sơn (gt)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét