Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

VAI TRÒ ODA CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI VIỆT NAM


VAI TRÒ ODA CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI VIỆT NAM



Năm nay Việt Nam, và Nhật Bản kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập quan hệ Ngoại giao chính thức. Trong suốt thời gian qua quan hệ Việt Nam - Nhật Bản không ngừng được phát triển trên tất cả các mặt. Hiện nay, nhật Bản là một trong những đối tác kinh tế thương mại hàng đầu của Việt Nam, là nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. Trên thực tế ODA của Nhật Bản đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, cải thiện môi trường, xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Bài viết này sẽ phân tích một số nét về vai trò ODA của Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
1. Những ưu tiên trong chính sách ODA của Nhật Bản đối với Việt Nam
Nhật Bản là nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. Từ năm 1992 đến năm 2007 ODA của Nhật Bản cho Việt Nam đã đạt 13 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng khối lượng ODA mà cộng đồng quốc tế cam kết viện trợ cho Việt Nam. Tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt nam  mới đây, một lần nữa Nhật Bản lại khẳng định vị trí đứng đầu của mình với cam kết hỗ trợ ODA trong năm 2006 trị giá 103,6 tỷ Yên. Nhờ nguồn vốn ODA này nhiều công trình trọng điểm góp phần phát triển kinh tế xã hội của việt Nam đã và đang được tiến hành, tiêu biểu như dự án quốc lộ 1A, nhà máy điện Phú Mỹ 2-1, đại lộ Đông- Tây( thành phố Hồ Chí Minh), cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, đường hầm xuyên đèo Hải Vân, cầu Cần Thơ…Trong tuyên bố chung Việt Nam Nhật Bản ngày 9-10-2006 tại Tokyo Nhật Bản, Thủ tướng Shinzo Abe tái khẳng định Nhật Bản sẽ ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam phát triển kinh tế xã hội bằng cách hỗ trợ ba lĩnh vực ưu tiên  như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng thể chế thông qua việc sử dụng kinh nghiệm tiên tiến và công nghệ của Nhật Bản. Về cơ bản, chính sách ODA của Nhật Bản đối với Việt Nam được tập trung ưu tiên vào những lĩnh vực chính sau đây:
1- Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Bởi vì, phát triển cơ sở hạ tầng và đào tạo tốt nguồn nhân lực là hai nhân tố căn bản đầu tiền để thúc đẩy công nghiệp hóa phát triển.
2- Hỗ trợ phát triển ngành giao thông vận tải và điện lực. Đây là hai ngành có ý nghĩa như là hạ tầng cơ sở kinh tế.
3- Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn. Cải thiện các điều kiện sản xuất và đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp là những chú ý hàng đầu, để có thể tạo ra một năng xuất trong công nghiệp hóa cao hơn.
4- Ưu tiên cho giáo dục, sức khỏe và dịch vụ y tế. Đây là những điều kiện trực tiếp tác động tới việc nâng cao đời sống của nhân dân và tạo điều kiện cho phát triển trong tương lai. Trong đó, chú ý tới tài trợ cho việc cải thiện công tác giảng dạy, thông qua cung cấp thiết bị và xây dựng các trường học, …
5- Cải thiện môi trường, trong đó, nhấn mạnh tới bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như quản lý và phát triển rừng, cải thiện môi trường đô thị và kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Như vậy, chính sách ODA của Nhật Bản đặc biệt chú ý đến phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực và giải quyết tốt các vấn đề xã hội như phát triển giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Thực hiện những ưu tiên phát triển như vậy ODA của Nhật Bản đã có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của Việt Nam trong những năm vừa qua.
2. Vai trò ODA của Nhật Bản đối với phát triển kinh tế xã hội của Việt nam
a) Phát triển cơ sở hạ tầng
Về giao thông vận tải, ODA của Nhật Bản đã đầu tư vào việc nâng cấp, cải tạo các tuyến đường giao thông quan trọng của Việt Nam. Chẳng hạn, trục đường chính Bắc Nam, quốc lộ số 5, quốc lộ 1, xây dựng mới các cây cầu quan trọng như cầu Bãi Cháy, cầu Cần Thơ. Ở miền Trung là việc nâng cấp cảng Đà Nẵng - cửa ngõ đối với hành lang kinh tế Đông Tây, nhà ga cảng lớn nhất của Việt Nam. Đặc biệt, sắp tới Nhật Bản sẽ hỗ trợ ODA cải tạo và nâng cấp đường sắt cao tốc Bắc Nam với tổng vốn khoảng 32 tỷ đồng. Như vậy, trong kho¶ng 15 năm qua, nhờ vào nguồn vốn ODA của Nhật Bản cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều.
Về điện lực, Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ xây dựng các nhà máy điện quy mô lớn như xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Đại Ninh và xây dựng mạng lưới đường dây tải điện. Các dự án này đóng một vai trò rất quan trọng đối với việc cung cấp điện cho Việt Nam.
Về công nghệ thông ti, Nhật Bản đã cung cấp vốn vay cho dự án xây dựng tuyến cáp quang ngầm dưới đáy biển Nam Bắc và xây dựng nâng cấp mạng thông tin viễn thông cho các vùng nông thôn của Việt Nam để giảm bớt sự chênh lệch giữa các khu vực.
Như vậy, trong thời gian qua, vốn ODA của Nhật Bản thùc tÕ đã ưu tiên giải ngân rất cao vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Trong số 7 dự án trên, có 3 dự án trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp năng lượng và 3 dự án trong lĩnh vực vận tải và kho hàng. Các dự án này, tập trung vào việc tăng cường công suất cung cấp điện và hệ thống giao thông vận tải nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của quá trình công nghiệp hóa.
b) Cải thiện môi trường xã hội
Cải thiện môi trường sinh hoạt và xã hội là rất quan trọng trên quan điểm xã hội và nhân đạo, hơn nữa nó cũng chính là để hình thành nên những điều kiện căn bản cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Lĩnh vực này khó kêu gọi đầu tư từ các luồng vốn khác mà hầu hết phải trích từ ngân sách nhà nước. Chính phủ Nhật Bản coi trọng việc hỗ trợ cho giáo dục, y tế, phát triển các địa phương, phát triển môi trường đô thị là đối tượng ưu tiên hỗ trợ phát triển.
Về giáo dụchiện nay ở nước ta các trường trung học cơ sở ở khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa vẫn còn nhiều trường dạy hai hoặc ba ca, chất lượng giáo dục đang là vấn đề đặt ra. Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ xây dựng khoảng hơn 300 trường tiểu học ở những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Chẳng hạn, dự án ODA không hoàn lại “nâng cấp trường tiểu học vùng bão lụt khu vực miền Trung”, “nâng cấp trường tiểu học miền núi phía Bắc”, “nâng cấp Khoa Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ”... Các dự án này đã góp phần hỗ tích cực trong việc xóa mù chữ, nâng cao điều kiện dạy và học cho giáo viên và học sinh ở những vùng này.
Về y tế, để nâng cao chức năng hoạt động của các tổ chức y tế của Việt Nam, Nhật Bản đã và đang cung cấp ODA để hỗ trợ nâng cấp cho hơn 4 cơ sở, cung cấp thiết bị cho một sè bệnh viện trọng điểm, đào tạo và tăng cường khả năng thực tập của sinh viên và hỗ trợ cho các bệnh viện tuyến dưới trên quy mô toàn quốc. Chẳng hạn, ODA không hoàn lại cho nâng cấp bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Hai Bà Trưng, Viện Nhi Trung Ương, bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Trung tâm Huế với tổng vốn giải ngân khoảng 13,7 triệu USD trong thời gian 3 năm, dự kiến kết thúc năm 2007. Nhật Bản cũng đã hỗ trợ cho các chương trình tiêm chủng các bệnh bại liệt trẻ em và bệnh sởi, thậm chí hỗ trợ xây dựng các cơ sở chế tạo vác xin phòng bệnh sởi tại Việt Nam. “Dự án xây dựng cơ sở sản xuất vác xin tiêm phòng sởi” với tổng vốn giải ngân khoảng 16,3 triệu USD trong thời gian 3 năm, ®· kết thúc vào 31/12/2006 là một trong mười dự án đứng đầu về giải ngân ODA trong lĩnh vực y tế được cộng đồng tài trợ quốc tế đưa ra tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra tại Hạ Long - Quảng Ninh tháng 6/2007.
Về phát triển các địa phương, Việt Nam là nước với khoảng 70% dân số sống bằng nghề nông, mặc dù cùng với quá trình hội nhập khu vực, nền kinh tế có nhiều khởi sắc, Đảng và Nhà nước đã và đang quan tâm hơn vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, nước sinh hoạt còn chưa được đảm bảo vệ sinh do chưa có hệ thống cung cấp nước sạch hoặc đã xuống cấp, người dân còn thiếu hiểu biết về vệ sinh. Ngoài ra, còn rất nhiều dịch vụ xã hội khác mà người dân chưa được hưởng do cơ sở hạ tầng sinh hoạt còn kém như giao thông, điện, thông tin liên lạc. Bên cạnh đó, úng lụt, bão tố thường xuyên còn gây nhiều thiệt hại to lớn đến cả đời sống và sản xuất. Chính phủ Nhật Bản đã và đang sử dụng nguồn vốn ODA của mình tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Về ngành nông lâm ngư nghiệp, ngành sản xuất quan trọng của Việt Nam, cũng có nhiều vấn đề căn bản cần giải quyết như dân số ngành này rất đông trong điều kiện tài nguyên, đất đai có hạn, điều kiện sinh hoạt cũng như kỹ thuật sản xuất còn thiếu thốn. Vì vậy, Nhật Bản đang hỗ trợ cho các dự án phát triển nước ngầm, xây dựng cầu đường, thủy lợi, điện khí hóa nông thôn để nâng cấp cơ sở hạ tầng sinh hoạt và sản xuất, đồng thời cũng hỗ trợ để tăng cường khả năng nghiên cứu và chỉ đạo của các cơ quan nghiên cứu và đại học trọng điểm (Đại học Cần Thơ, Đại học Nông nghiệp, Viện Thú y Quốc gia). Ngoài ra, Nhật Bản còn hỗ trợ cho việc phát triển và vận hành các hợp tác xã nông nghiệp và chấn hưng các ngành sản xuất ở các địa phương.
Về phát triển môi trường đô thị, do ảnh hưởng của nhiều năm chiến tranh, dân số tăng nhanh, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, diện tích rừng ở Việt Nam đang bị giảm xuống, môi trường không khí và nước bị ảnh hưởng, lượng chất thải gia tăng đang là những vấn đề cấp bách đặt ra của Việt Nam. Hơn nữa, song song với quá trình phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa cũng diễn ra nhanh chóng, môi trường sinh hoạt ở đô thị cũng bị xuống cấp. Sức ép của quá trình công nghiệp hóa lên chất lượng môi trường sống qua việc xuất hiện nhiều vấn đề môi trường khác nhau. Do vậy, chất lượng phát triển đã được nhấn mạnh hơn trong Chương trình nghị sự của Chính phủ thông qua việc xúc tiến Chương trình nghị sự 21, Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường và những sáng kiến tương tự khác. Hỗ trợ cho lĩnh vực bảo vệ môi trường là lĩnh vực ưu tiên cao của Chính phủ.
Để chia sẻ với Việt Nam những vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản đang hỗ trợ cho Việt Nam trong việc hoạch định kế hoạch quản lý rừng và trồng rừng, phát triển và phổ cập kỹ thuật trồng rừng tại khu vực đất phèn chua ở đồng bằng sông Cửu Long, cải thiện môi trường nước, hoạch định kế hoạch xử lý chất thải ở Hà Nội, cung cấp thiết bị quản lý rác thải,…
Để góp phần cải thiện nhu cầu thiết yếu về nước sạch sinh hoạt, Chính phủ Nhật Bản, thông qua JBIC đã hỗ trợ cho Việt Nam cải thiện môi trường nước Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh như “Dự án thoát nước Hà Nội” với tổng vốn giải ngân khoảng 77,29 triệu USD, là một trong những dự án đứng đầu về giải ngân không chỉ đóng góp vào mục tiêu phát triển kinh tế mà còn là dự án đứng đầu đóng góp vào mục tiêu phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Chính phủ Nhật Bản không chỉ viện trợ không hoàn lại để xây dựng Nhà máy nước trên địa bàn thành phố như nhà máy nước Gia Lâm, mà còn viện trợ để mở rộng hoặc nâng cấp hệ thống nước ở các vùng khác như dự án mở rộng hệ thống cấp nước Hải Dương, nâng cấp hệ thống cấp nước miền Bắc…Ngoài ra, Nhật Bản còn hỗ trợ xây dựng, nâng cấp và quản lý hệ thống cung cấp nước cho đô thị, hệ thống nước thải và thoát nước, hệ thống giao thông đô thị, xây dựng quy hoạch đô thị và các quy chế về đô thị, các quy chế để mở rộng cơ hội có nhà ở cho người dân đô thị.
c) Chuyển giao thành tựu khoa học kỹ thuật
Nhật Bản là nước có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao. Về khoa học kỹ thuật công nghệ, các dự án ODA của Nhật Bản được thực hiện qua JBIC, Bộ ngoại giao và JICA là những cơ quan có đội ngũ cán bộ chất lượng cao và kinh nghiệm quản lý hiện đại, dưới các cơ quan này là các Công ty hàng đầu về thiết kế và trang thiết bị hiện đại trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng kinh tế. Th«ng qua c¸c dù ¸n ODA, chóng ta ®­îc tiÕp cËn víi c«ng nghª hiÖn ®¹i, häc tËp ®­îc nh÷ng kinh nghiÖm qu¶n lý tiªn tiÕn.
d) Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nhân lực là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Để thúc đẩy phát triển kinh tế, không những cần nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, mà còn phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Hơn nữa, để xây dựng quan hệ hữu nghị lâu dài giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản, cần có những con người làm cầu nối quan hệ Việt -Nhật. Với ý nghĩa như vậy, vốn ODA cũng được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, ... Các dự án sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực này góp phần đào tạo đội ngũ lao động có năng lực, trình độ và sức khỏe tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững. Chính phủ Nhật Bản đã và đang nhận các sinh viên hoặc nghiên cứu sinh sang học tập tại Nhật Bản. Từ năm 2003, được sự hợp tác của Chính phủ Nhật Bản, tại một số trường trung học phổ thông của Việt Nam đã bắt đầu dạy tiếng Nhật. Mặt khác, thông thường trước khi các dự án ODA triển khai có các họat động đào tạo ngoại ngữ (tiếng Nhật hoặc tiếng Anh), đào tạo chuyên môn liên quan. Đồng thời, trong qúa trình triển khai thực hiện dự án, các cán bộ  của Việt Nam được làm việc trực tiếp với các chuyên gia Nhật Bản tại Việt Nam hoặc chuyên gia nước ngoài, cùng với những việc chuyển giao trang thiết bị và công nghệ tiên tiến, họ được đào tạo những lĩnh vực chuyên môn, hướng dẫn sử dụng thiết bị công nghệ, có điều kiện tiếp cận với phương pháp phân tích, cách tiếp cận mới, các kỹ năng mới trong việc hoạch định chính sách phát triển, quản lý việc hình thành và thực hiện dự án,...Từ đó, các cán bộ của Việt Nam được đào tạo và tự đào tạo, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
e) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. ODA của Nhật Bản có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế nước ta.
Cơ cấu thành phần kinh tế, đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam, một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải cải thiện tình hình hoạt động không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và xây dựng, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân. Do vậy, Chính phủ Nhật Bản ngoài việc hỗ trợ cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế còn hỗ trợ cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam, bằng cách giúp thực hiện kiểm toán các doanh nghiệp nhà nước lớn, để hỗ trợ cho việc xúc tiến cải cách doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng coi trọng việc dự thảo chính sách, hướng dẫn kinh doanh hoặc xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và khu vực kinh tế tư nhân. Thông qua các Ngân hàng của Việt Nam, Chính phủ Nhật Bản đang thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về cải cách doanh nghiệp Nhà nước, ODA của Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Theo kế hoạch của Chính phủ, giai đoạn 2006-2010 tập trung chỉ đạo cổ phần hoá các doanh nghiệp quy mô lớn, các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, các doanh nghiệp đặc thù như Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, thực hiện cổ phần hoá theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Đồng thời, Chính phủ chØ thÞ thực hiện kiểm toán tất cả các tập đoàn và Tổng công ty Nhà nước, sắp xếp lại những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh không hiệu quả. Báo cáo của Chính phủ cho biết kể từ khi bắt đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước năm 1992 đến nay, đã có 2.900 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Riêng năm 2007, khoảng 600 doanh nghiệp nhà nước bao gồm một số Tổng công ty, Ngân hàng thương mại Nhà nước, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công ích, bảo hiểm, sẽ được cổ phần hoá. Mục tiêu của nước ta đến năm 2009, hoàn thành cơ bản việc sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Để đạt được mục tiêu đề ra, viÖc kiểm toán các doanh nghiệp nhà nước là vô cùng quan trọng. Vấn đề này là một phần của dự án "Hỗ trợ kỹ thuật thực hiện chương trình kiểm toán phân tích doanh nghiệp Nhà nước" và được thực hiện bằng nguồn tài trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, trong đó có vốn của Chính phủ Nhật Bản. Theo kết quả các báo cáo kiểm toán khoảng 42 doanh nghiệp nhà nước thuộc 9 tổng Công ty công bố cho thấy tất cả các đơn vị này đều đang hoạt động chưa hết công suất. Sau khi cổ phần hóa, phần lớn các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn. Chẳng hạn, Công ty cổ phần cơ điện lạnh tại thành phố Hồ Chí Minh với số vốn ban đầu 15 tỉ đồng, sau 5 năm cổ phần hoá, vốn của doanh nghiệp đã tăng lên 167 tỉ đồng, doanh thu tăng từ 78,44 tỉ đồng lên 353 tỉ đồng và lợi nhuận tăng gấp 4 lần, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tăng từ 1,4 triệu đồng lên 2 triệu đồng. Như vậy, chứng tỏ rằng, sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản trong việc kiểm toán các doanh nghiệp Nhà nước đã có tác động tích cực cho việc xúc tiến cải cách doanh nghiệp Nhà nước, mà khối doanh nghiệp này đang đóng vai trò là trụ cột của nền kinh tế hiện nay. Đây là hướng đi đúng phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO.
Về khu vực kinh tế tư nhân, hiện Việt Nam có khoảng 200.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký chính thức, trong số đó 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Điểm yếu của các doanh nghiệp này là năng suất lao động và lợi nhuận thấp, chi phí kinh doanh cao, năng lực cạnh tranh hạn chế, thiếu nguồn nhân lực cần thiết. Đặc biệt, các doanh nghiệp này luôn thiếu sự bình đẳng và hỗ trợ cần thiết, khó khăn khi tiếp cận tín dụng, hạ tầng, dịch vụ hành chính công, dịch vụ phát triển kinh doanh. Hầu hết các DNVVN là các doanh nghiệp nhỏ sử dụng dưới 50 lao động, đó là chưa kể đến khoảng 3 triệu hộ kinh doanh cá thể chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Phần lớn các doanh nghiệp này còn hoạt động đơn lẻ, chưa có sự liên doanh liên kết với nhau trong sản xuất. Chính điều này là trở ngại cho các DNVN hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và cạnh tranh với các sản phẩm chất lượng cao của nước ngoài. Đây là khối doanh nghiệp đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế nước ta, đặc biệt là bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO.
Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế Nhà nước phải giữ vững vai trò chủ đạo. Yêu cầu có tính nguyên tắc này đã được bảo đảm trong suốt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế những năm vừa qua. Kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Mặc dù trong những năm 2001-2005, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đáng kể do tổ chức, sắp xếp lại và thực hiện cổ phần hoá, nhưng tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở mức trên 38% (Năm 2001 chiếm 38,40%, năm 2002 chiếm 38,38%; 2003 chiếm 39,08%; 2004 chiếm 39,10%; năm 2005 ước tính chiếm 38,42%). Kinh tế nhà nước vẫn nắm giữ vị trí then chốt trong các ngành quan trọng như tài chính, ngân hàng, điện lực, dầu khí, vận tải, viễn thông...
Cơ cấu ngành kinh tế, đã từng bước dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành.
ODA của Nhật Bản có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta. Phần lớn các dự án ODA của Nhật Bản đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như sản xuất và cung cấp năng lượng, vận tải và kho hàng, công nghệ thông tin,…Các dự án này đã thúc đẩy ngành xây dựng và công nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển. Song song với việc thúc đẩy phát triển các ngành đó, ODA của Nhật Bản cũng chú trọng đầu tư vào nâng cao điều kiện sinh hoạt ở các vùng nông thôn, phát triển nông nghiệp ở các địa phương như dự án trồng rừng, hệ thống hạ tầng cơ sở cho sản xuất và đời sống ở các vùng nông thôn,…từ đó cũng góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển. Các dự án này đã đóng góp tích cực vào các thành tựu tăng trưởng đã đạt được trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005 là ngành công nghiệp tăng 13,1%, ngành dịch vụ tăng 6,9%, ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%. Năm 2005 tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng, ngành dịch vụ và ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước lần lượt chiếm khoảng 41,04%; 38%, 20,89%. Như vậy, ODA của Nhật Bản đã và sẽ đóng góp rất lớn vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian qua và trong những năm tiếp theo.
Cơ cấu vùng kinh tế, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các vùng lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm đang được xây dựng và hình thành theo hướng phát huy thế mạnh của từng vùng, làm cho bộ mặt kinh tế, xã hội ở các địa phương, các vùng đều có những thay đổi tích cực. Tương ứng với từng lĩnh vực, từng ngành ODA của Nhật Bản đều có sự đầu tư tương ứng ở các vùng, miền kinh tế trọng điểm, chẳng hạn như ngành giao thông, điện năng, thông tin, góp phần giảm bớt chênh lệch về kinh tế xã hội giữa các vùng, miền trong cả nước.
f) Thúc đẩy thu hút FDI và mở rộng đầu tư
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những chủ trương của Đảng và nhà nước ta đã đề ra từ thời kỳ đầu mở cửa nền kinh tế đến nay. Nhiều đánh giá cho rằng ODA là mở đường cho đầu tư tư nhân của nước cung cấp ODA. Mục tiêu của ODA nói chung và ODA của Nhật Bản nói riêng là hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội cho nước tiếp nhận. Do vậy, song song với việc cải tạo hạ tầng kinh tế, cải thiện đời sống sinh hoạt, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng thể chế,... môi trường đầu tư của nước ta ngày càng được cải thiện theo chiều hướng thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, có thể khẳng định rằng ODA của Nhật Bản có vai trò to lớn thúc đẩy FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Nhật Bản quan tâm và cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam với số lượng lớn, trên thực tế tiến độ và vốn giải ngân vào các dự án trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp năng lượng; vận tải và kho tàng, cấp nước và vệ sinh khá cao, đã tạo được lòng tin của cộng đồng tài trợ quốc tế vào sự phát triển kinh tế Việt Nam. Các dự án này, phần nào góp phần giải quyết những khó khăn về tài chính, giúp nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Hơn nữa, vèn ODA của Nhật Bản đã và đang đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế, phát triển xã hội vào rất nhiều ngành ở khắp các vùng trong cả nước, các nhà đầu tư sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn đầu tư vào những ngành mà mình có lợi thế ë những khu vực m«i tr­êng ®Çu t­ thuËn lîi. Dự kiến trong thời gian tới dự án cải tạo và nâng cấp tuyến đường sắt và đường bộ cao tốc Bắc - Nam được thực hiện bằng vốn ODA của Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 32,6 tỷ USD sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư. Cùng với sự nỗ lực của Chính phủ Việt Nam, kết hợp với sự hỗ trợ từ phía Chính phủ Nhật Bản, các dự án, công trình đã và đang thực hiện này ngày càng khẳng định cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta được cải thiện rõ rệt. Mặt khác, khi tiếp nhận ODA của Nhật Bản, chúng ta cũng phải xem xét một số đề nghị cho các nhà đầu tư của họ đầu tư vào một số ngành mà Nhµ nước cßn ®ang b¶o hé. Như vậy, ODA của Nhật Bản không chỉ có vai trò thúc đẩy FDI mà còn xúc tiến mở rộng đầu tư ở nước ta.
Thông qua các dự án ODA vào cơ sở hạ tầng và các dự án hỗ trợ kỹ thuật, ODA của Nhật Bản đã góp phần đào tạo đội ngũ lao động có năng lực, trình độ và sức khỏe tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững và là một yếu tố vô cùng quan trọng cho khu vực kinh tế có vốn FDI với các dự án đòi hỏi lao động có trình độ cao. Đó là một trong những ưu điểm nổi bật mà nguồn vốn ODA Nhật Bản mang lại cho nền kinh tế Việt Nam. Ngoài việc hỗ trợ phát triển, ODA cũng cần phải đóng vai trò mới trong việc tạo dựng những sức mạnh vô hình để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thiết lập cơ chế hoạt động hải quan và mở rộng thỏa thuận quan hệ đối tác kinh tế.
g) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nhờ sự hỗ trợ rất lớn của ODA Nhật Bản về cải thiện hạ tầng kinh tế đã góp phần tích cực duy trì được tỷ lệ tăng trưởng GDP khá cao trong thời gian qua bình quân là 7,5% năm. Bằng cách áp dụng các phương pháp kinh tế lượng và phương pháp mô phỏng, nhóm nghiên cứu của Nhật Bản đã đánh giá “tác động của ODA Nhật Bản đối với nền kinh tế Việt Nam” với giả định so sánh kết quả nghiên cứu trong trường hợp nền kinh tế Việt Nam có và không có ODA của Nhật Bản giai đoạn từ 1992-2000, cũng như thông qua việc đo lường các tác động tổng hợp của hỗ trợ ODA của Nhật Bản đối với nền kinh tế vĩ mô Việt Nam trong thời kỳ này. Theo cách tính của nhóm nghiên cứu, ODA của Nhật Bản thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng 1,57%, dự trữ vốn tăng 4,65%, xuất khẩu tăng 3,48%, nhập khẩu tăng 5,94% trong năm 2000. Đồng thời, trên cơ sở tính toán “tỷ suất hoàn vốn vĩ mô nội bộ” (IRR-vĩ mô), theo đó IRR - vĩ mô đánh giá hiệu quả sử dụng các khoản hỗ trợ được nhìn nhận từ quan điểm kinh tế của nước tiếp nhận hỗ trợ. Nếu coi tổng hỗ trợ ODA của Nhật Bản là “chi phí” và tỷ lệ tăng GDP của Việt Nam nhờ có hỗ trợ này là “lợi nhuận” thì tỷ suất IRR - vĩ mô là 19%. Từ kết quả tính toán này, nhóm nghiên cứu khẳng định: ODA của Nhật Bản cho Việt Nam được sử dụng có hiệu quả và mang lại cho nền kinh tế Việt Nam những lợi ích tương ứng khi so sánh với chi phí đầu vào. Như vậy cho thấy, mặc dù Chính phủ Việt Nam tiếp nhận ODA của Nhật Bản trên cơ sở một khoản vay có trả lãi, khoản lãi này có thể trả với lãi suất 19% nhưng mà vẫn thu được những lợi ích tích cực cho nền kinh tế quốc dân bằng cách nâng cao GDP thông qua việc đầu tư các khoản vay đó.
h) Góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, nhưng ngân sách Trung ương đầu tư cho xóa đói giảm nghèo thông qua các chương trình quốc gia bình quân hàng năm vẫn tăng. Các chương trình, các dự án phát triển kinh tế xã hội được xây dựng nhằm tạo việc làm cho người nghèo, cũng như tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội. Cùng với nỗ lực của Chính phủ và nhân dân ta, Chính phủ Nhật Bản đã đóng góp quan trọng trong chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Ngoài việc hỗ trợ cho các công trình hệ thống điện, thông tin liên lạc, nước sạch, trường học và vệ sinh môi trường cho các trường học, y tế ở nông thôn như đã đề cập ở phần trên, Nhật Bản còn trợ giúp về kinh nghiệm, đào tạo nhân lực, đặc biệt là cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo để đẩy nhanh tiến trình thực hiện các chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Chính nhờ sự hỗ trợ như vậy, đời sống dân cư nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.
Như vậy, sau hơn mười lăm năm kể từ khi Nhật Bản nối lại viện trợ cho Việt Nam (1992), ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam liên tục tăng.  Nguồn vốn này có vai trò rất lớn đối với phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam: bổ sung nguồn vốn, chuyển giao thành tựu khoa học kỹ thuật; điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực; thúc đẩy thu hút FDI, mở rộng đầu tư; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp tích cực công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam.

NGUYỄN QUANG THUẤN - PHẠM THỊ HIẾU
(Viện Nghiên cứu Châu Âu)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Xuân Bình, (1999), Quan hệ Nhật Bản - AseanChính sách và tài trợ ODA, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr278, 279, 296, 298.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2007), Cơ sở dữ liệu về viện trợ phát triển Việt Nam, hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Tr5.
3. Nguyễn Duy Dũng, (2003), “Vai trò của Viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản cho Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí  Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4/2003.
4. Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, “Những nội dung cơ bản về Viện trợ phát triển chính thức của Chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam (ODA)”, http://www.vn.emb-japan.go.jp/html/v_oda_top.html
5. Trần Quang Minh, (2005), “Vai trò của viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét