Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

ỨNG PHÓ CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA CHDCND TRIỀU TIÊN


ỨNG PHÓ CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA CHDCND TRIỀU TIÊN






phần 1: 
Lời tòa soạn: Giải trừ vũ khí hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên từ lâu đã trở thành vấn đề an ninh trọng yếu không chỉ của riêng Bán đảo Triều Tiên mà còn của cả khu vực Đông Bắc Á và toàn cầu. Chính vì vậy, đây là một đề tài được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu trên thế giới. Để góp thêm những tham khảo về vấn đề này, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á xin trân trọng giới thiệu bài viết dành cho Tạp chí của Phó giáo sư, Tiến sĩ Park-Hong Yong, giảng viên Khoa Khoa học Chính trị và Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Quốc gia Chungbuk, Hàn Quốc. Bài viết nghiên cứu ứng phó của Nhật Bản đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên kể từ khi nước này giai nhập Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân đến khi họ rút lui khỏi Hiệp ước (1989-1993). Tiêu đề bài viết là do người dịch rút gọn.

I. Vấn đề thảo luận
Vấn đề hạt nhân của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên được bắt đầu từ khi nước này tham gia Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) và trở thành chính thức từ khi họ rút lui khỏi Hiệp ước. Sau khi gia nhập NPT, mặc dù bị nghi ngờ về vấn đề hạt nhân nhưng CHDCND Triều Tiên vẫn không ký vào Hiệp định về Biện pháp bảo đảm của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Chính vì vậy mà Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc đã yêu cầu CHDCND Triều Tiên ký vào bản hiệp định này. Kể từ khi Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân được CHDCND Triều Tiên ký kết, vấn đề hạt nhân của nước này vẫn được tiếp tục giải quyết. Tuy nhiên, do sự chuyển biến của tình hình mà sau đó, CHDCND Triều Tiên đã lựa chọn việc rút khỏi Hiệp ước. Bài viết này chủ yếu tập trung phân tích về phương pháp ứng xử của Nhật Bản trong thời kỳ từ khi CHDCND Triều Tiên gia nhập đến khi rút lui khỏi Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân. Theo cách nhìn của Mỹ thì vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên được đặt ra như một khâu trong chiến lược toàn cầu, đồng thời là vấn đề ở tầm quốc gia giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên. Còn đối với Nhật Bản thì vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là vấn đề có liên quan đến quan điểm an ninh khu vực Đông Bắc Á và an ninh của bản thân Nhật Bản. Như vậy, đối với Nhật Bản và Mỹ thì vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên trở thành vấn đề trọng yếu về chiến lược toàn cầu và chiến lược khu vực, là vấn đề nhạy cảm đối với an ninh của mỗi nước. Nếu nói về đồng minh Nhật-Mỹ thì có thể thấy khoảng cách giữa chiến lược toàn cầu và chiến lược khu vực là không cố định; trong trường hợp phát sinh khác biệt trong quan hệ tới an ninh của mỗi nước thì có khả năng xuất hiện những điểm khác nhau giữa Nhật Bản và Mỹ. Tuy nhiên, theo tôi thì trong khoảng thời gian mà bài viết này phân tích thì khả năng đó dường như không xuất hiện.
Về quan điểm chiến lược của Mỹ đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, có hai công trình nghiên cứu trước đây có tính chất tương phản, ở đây tôi muốn đề cập đến một cách giản lược. Trong khi khảo sát về mặt lịch sử những hành vi có tính ngoại giao của CHDCND Triều Tiên, các công trình nghiên cứu của Chuck Down đã giải thích rằng vì Mỹ đánh giá CHDCND Triều Tiên có nguy cơ sụp đổ và đã lựa chọn chính sách bao dung nhằm tránh nguy cơ một cuộc chiến tranh xảy ra đồng thời với sự sụp đổ đó ([1]). Các đại biểu hiệp thương của Mỹ lại phê phán việc cho rằng hy vọng CHDCND Triều Tiên có thể thực hiện một cuộc cải cách ứng với chính sách hoà hoãn của Mỹ là điều vô lí. Họ kết luận rằng, chiến lược như vậy của Mỹ sẽ phải đối diện với chính sách “Bên miệng hố chiến tranh” của CHDCND Triều Tiên và rơi vào tình thế khó khăn là không thể phát huy được sức mạnh kiềm chế nghiêm khắc, CHDCND Triều Tiên cố ý phát huy tác dụng của chính sách “Bên miệng hố chiến tranh” của mình([2]). Trái lại với kiến giải của Down là quan điểm của Leon V.Sigal. Theo V.Sigal, tuy có thể thấy, dựa vào những giải thích phổ biến hiện nay ở Mỹ thì CHDCND Triều Tiên đã thể hiện thái độ mềm mỏng khi tăng cường sức ép, song những thuyết minh như vậy là không chính xác. Ở đây Sigal đã nhấn mạnh sự hợp tác hay giảm bớt đe doạ nhằm đi đến hợp tác và cho rằng cho đến nay tinh thần hợp tác như vậy còn thiếu ở Mỹ(3). Tóm lại, cho đến nay nước Mỹ vẫn vận dụng chính sách đối với CHDCND  Triều Tiên không phải hoà hoãn, khuyến khích mà là uy hiếp, cưỡng chế buộc phải thuận theo, nói cách khác là sử dụng chính sách “cây gậy và củ cà rốt”. Ở đây củ cà rốt không phải nhân tố an ủi mà trở thành nhân tố trọng yếu để áp chế giữ cự ly không thể với tới được (4).
Theo cách nhìn của Chuck Down, CHDCND Triều Tiên đã phát huy lợi thế chính sách “Bên miệng hố chiến tranh”. Trái lại, theo cách nhìn của V.Sigal, CHDCND Triều Tiên đã buộc phải chấp nhận tình trạng bị đặt vào hiện nay. Những nghiên cứu có liên quan đến chiến thuật hiệp thương của CHDCND Triều Tiên như vậy có rất nhiều. Ở đây, bài viết trước hết chú ý nghiên cứu tới việc liệu CHDCND Triều Tiên có thể đối phó với tình hình được không? Nhật Bản có thể gây sức ép, uy hiếp CHDCND Triều Tiên không? Mặt khác có thể hiệp lực, hoà hoãn được không? Thứ hai, phân tích vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và khuynh hướng của Nhật Bản từ nay về sau có liên quan đến lí luận quan hệ quốc tế gần đây nhất. Để thực hiện mục tiêu đề ra, luận văn đã tiến hành phân tích những tài liệu nghị sự của Quốc hội Nhật Bản. Đây không phải là một nghiên cứu có tính căn bản và toàn diện về cách ứng phó của Nhật Bản. Có một lí do là vì vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là một vấn đề có tính chất quân sự, là vấn đề quan hệ CHDCND Triều Tiên và Mỹ cho nên không thể không thấy rằng lúc đầu Nhật Bản không quan tâm đến nhiều lắm.
II. Sự nổi lên vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và Nhật Bản
1. Sự nổi lên vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên
Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành việc thu thập thông tin về CHDCND Triều Tiên như thế nào ? Về phía Chính phủ thì quả rất khó nói xem những việc có liên quan đến vấn đề này đã xảy ra ở đâu và xảy ra như thế nào trên bình diện tính chất của sự việc. Ví dụ, người ta đã phải thu thập và xử lí thông tin thông qua việc cần mẫn lắng nghe các cuộc trao đổi, nói chuyện của các quan chức ngoại giao phương Tây làm việc ở Bắc Kinh và Bình Nhưỡng; trao đổi thông tin với các quan chức của nước thứ ba có quan hệ ngoại giao với CHDCND Triều Tiên. Tất nhiên là không chỉ có như vậy,  điều quan trọng hơn là còn phải phân tích những tài liệu đã công bố, nghe đài phát thanh CHDCND Triều tiên, phân tích báo chí của CHDCND Triều Tiên dưới con mắt của các nhà chuyên môn (5).Cũng vì vậy, thông tin về CHDCND Triều Tiên mà Nhật Bản có được là không thể toàn diện.
Trong tình hình đó có hai sự kiện xảy ra. Thứ nhất là vào năm 1988, quan hệ hợp tác giữa CHDCND Triều Tiên và Liên Xô được thiết lập, nhiều vũ khí mới đã được Liên Xô đưa vào CHDCND Triều Tiên. Thứ nữa là mối hoài nghi về hạt nhân của CHDCND Triều Tiên bắt đầu được nêu ra. Lúc đó Nhật Bản nhận thức rằng mặc dù vũ khí mới đưa vào CHDCND Triều Tiên chưa đe dọa trực tiếp an ninh của Nhật Bản nhưng an ninh của Bán đảo Triều Tiên là thuộc về khu vực lân cận của Nhật Bản nên đương nhiên là có ảnh hưởng đến Nhật Bản(6). Có thể thấy, vào lúc đó Nhật Bản không nghĩ CHDCND Triều Tiên là mối uy hiếp. Do vậy mà đối với những vấn đề có liên quan đến CHDCND Triều Tiên thì Nhật Bản chủ trương công khai giải quyết bằng đối thoại và hy vọng sẽ được tiến hành qua tiếp xúc trực tiếp và tích cực giữa chính phủ với chính phủ(7). Vấn đề thứ hai về hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là ngày 9 tháng 8 năm 1989, một quan chức ngoại giao Nhật Bản đã cho thấy dấu hiệu đáng ngờ về việc CHDCND Triều Tiên phát triển hạt nhân ngoài mục đích phát triển điện nguyên tử và cho rằng “nếu CHDCND Triều Tiên suy nghĩ đến việc chế tạo vũ khí hạt nhân thì sẽ có ảnh hưởng cực kỳ to lớn đế tình hình an ninh trên Bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản nhất định sẽ không bỏ qua vấn đề này”, Chính phủ Nhật Bản rất quan tâm tới vấn đề này và tìm mọi cách để thu thập thông tin có liên quan. “Về những triệu chứng đáng nghi ngờ”, viên quan chức ngoại giao này đã đề nghị: 1, Mặc dù CHDCND Triều Tiên đã tham gia Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) vào vào năm 1985, nước này vẫn không có ý định ràng buộc với Hiệp định tiếp nhận sự thanh sát và hợp tác cần thiết với IAEA trong những nỗ lực của cơ quan này; 2, Có thông tin rằng tại Bình Nhưỡng, nhà máy sử dụng nguyên liệu hạt nhân liên quan đến việc chế tạo Plotium cho bom hạt nhân đang được xây dựng(8).
Sự hoài nghi về việc CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân ngày một trở nên lan rộng khi vào tháng 2 năm 1990, Trung tâm Kỹ thuật thông tin của Đại học Tokaido đã công bố hình ảnh lò phát điện nguyên tử gần triền sông Yunpiong, cách Bình Nhưỡng khoảng 90 km về phía bắc dựa theo phân tích ảnh hồng ngoại do SPOT chụp cùng tin tức truyền đi từ đại phát thanh Maxcơva tháng 2 năm 1990 về việc Bình Nhưỡng đang kiến thiết 4 lò phản ứng nguyên tử 44 kilowat(9).
Tuy nhiên, theo Sách trắng Phòng vệ thì lúc đó Nhật Bản chủ trương giải quyết trên tinh thần nhấn mạnh vào việc tăng cường hơn nữa mối liên minh Nhật-Mỹ và xử lí vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên thông qua việc tăng cường chiến lược thế giới. Như vậy, cho đến lúc này thì Nhật Bản vẫn chủ trương chính sách lấy phòng vệ làm chủ đạo dựa trên nhận thức rằng: “Cùng với cơ cấu quân sự có chức năng vô cùng quan trọng ngăn cách giữa Mỹ và Liên Xô, chúng ta không được quên rằng nước ta có vị trí chiến lược cực kì trọng yếu về mặt địa lý giữa Mỹ và Liên Xô. Chủ trương bảo đảm an ninh đơn độc đối với nước ta là một sự lựa chọn không sáng suốt. Chính việc liên kết cơ chế an ninh với Mỹ và tăng cường hơn nữa an ninh khả năng phòng vệ của cường quốc Mỹ là con đường tốt nhất. Việc nỗ lực chuẩn bị sức mạnh phòng vệ, xúc tiến quan hệ hợp tác với Mỹ là vô cùng quan trọng”(10). Trong khi đó, do vấn đề nghi vấn về vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên xuất hiện nên Nhật Bản đứng vào vị thế phải lựa chọn: hoặc là tin tưởng duy trì trạng thái hiện tại (ngăn chặn vấn đề hạt nhân và duy trì quan hệ hợp tác với Mỹ), hoặc là trang bị vũ khí hạt nhân. Đến giai đoạn này, trong khi theo dõi sát sao tình hình biến chuyển của Liên Xô, Nhật Bản chủ trương duy trì trạng thái hiện tại chứ không chủ trương nghiên cứu để vũ trang hạt nhân. Vì đương thời, Nhật Bản quán triệt ý niệm cơ bản là không trở thành một nước lớn về quân sự để tham gia vào việc uy hiếp các nước khác, tuân thủ nguyên tắc phòng vệ hạn chế trong phạm vi quy định của Hiến pháp hoà bình với tư cách là phương châm cơ bản phòng vệ quốc gia. Cùng với việc duy trì thể chế bảo an Nhật-Mỹ, Nhật Bản duy trì chế độ kiểm soát dân sự, tuân thủ ba nguyên tắc bài trừ vũ khí hạt nhân, điều chỉnh một cách tự chủ lực lượng phòng vệ hạn chế(11). Trong phạm vi quan hệ Nhật-Mỹ thì Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, ngoài quy định về mặt phòng vệ còn có quy định về liên quan đến việc xúc tiến quan hệ hiệp lực về kinh tế, về chính trị. Thế chế an ninh Nhật-Mỹ trong phạm vi quan hệ Nhật-Mỹ thì cũng không đơn giản chỉ có quan hệ phòng vệ, một lĩnh vực rộng rãi bao gồm quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của hai nước đã trở thành cơ sở cho mối quan hệ hợp tác hữu nghị. Từ tình huống như vậy đã đòi hỏi quan hệ Nhật-Mỹ kết cục phải trở thành quan hệ đồng minh(12). Theo ý nghĩa chiến lược quốc tế về vấn đề vũ khí hạt nhân. Vấn đề nghi ngờ CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, có thể nói là đề tài cần được Nhật -Mỹ cùng nhau ứng xử. Tuy nhiên, đối với CHDCND Triều Tiên thì Nhật Bản trong khi theo dõi tình hình một cách điềm tĩnh, vẫn hy vọng giải quyết vấn đề hạt nhân có tính quốc tế. Có thể nói, theo thông tin từ các báo cáo của IAEA về các cơ sở sản xuất năng lượng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, có hai cơ sở nghiên cứu năng lượng hạt nhân đã được xác nhận, còn các nhà máy sản xuất năng lượng hạt nhân khác thì không. Mặc dù là đã có thông tin hoài nghi về việc CHDCND Triều Tiên có nhà máy tái xử lí nhiên liệu hạt nhân và Nhật Bản rất quan tâm đến điều này. Tuy vậy, Nhật Bản không có khả năng xác nhận thông tin đó là một sự thực, do vậy giữ lập trường hy vọng mạnh mẽ vào sự hoàn tất nhanh chóng của Hiệp định về biện pháp bảo đảm giữa CHDCND Triều Tiên và IAEA(13). Nhật Bản ở vào tình thế quan sát cách xử lý của IAEA.
2. Con bài phát triển vũ khí hạt nhân và Nhật Bản
Nhật Bản và Mỹ đã chỉ ra mối hoài nghi về việc CHDCND Triều Tiên có lò phản ứng nguyên tử có khả năng sản xuất vũ khí hạt nhân và có cơ sở tái xử lí nhiên liệu hạt nhân dựa vào quan sát của vệ tinh trinh thám. Hàn Quốc kiên quyết yêu cầu phải điều tra giám sát CHDCND Triều Tiên. Yêu cầu này đã bị từ chối. Ở đó Mỹ đã yêu cầu Nhật Bản phải đưa vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự vào việc xúc tiến hiệp nghị cải thiện quan hệ Nhật-Triều. Mỹ phải làm như vậy là do nước Mỹ không có phương pháp hữu hiệu nào để thanh sát phía CHDCND Triều Tiên nên đã cân nhắc việc bình thường hoá quan hệ Nhật-Triều, coi đó là cơ hội cần phải nắm lấy. Ngay cả Chính phủ Nhật Bản cũng cho rằng “Do việc phát triển hạt nhân nên viện trợ kinh tế cho CHDCND Triều Tiên là vô ích. Việc CHDCND Triều Tiên có hay không có vũ khí hạt nhân là có ảnh hưởng rất lớn đến ổn định của Bán đảo Triều Tiên và cũng có ý nghĩa trọng đại đối với vấn đề an ninh của Nhật Bản”. Bộ Ngoại giao Nhật Bản chủ trương phương châm đàm phán thông qua giao thiệp(14)). Xung quanh vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã xuất hiện những động thái cụ thể cần thiết phải hành động cùng phối hợp giữa Nhật Bản-Mỹ-Hàn Quốc. Vào đầu tháng 9 năm 1990 - thời điểm quan hệ Liên Xô-CHDCND Triều Tiên suy thoái và cuộc Chiến tranh Lạnh đông tây đến hồi kết thúc. Ba tháng sau đó người ta được biết, tại cuộc hội đàm giữa hai ngoại trưởng của hai nước tại Bình Nhưỡng, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Kim Vĩnh Nam của CHDCND Triều Tiên đã nói với Ngoại trưởng Liên Xô lúc đó là Tsevatnatze rằng, nếu Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc thì thì CHDCND Triều Tiên sẽ: 1. Thực hiện việc phát triển vũ khí hạt nhân một cách độc lập; 2. Ủng hộ việc đòi hỏi của Nhật Bản về phân lãnh thổ phía bắc giáp với Liên Xô; 3. Bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Nhật Bản. Liên Xô đã thông báo điều này cho Nhật Bản qua hiệp nghị chính thức giữa hai Chính phủ Liên Xô và Nhật Bản được tiến hành cho đến tháng 12 năm đó(15).
Hai nước Hàn Quốc và Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 30 tháng 9. Trong thời gian thăm Nhật Bản tại Tokyo từ ngày 2 đến 3 tháng 9 theo hiệp định trao đổi định kỳ, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Tsevatnatze đã công bố một số nội dung về CHDCND Triều Tiên. Điểm quan trọng của cuộc hội đàm Ngoại trưởng Xô-Triều này đã được truyền đạt lại sau cuộc thăm CHDCND Triều Tiên của đoàn đại biểu hai đảng là Đảng Xã hội và Đảng Tự do dân chủ do ngài Kane Maru nguyên Phó thủ tướng làm trưởng đoàn vào hạ tuần tháng 9. Chính vì vậy mà vào thời điểm này Chính phủ Nhật Bản vẫn chưa biết ý định của CHDCND Triều Tiên về việc “bình thường hoá ngoại giao với Nhật Bản”. Đương nhiên, việc CHDCND Triều Tiên tuyên bố “phát triển hạt nhân” mang ý nghĩa “phát triển vũ khí hạt nhân” đã được Liên Xô biết rõ là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Đương thời, Liên Xô đã nỗ lực cải thiện quan hệ với không chỉ Mỹ mà cả với Trung Quốc và Hàn Quốc và việc phát triển vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên thực sự cản trở đến chính sách cải tổ, mở cửa của Liên Xô. Chính vì vậy mà đề án “bình thường hoá quan hệ ngoại giao” được đưa ra từ CHDCND Triều Tiên là điều nằm ngoài sự dự tính của Nhật Bản. Mặc dù là trước đó Nhật Bản có tính đến việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với CHDCND Triều Tiên, nhưng Nhật Bản lại liên minh với Mỹ và Hàn Quốc trong vấn đề nghi vấn vũ khí hạt nhân của nước này nên sự hình dung về CHDCND Triều Tiên của Nhật Bản ở vào trạng thái không mấy tích cực. Trái lại, nhìn từ lập trường của CHDCND Triều Tiên thì hành động của Liên Xô-một nước vốn được coi là hậu thuẫn lại có hành động không làm vừa lòng như vậy làm cho CHDCND Triều Tiên đứng trước nguy cơ bị cô lập. Thời kỳ này tất yếu đặt CHDCND Triều Tiên vào hoàn cảnh phải tính đến chiến lược sinh tồn của mình và việc họ chọn một trong những phương pháp là bình thường hoá quan hệ với Nhật Bản là điều có thể hình dung được.
Trong bối cảnh mà CHDCND Triều Tiên tuyên bố với Liên Xô rằng họ sẽ “phát triển hạt nhân một cách độc lập”, họ đã phản đối việc Chính phủ Liên Xô xúc tiến việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc và có khả năng là CHDCND Triều Tiên cho rằng tình hình “phát triển vũ khí hạt nhân” có thể trở thành con bài trong quá trình xúc tiến cải thiện quan hệ ngoại giao một cách có lợi với Mỹ, Nhật Bản và đối thoại nam bắc với Hàn Quốc về sau. Khác biệt lớn về kinh tế so với Hàn Quốc, lại lạnh nhạt với Liên Xô cũng có nghĩa là CHDCND Triều Tiên bị cô lập về mặt quốc tế. Cũng có thể chỉ ra rằng từ nay, CHDCND Triều Tiên có được phương tiện hữu hiệu là con bài hạt nhân được mặc cả với giá cao trong việc tiến hành đòi hỏi việc trợ kinh tế từ Nhật Bản, trong việc loại trừ vũ khí hạt nhân của Mỹ và triệt thoái quân Mỹ ở Hàn Quốc cũng như đối thoại với Hàn Quốc(16). Cho đến lúc này thì Liên Xô vẫn có ảnh hưởng đối với CHDCND Triều Tiên trong các vấn đề có liên quan đến hạt nhân(17). Tuy nhiên trong thời kỳ này, ý nghĩa việc sử dụng con bài hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã vượt khỏi phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Chấp nhận thực tế khắc nghiệt của sự hợp tác Mỹ-Xô, mục tiêu lúc đó của CHDCND Triều Tiên là tìm kế sinh tồn dựa vào việc bình thường hoá quan hệ Nhật-Triều.
3. Thử nghiệm giải trừ mối nghi ngờ về hạt nhân - ngoại giao đa phương của Nhật Bản
Theo dòng thời cuộc, từ tháng 1 năm 1991 việc giao thiệp để đi đến bình thường hoá quan hệ Nhật-Triều được bắt đầu. Cho đến lúc này, việc tìm hiểu chưa được chi tiết, song trong các vấn đề trở thành tiêu điểm, chúng tôi xin phân tích vấn đề hạt nhân làm trung tâm. Trước hết, trong lần thoả thuận bình thường hoá quan hệ lần thứ 2 thì tuần tự vấn đề cần được giải quyết là: Thứ nhất, vấn đề thanh sát hạt nhân; Thứ hai, vấn đề trao đổi gọi là quyền yêu cầu bồi thường: Thứ ba, vấn đề mở lại đối thoại Nam Bắc. Nội dung này được tranh luận công khai trong cuộc họp Quốc hội Nhật Bản ngày 13 tháng 3. Được biết rằng dù sao thì đây cũng chỉ là bước trao đổi trên bình diện những nguyên tắc chung, không khí trao đổi hai bên rất tốt, mặt khác về mặt chủ trương thì lập trường đối lập cũng rất gay gắt. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật Bản chủ trương phải tiếp tục kiềm chế và nhẫn lại một cách chân thành(18). Cùng với việc đàm phán với CHDCND Triều Tiên, Nhật Bản cũng tiến hành trao đổi ý kiến về vấn đề thanh sát hạt nhân này với Liên Xô. Đây là một vấn đề bí mật, nhưng Tổng thống Gorbachop đã cho rằng Liên Xô cũng có cùng một nỗi lo lắng giống như Nhật Bản(19). Nhật Bản có đề nghị Liên Xô thuyết phục CHDCND Triều Tiên chấp nhận thanh sát hạt nhân và đây không phải là vấn đề gì bí mật. Nếu như vậy thì có thể thấy sự trao đổi ý kiến ở mức độ cao hơn. Ví dụ, nếu CHDCND Triều Tiên chấp nhận thanh sát hạt nhân do sức ép từ phía Liên Xô thì Nhật Bản sẽ thực hiện hợp tác kinh tế tích cực với Liên Xô. Đương thời, Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ kinh tế hàng đầu trên thế giới, Liên Xô cũng kỳ vọng vào sự viện trợ kinh tế từ Nhật Bản rất nhiều. Nếu điều này là hiện thực thì có thể nói đó là ngoại giao đa phương của Nhật Bản trên cơ sở sử dụng viện trợ.
Trên thực tế thì ngày 30 tháng 3 năm 1991, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã đề ra phương châm có tính chất trọng yếu cho việc thực thi chính sách ODA là nước được việc trợ phải là nước gia nhập NPT. Do cuộc Chiến tranh vùng Vịnh mà thế giới thứ ba trở thành một vấn đề lớn toàn cầu. Theo đó, Nhật Bản đã dùng phương châm trên làm nguyên tắc gây áp lực đối với các nước chưa gia nhập NPT để đề phòng việc phát triển phổ biến hạt nhân và nhằm thúc ép gia nhập NPT. Đó là thời kỳ nổi lên sức ảnh hưởng của ODA Nhật Bản.
Mặt khác, CHDCND Triều Tiên thì cho rằng, đối với Nhật Bản, vấn đề hạt nhân về cơ bản chẳng có liên quan gì đến mối bang giao Nhật-Triều cả, nếu có thì chỉ là vấn đề đối với Mỹ mà thôi. Dù sao Nhật Bản cũng có vẻ như rất lo lắng, rõ ràng là CHDCND Triều Tiên không thể không có ý định chế tạo vũ khí hạt nhân. CHDCND Triều Tiên thì chủ trương rằng nếu Nhật Bản nêu vấn đề vũ khí hạt nhân ra thì họ buộc phải đưa việc vũ khí hạt nhân của Mỹ ở Hàn Quốc thành vấn đề. Lập trường của Chính phủ Nhật Bản đối với vấn đề này về tình tiết là rất khác nhau trong sự lí giải về CHDCND Triều Tiên. Luồng ý kiến chủ đạo nhất là trong chừng mực vấn đề thanh sát hạt nhân đối với CHDCND Triều Tiên chưa được giải quyết thì không thể có quan hệ ngoại giao bình thường với nước này(20).
Vấn đề bình thường hoá quan hệ Nhật-Triều đã rơi vào tình trạng đông cứng, trong đó điểm mấu chốt là vấn đề hạt nhân. Cho đến lúc này nếu nhìn lại thì CHDCND Triều Tiên bắt đầu tìm kiếm chiến lược sinh tồn trong hoàn cảnh họ bị cô lập ngày một gia tăng, một mặt thì nỗi bất an từ công cuộc cải tổ để cứu vãn chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, mặt khác thì quan hệ Xô-Hàn đang được cải thiện. Lúc này, chiến lược lựa chọn của CHDCND Triều Tiên là bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Nhật Bản. Đến đây, Nhật Bản, trong khi thúc tiến hợp tác Nhật -Triều với mối hoài nghi về vũ khí hạt nhân, một mặt thì liên kết với Hàn Quốc và Mỹ trong một cộng đồng chiến tuyến, mặt khác lại bí mật thương thảo yêu cầu Liên Xô để nước này dùng sức ảnh hưởng ép CHDCND Triều Tiên. Hơn thế nữa, Chính phủ Nhật Bản đã giải quyết vấn đề hạt nhân trong phạm vi phương châm ODA. Theo cách nhìn của CHDCND Triều Tiên thì sự thay đổi của hoàn cảnh vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng xấu đi. Nói một cách khác, vào thời gian đó CHDCND Triều Tiên cảm thấy bị hoàn toàn cô lập với xung quanh trước áp lực gián tiếp của Mỹ, hành vi bất hợp tác của Liên Xô, yêu cầu đòi thanh sát hạt nhân của Nhật Bản và tính tích cực chủ động của Hàn Quốc dựa vào sự cách biệt xa với CHDCND Triều Tiên về kinh tế. Tuy vậy, CHDCND Triều Tiên đã chấp nhận sự thực đó và hướng tới việc thương lượng. Trong giai đoạn này người ta có thể thấy, Nhật Bản một mặt giữ thái độ hợp tác đối với chiến lược hạt nhân của Mỹ, đồng thời mặt khác thì hành động theo phương châm của riêng mình.
4. Sự hợp ý và thoả hiệp để đi đến những điều khoản
Ngày 30 tháng 5 năm 1991, CHDCND Triều Tiên đã thông báo với IAEA về ý định tiến hành hiệp nghị có liên quan đến việc thanh sát hạt nhân(21). Hơn nữa, ngày 3 tháng 6 năm 1991, Trung Quốc cũng công bố sự ủng hộ hoàn toàn việc gia nhập Liên Hợp Quốc của CHDCND Triều Tiên(22). Sau đó, CHDCND Triều Tiên cũng thông báo họ có ý định ký kết hiệp định về hạt nhân và cũng không có ý phản đối việc thanh sát hạt nhân, vì vậy các nước thành viên của tổ chức IAEA lập tức tỏ ra quan tâm đến CHDCND Triều Tiên(23). Ngược lại, vào lúc đó Mỹ và Hàn Quốc đã cùng xác nhận sẽ có bước đi chung trên vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên(24). Trong sự chuyển biến này có việc Liên Xô tiến hành cải cách, song về vấn đề này, Trung Quốc cũng có quan điểm rằng mặc cho những vấn đề nội bộ của Liên Xô, Trung Quốc muốn phát triển quan hệ Trung-Xô. Trái lại, CHDCND Triều Tiên cho rằng, cho dù Liên Xô có biến chuyển như thế nào đi nữa thì CHDCND Triều Tiên vẫn xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường của riêng họ(25). Trước tình hình đó cần phải xử lí như thế nào là vấn đề không rõ ràng trong Chính phủ Nhật Bản. Trong quan hệ hai nước Nhật-Triều, Nhật Bản muốn có quan hệ mới. Mặc dù có vấn đề về Lý Ân Huệ, song nhìn tổng thể quan hệ hai nước vẫn tiến triển êm đẹp. Từ lập trường này có thể thấy tính tích cực là chủ yếu. Phía CHDCND Triều Tiên cũng cho rằng cách ứng xử của Nhật Bản là thành ý và có ý muốn hướng tới việc bình thường hoá quan hệ. Có một cuộc chạy thi (vấn đề hạt nhân và quan hệ hai nước) như vậy và cách ứng xử của Nhật Bản về vấn đề CHDCND Triều Tiên nhằm đạt tới sự ổn định của khu vực là có tính mềm dẻo.
Mặt khác, tháng 6 năm 1991, CHDCND Triều Tiên đã tuyên bố ý nguyện ký vào Hiệp định về biện pháp bảo an của IAEA. Tuy nhiên đến tháng 9, tại Uỷ ban IAEA, CHDCND Triều Tiên lại yêu cầu triệt thoái vũ khí hạt nhân của quân đội Mỹ tại Hàn Quốc và từ chối việc ký vào Hiệp định trên(26). Trong khi đó Tổng thống Hàn Quốc Roh Tae-woo trong một diễn thuyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vào tháng 9 lại tuyên bố ý muốn thương lượng với CHDCND Triều Tiên về vấn đề hạt nhân.
Tại thời điểm này, CHDCND Triều Tiên, trong khi hoan nghênh đề án của Tổng thống Bush đưa ra vào ngày 27 tháng 9 năm 1991 về giải thể và triệt thoái vũ khí hạt nhân đồng thời tuyên bố việc triệt thoái vũ khí hạt nhân của Mỹ tại Hàn Quốc được tiến hành đồng thời với bảo đảm không sử dụng vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên sẽ mở ra khả năng CHDCND Triều Tiên ký vào hiệp ước an ninh của IAEA. Trước tình hình này, Chính phủ Nhật Bản cho rằng, CHDCND Triều Tiên đưa ra điều kiện và không ký vào Hiệp ước, nhưng đưa ra điều kiện như vậy là không thể chấp nhận được. Dự định là tiến hành cuộc trao đổi định kỳ Nhật-Triều lần thứ 5 vào tháng 11 và kiên quyết yêu cầu phía Bắc Triều Tiên sớm kí vào văn bản hiệp ước của IAEA và chịu sự thanh sát hạt nhân(27).
Đến thời kỳ này vẫn chưa có được sự bàn luận cụ thể nào về ý tưởng phi hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên trong cuộc trao đổi Nhật-Triều. Tuy nhiên, trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Kaifu Toshiki đã thể hiện lập trường của Trung Quốc và cách nghĩ của Nhật Bản. Hai bên đã làm sáng tỏ ý tưởng về Bán đảo Triều Tiên như một vành đai phi hạt nhân(28). Vào tháng 11, Tổng thống Roh Tae-woo đã phát biểu “Tuyên ngôn phi hạt nhân hoá”, đồng thời phía CHDCND Triều Tiên cũng tuyên bố việc bắt đầu giải trừ vũ khí hạt nhân của Hàn Quốc như điều kiện tiên quyết để ký nước này ký vào hiệp định thanh sát hạt nhân. Đến tháng 12, trong cuộc hội đàm thủ tướng lần thứ 5, CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc đã ký vào bản “Hiệp ý thư về hoà giải, không xâm lược lẫn nhau và hiệp tác giao lưu”, thống nhất về việc triển khai hiệp nghị trong năm về vấn đề hạt nhân. Tổng thống Roh Tea-woo chấp nhận việc tuyên bố “Không tồn tại hạt nhân” trên Bán đảo Triều Tiên, CHDCND Triều Tiên phát biểu đồng ý ký hiệp định thanh sát hạt nhân. Trong tình hình cuộc chiến Vùng Vịnh, Liên Xô giải thể, Tổng thống Mỹ Bush đề xuất vấn đề triệt thoái vũ khí hạt nhân trên toàn thế giới, Tổng thống Hàn Quốc Roh Tea-woo công bố tuyên ngôn phi hạt nhân hoá trên Bán đảo Triều Tiên, kêu gọi CHDCND Triều Tiên đình chỉ kế hoạch phát triển hạt nhân, phía Hàn Quốc đưa ra đề án thanh sát hạt nhân đồng thời ở cả hai miền Nam Bắc, CHDCND Triều Tiên ở vào thế bị dồn đến chân tường. Trong vấn đề phát triển hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, cửa ngõ giao thiệp với CHDCND Triều Tiên đã chuyển dịch từ Mỹ đến Hàn Quốc(29). Ngày 31 tháng 12, trong cuộc tiếp xúc đại biểu hai miền Nam Bắc, tất cả đã hợp ý vấn đề “Tuyên ngôn phi hạt nhân hoá”(30) và ký điều ấn sơ bộ(31). Cho đến đây, quan hệ Mỹ - Triều, Nam - Bắc, Nhật - Triều mặc dù có những khúc mắc nào đó nhưng nhìn chung diễn ra một cách khá êm xuôi.
(Còn nữa)

PARK-HONG YOUNG
(PGS, TS, Khoa Khoa học Chính trị và Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Quốc gia Chungbuk, Hàn Quốc)
Người dịch: Phạm Hồng Thái
từ bản tiếng Nhật: “北朝鮮の核問題をめぐる日本の対応―NPT加入から脱退まで(1989-1993)”.



([1]) Chuck Downs, Over The Line: North Korea’s negotiating strategy (Washington, D.C., AEI Press, 1999)[ソン・スンジョン訳『北朝鮮の協商戦略』ソウル:ハヌル出版社、1999], p. 404-405.
([2]) Downs, ソン・スンジョン訳『北朝鮮の協商戦略』p. 403.
(3) Leon V. Sigal, Disarming Stranger: Nuclear Diplomacy with North Korea,(Princeton, NJ: Princeton University Press, 1997)[グ・ガブ訳『米国は協力しようとはしなかった』ソウル:社会評論、1999], p.16-19.
(4) Sigal, グ・ガブ訳『米国は協力しようとはしなかった』, p. 21-22.
(5) 日本国会、第109回、参議院、外交総合安全保障に関する調査会、外交軍縮小委員会会議録、第一号、昭和六十二年九月四日、七頁、谷野政府委員。以下、参議院、外交総合安全保障に関する調査会109-1, p.7 (谷野政府委員、1987/09/04)と略す。
(6) 衆議院、内閣委員会112-13, p. 28(谷野政府委員、1988/05/24).。
(7) 衆議院、外務委員会114-2,p.3(谷野政府委員、1989/04/11)。同じ114-3, p.14(宇野外務大臣、1989/05/24)。
(8) 朝日新聞朝刊、1989年11月10日3面。
(9) Mét quan chøc cña Trung t©m cho biÕt: “Có tin đồn là CHDCNDTriều Tiên đã xây dựng được lò thí nghiệm phát điện nguyên tử vào những năm 1970, tự xây dựng được nhà máy phát điện nguyên tử cỡ lớn vào những năm 1980. Trong phạm vi phim tư liệu thì đó phải chăng là nhà máy phát điện nguyên tử, toà nhà phía Nam là cơ sở nhiên liệu, toà nhà phía Bắc là cơ sở nghiên cứu” (朝日新聞朝刊、1990年2月9日3面).
(10) 1988年版、防衛白書、第二部、第3章。
(11) Chính phủ Nhật Bản chủ trương Ba nguyên tắc phi hạt nhân là: không sở hữu vũ khí hạt nhân, không chế tạo và không phổ biến vũ khí hạt nhân.1990年版、防衛白書、第二部、第二章.
(12) 1990年版、防衛白書、第二部、第四章。
(13) 衆議院、外務委員会118-7,p.32(太田政府委員、1990/06/01)。
(14) 朝日新聞朝刊、1990年10月26日3面。
(15朝日新聞朝刊、1991年1月1日1面。
(16) 朝日新聞朝刊、1991年1月1日1面。
(17) Andrew Mack, “North Korea and the Bomb”, FOREIGN POLICY, Vol.83(Summer, 1991), p.87.
(18) 衆議院、外務委員会120-7,pp.3-4(谷野政府委員、1991/03/13)。
(19) 衆議院、外務委員会120-11,p.17(兵藤政府委員、1991/04/24)。
(20) 衆議院、外務委員会120-11,p.16(谷野政府委員、1991/04/24)。
(21) 朝日新聞朝刊、1991年5月30日1面。
(22) 朝日新聞夕刊、1991年6月3日1面。
(23) 朝日新聞夕刊、1991年6月14日1面。
(24) 朝日新聞朝刊、1991年7月3日7面。
(25) 衆議院、外務委員会121-2,p.12(谷野政府委員、1991/08/30)。
(26) 朝日新聞朝刊、1991年9月13日1面。
(27) 衆議院、外務委員会121-3,p.2(谷野政府委員、1991/10/02)。
(28) 参議院、外務委員会121-2,p.11(谷野政府委員、1991/09/05)。
(29) 朝日新聞朝刊、1991年12月13日2面。
(30) Điểm cốt yếu của “Tuyên ngôn về Phi hạt nhân hoá” do đại biểu của hai miền Triều Tiên ký ngày 31 là: 1. Không thử nghiệm, chế tạo, sản xuất, tiếp nhận, bảo quản, tàng trữ, bố trí, sử dụngvũ khí hạt nhân; 2. Sử dụng năng lượng hạt nhân trong phạm vi mục đích hoà bình; 3. Không duy trì các cơ sở tái sử lí hạt nhân và làm giàu Uraniom; 4. Việc thanh sát được thực hiện trên cơ sở hợp ý song phương đối với toàn bộ các cơ sở quân sự và dân sự do phía đối tác tuyển định.; 5. Một tháng sau khi bản Tuyên ngôn này được công bố hai, miền sẽ cộng tác để thành lập một Uỷ ban Giám sát hạt nhân Nam Bắc. Nguồn: 朝日新聞朝刊、
(31) 朝日新聞朝刊、1992年1月31日1面。

phần 2:

III. Thế tiến tới của Nhật Bản đối với vấn đề hạt nhân
1. Mỹ - Nhật - Hàn áp sát, CHDCND Triều Tiên bị o ép
Ngoại giao Nam Bắc càng tăng cường thì càng thúc đẩy CHDCND Triều Tiên mở cửa. Điều đó phải chăng mang ý nghĩa tạo ra một tình thế hiệp lực mới của một khu vực bao gồm Nga, Trung Quốc, Nam - Bắc Triều Tiên, Nhật Bản và giảm bớt căng thẳng của toàn thể khu vực Đông Bắc Á. Theo ý nghĩa như vậy, Chính phủ Nhật Bản cho rằng, nếu tiến hành một cuộc thanh sát hạt nhân dựa vào IAEA sẽ làm sáng tỏ được mối hoài nghi của quốc tế về  CHDCND Triều Tiên xung quanh vấn đề hạt nhân do đó sẽ mở ra triển vọng phi thường cho quan hệ Nhật - Triều tiến lên phía trước(1). Tuy nhiên, vấn đề hạt nhân của Bán đảo Triều Tiên đã thể hiện những phức tạp hơn nhiều. Cụ thể là, về mặt địa lý thì vấn đề hạt nhân của Hàn Quốc đã xuất hiện nhưng lại thuộc quyền quản lí của Mỹ, theo nghĩa đó vấn đề hạt nhân của Hàn Quốc bất đắc dĩ trở thành vấn đề giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên. Tuy vậy, Hàn Quốc đã vận dụng sáng kiến giới hạn việc giải quyết vấn đề hạt nhân của hai miền. CHDCND Triều Tiên đã lí giải điều này như sau:
“Vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên là vấn đề phát sinh do việc nước Mỹ đã đưa vũ khí hạt nhân vào Nam Triều Tiên (Hàn Quốc). Đất nước chúng ta là một quốc gia phi hạt nhân và chủ trương nhất quán Bán đảo Triều Tiên là một khu vực hoà bình và phi hạt nhân. Nếu nói về vấn đề thanh sát hạt nhân thì chỉ là vấn đề còn lại về mặt thủ tục. Trong cuộc họp của Quốc hội được khai mạc mấy ngày sau đó nếu Hiệp định bảo an kèm theo điều ước không phổ biến hạt nhân được phê chuẩn thì vấn đề này đã được giải quyết theo trình tự một cách êm thấm rồi. Về vấn đề thanh sát hạt nhân, lập trường của chúng ta là rõ ràng, không có chỗ để nghi ngờ về điều này. Mặc dù vậy, việc nêu vấn đề hạt nhân rồi làm ầm ĩ lên không có gì ngoài mục đích làm cho hình ảnh của nước cộng hoà của chúng ta mờ đi trong hình dung của dư luận quốc tế. Việc các cường quốc hạt nhân uy hiếp thực tế đến sinh tồn của nhân loại đang gia tăng sức ép một cách không thoả đáng lên các quốc gia phi hạt nhân mà trước hết là chúng ta. Đó là thể hiện sự ngạo mạn của những người luôn gán ý tưởng có tính một chiều ích kỷ của mình, không tính gì đến nguyên tắc bình đẳng và chính nghĩa trong các quan hệ quốc tế”. Từ lập luận này có thể nói, việc nghi ngờ hạt nhân của miền Bắc đã chuyển sang mối nghi ngờ hạt nhân ở miền Nam. Tuyên ngôn phi hạt nhân hoá ở cả hai miền trong năm trước không phải là tuyên ngôn mà là vấn đề thực tiễn.
Đến giai đoạn này thì việc trao đổi ý kiến Nhật - Triều đã kết thúc lần thứ 6 đã tập trung vào 4 vấn đề quan tâm là: vấn đề có tính cơ bản của quan hệ Nhật - Triều (mang tính tương lai), những vấn đề kinh tế (thanh toán quá khứ), vấn đề quốc tế (vấn đề hạt nhân), những vụ việc hai bên cùng quan tâm (vấn đề kết hôn với người Nhật....)(2).
Trong đó, đối với sự việc có liên quan đến vấn đề hạt nhân là việc được quan tâm nhất thì Chính phủ Nhật Bản cũng giải quyết tình hình từng bước một theo chiều hướng tốt lên và có thành ý(3). Nếu vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên được giải quyết trong phạm vi thanh sát và ký vào hiệp định thì tình hình sẽ tốt đẹp.
Ngày 14 tháng 4 năm 1992, lần đầu tiên  CHDCND Triều Tiên thuyết trình trước đoàn các nhà báo Nhật Bản về tình trạng kiến thiết các lò phản ứng hạt nhân tại khu vực trở thành tiêu điểm nghi ngờ của quốc tế và cho chiếu công khai một đoạn phim. Tại đây người ta đã xác nhận việc kiến thiết có liên quan đến một lò phản ứng nguyên tử cỡ lớn có công xuất 5 vạn kilowat được CHDCND Triều Tiên cho biết là đi vào hoạt động từ năm 1990. Trong 15 phút của đoạn phim ghi lại thì không thấy có hình ảnh nhà máy gia công nguyên liệu hạt nhân và cơ sở tái xử lí nhiên liệu hạt nhân được coi là tiêu điểm chú ý. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quốc phòng Hàn Quốc đã không bỏ qua hình ảnh được chiếu thoáng qua về căn phòng dành cho phòng hộ phóng xạ. Vì đây là một cơ sở tất yếu đối với công việc tái xử lí nguyên liệu hạt nhân nên họ nghi ngờ “chắc chắn miền Bắc bắt đầu chuẩn bị cho việc tái xử lí nhiên liệu hạt nhân”(4) . Mặt khác, trong báo cáo ban đầu, Bộ Công nghiệp Năng lượng nguyên tử của  CHDCND Triều Tiên tại một cuộc hội kiến báo chí tại Bình Nhưỡng ngày 14 tháng 4 đã cho biết, ngoài 2 cơ sở đã tiếp nhận thanh sát của IAEA còn 3 lò nguyên tử đang trong quá trình kiến thiết và vận hành. Thực tế, trong báo cáo ban đầu, nếu tính cả những cơ sở tiếp nhận thanh sát thì có tất cả 16 cơ sở được công bố. Nói chung là những thông tin về những cơ sở phát triển hạt nhân cũng được đưa ra, tuy có muộn hơn so với báo cáo ban đầu, nhưng người phát ngôn của IAEA cũng đánh giá rằng: “CHDCND Triều Tiên đã hợp tác rất tích cực, họ đã báo cáo cả những vấn đề không thuộc nghĩa vụ”(5) . Cả Nhật Bản và IAEA đều không có gì bất mãn.
Trong lần thương lượng bình thường hoá quan hệ hai nước Nhật-Triều thứ 7, Nhật Bản đã đề nghị nhanh chóng xoá bỏ mối nghi ngờ và việc tiến hành thanh sát toàn diện của IAEA đối với CHDCND Triều Tiên. Trong khi đó, từ phía Mỹ và Hàn Quốc xuất hiện những lời chỉ trích về những cơ sở tái xử lí ở miền Bắc. Mặc dù Nhật Bản có nghi ngờ về vấn đề này song vẫn giữ lập trường uỷ thác việc điều tra cho IAEA(6). Trong lần thương lượng này, điều đáng chú ý là phía Nhật Bản đã thêm vào việc thực hiện thương lượng Nam - Bắc Triều Tiên để “Hai miền Nam - Bắc thanh sát lẫn nhau”. Về việc hai miền thanh sát lẫn nhau, Nhật Bản cho rằng họ muốn “thực hiện một cách kiên định tuyên ngôn cùng phi hạt nhân hoá cả hai miền Nam Bắc bao gồm việc không sở hữu cơ sở tái xử lí nhiên liệu hạt nhân và thanh sát lẫn nhau giữa hai miền”. Về việc này, Đại sứ CHDCND Triều Tiên trong một cuộc hội ý báo chí vào thời điểm đó đã cho rằng “Không thể chấp nhận được tuyên bố của Nhật Bản, không thể không tin tưởng vào sự thanh sát của IAEA cho nên không chấp nhận việc thanh sát lẫn nhau giữa hai miền Nam Bắc. Nhật Bản làm như vậy là đã tăng thêm một vật cản” và rằng họ nhận thức thấy phía Nhật Bản đang thêm việc thanh sát hai miền vào những điều kiện tiên quyết. Vốn có thái độ trân trọng cho đến lúc này, Nhật Bản đã thể hiện sự cứng rắn “chừng nào mối hoài nghi về hạt nhân chưa được làm tiêu tan thì chưa thể thúc đẩy việc đàm phán tiến lên phía trước”. Mặt khác, liên quan đến vấn đề những người phụ nữ làm nô lệ tình dục cho quân đội thì phía Nhật Bản cho rằng chỉ có thể đề cập đến trong một phạm vi nhất định, nói cách khác là Nhật Bản đáp lại một cách cự tuyệt(6). Từ đây trở đi thái độ của Nhật Bản đã trở nên cứng rắn.
Sau đó Nhật Bản đã từ bỏ thái độ coi việc phải uỷ thác việc thanh sát cho cơ quan quốc tế và làm tiêu tan sự hoài nghi của quốc tế trên cơ sở sự thanh sát đó như một điều kiện tiết quyết cơ bản(7). Sở dĩ Nhật Bản làm như vậy là vì phát hiện ra rằng, trong khi thanh sát IAEA đang thực hiện công việc của mình thì phía Irắc đã bí mật phát triển vũ khí hạt nhân. Phải chăng so với việc uỷ thác việc thanh sát cho IAEA thì việc uỷ thác việc thanh sát lẫn nhau cho Hàn Quốc (mà thực chất là tin tưởng vào hiệu quả thanh sát dựa vào Mỹ-Nhật) thì mang ý nghĩa xác thực hơn. Đã có áp lực đối với CHDCND Triều Tiên đến mức Chính phủ Nhật-Mỹ-Hàn đã bí mật có sự hiệp tác. Nhật Bản cũng tỏ thái độ tấn công. Đến thời điểm này trở đi có thể thấy Nhật Bản đã không có ý định hợp tác với CHDCND Triều Tiên nữa.
2. Nhật - Hàn dồn ép và CHDCND Triều Tiên rút lui
Trong cuộc thương lượng Nhật-Triều lần thứ 8, Nhật Bản tỏ thái độ không hưởng ứng việc bình thường hoá quan hệ hai nước cho đến khi CHDCND Triều Tiên chịu sự thanh sát của IAEA và thông qua việc thanh sát lẫn nhau giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên mà vấn đề hoài nghi hạt nhân được làm mất đi. Về thái độ tiêu cực của Nhật Bản trong buổi mở đầu thương lượng lấy việc đình trệ của vấn đề hạt nhân làm lí do, CHDCND Triều Tiên đã phản bác rằng: “Nhật Bản đã thể hiện việc đem những vấn đề không có liên quan đến hội đàm Nhật-Triều làm điều kiện tiên quyết cho hội đàm, tạo ra những khó khăn giả tạo”. Đối lại, Nhật Bản thấy rằng: “cho dù CHDCND Triều Tiên có chính thức nói rằng họ đang hướng tới phía trước đi chăng nữa thì cũng khó mà quyết định xem cần phải đối ứng như thế nào”(8). Tuy nhiên, trong phạm vi thanh sát đặc biệt ở giai đoạn 1 do IAEA tiến hành thì chưa đưa ra thông báo này và cuộc thương lượng với CHDCND Triều Tiên xung quanh thanh sát tương hỗ hai miền Nam Bắc cũng phải vượt qua tảng đá ngầm nên chủ trương của Nhật Bản là không có sức thuyết phục. Do việc thanh sát của IAEA có vấn đề quốc tế và Nhật Bản cũng đưa ra lập trường của mình, nhưng Nhật Bản đã không đưa ra lập trường trong vấn đề thanh sát tương hỗ hai mìên Nam Bắc.
Trái lại, CHDCND Triều Tiên cho rằng, vấn đề nghi vấn đã được giải trừ trong cuộc thanh sát đặc biệt của IAEA, đã yêu cầu thanh sát có tính chất đơn phương đối với các cơ sở quân sự của Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Đối lập lại, phía Hàn Quốc cho rằng việc thanh sát của IAEA là chưa đầy đủ và chủ trương thanh sát song phương các cơ địa quân sự của cả hai phía. Trong cuộc gặp gỡ phía CHDCND Triều Tiên ở Bàn Môn Điếm ngày 15, phía Hàn Quốc đã nhấn mạnh lập trường: “Phương châm của Chính phủ Hàn Quốc trong vấn đề thanh sát hạt nhân song phương là không thay đổi. Chừng nào chưa giải được mối nghi ngờ về hạt nhân thì chưa thể có sự tiến triển nào về sự hợp tác và giao lưu kinh tế”(9).
Tóm lại, lập trường của Nhật Bản về mối liên hệ giữa quan hệ Nam Bắc và vấn đề hạt nhân và lập trường của Hàn Quốc về mối liên hệ giữa thanh sát lẫn nhau giữa miền Nam và miền Bắc và việc giao thiệp bình thường hoá quan hệ là đối lập với lập trường của CHDCND Triều Tiên. Về vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản luôn luôn cho rằng “việc thực hiện một cách triệt để cộng đồng tuyên ngôn về phi hạt nhân hoá Nam Bắc là trọng yếu. Tuy rằng không nói đây là điều kiện, nhưng trong việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao Nhật-Triều thì không thể lẫn tránh vấn đề quan trọng này được”(10). Trên thực tế thì đây chính là điều kiện.
Thông qua cuộc hội đàm nguyên thủ Trung–Hàn, Hàn Quốc yêu cầu Trung Quốc hợp tác đối với vấn đề hạt nhân, Trung Quốc giữ thái độ trân trọng(11). Tuy nhiên, Hàn Quốc tuyên bố sẽ tái diễn tập cuộc tập trận “Tinh thần đồng đội” với Mỹ nên hiệp nghị về hạt nhân hai miền Nam Bắc đã bị chậm lại(12). Chính quyền Hàn Quốc mới của Tổng thống Kim Vĩnh Nam đã thể hiện thái độ mềm dẻo đối với vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên(13). Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên đã chuẩn bị rút lui khỏi hiệp ước. Thời kỳ này, Nhật Bản đã thể hiện sự không tin tưởng đối với Bắc Triều Tiên một cách mạnh mẽ như sau: “Vẫn còn quá nhiều vấn đề nghi ngờ đối với Bắc Triều Tiên, vẫn còn nhiều vấn đề không rõ ràng, bị che đạy. Chính vì thế, nếu tình hình này không còn nữa thì một cách tự nhiên là sẽ thay đổi. Vấn đề hiện nay là Bắc Triều Tiên không nỗ lực làm sáng rõ những mối nghi ngờ đó”(14).
Ngày 12 tháng 3 năm 1993, nhận được quyết định của CHDCND Triều Tiên về việc rút khỏi NPT, Chính phủ Nhật Bản đã cho rằng đây là một thách thức cực kỳ to lớn đối với thể chế NPT, và tỏ thái độ lo lắng trong đối thoại với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và kêu gọi CHDCND Triểu Tiên từ bỏ quyết định rút lui và quay lại tham gia NPT. Vào ngày 22 tại New York, một hiệp nghị giữa chính phủ ba nước Nhật-Mỹ-Hàn đã được tiến hành. Về lí do rút lui khỏi NPT của CHDCND Triều Tiên trong thời kỳ này, Chính phủ Nhật Bản chỉ nêu ra mà không đưa ra lời bình luận nào về những thuyết minh của CHDCND Triều Tiên cho rằng, việc tập trận “Tinh thần đồng đội năm nay ra là một hành động không thoả đáng, yêu cầu thanh sát đặc biệt của IAEA, cuộc tập trận này là sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của CHCND Triều Tiên. Tuy nhiên, điều mà Nhật Bản quan tâm đặc biệt là một nước có vũ khí hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên, và điều đó dù thế nào cũng dẫn tới việc xuất hiện một đất nước không hữu hảo với Nhật Bản(15). Và Nhật Bản nhận thức rằng điều này bao hàm sự ảnh hưởng căn bản đối với cách nghĩ về an ninh cho đến lúc này của Nhật Bản. Đây là điểm bắt đầu chuyển biến nhận thức rằng, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên không chỉ có liên quan đến chiến lược an ninh thế giới mà còn là vấn đề an ninh của Nhật Bản.
Mặt khác, nếu nhìn từ phía CHDCND Triều Tiên thì do có cuộc tập trận Tinh thần đồng đội năm ngoái giữa Mỹ và Hàn Quốc và năm nay tiến hành trở lại là cái khiêu khích CHDCND Triều Tiên. Hơn nữa, nếu nhìn vào động thái của Chính phủ Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ thì việc dồn CHDCND Triều Tiên vào đường cùng là một sự thực. Theo đó, trong giới hạn hồi đáp đối với yêu cầu tiếp thu thanh sát đặc biệt của IAEA vào ngày 25, theo con mắt của CHDCND Triều Tiên thì không còn cách nào khác là phải chọn con đường rút khỏi Hiệp ước. Như vậy, để tránh thanh sát thì việc rút khỏi NPT là cách duy nhất. Đó chính là hành động có tính toán của CHDCND Triều Tiên.
IV. Thay lời kết luận
Trước hết, theo cách nhìn của chủ nghĩa hiện thực cấu trúc của Kenneth N.Waltz, Nhật Bản với tư cách là một nước tuyển lựa chính sách ngoại giao lấy kinh tế làm trung tâm coi đó như một chiến lược nhất quán kể từ sau chiến tranh. Đó là một quốc gia không bình thường. Trong tương lai gần có thể thấy Nhật Bản trở thành một nước lớn về quân sự, là nước cân bằng với Mỹ với tư cách quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân(16). Mặt khác, trong khi đưa ra đề án về sự phân li tất yếu giữa chủ nghĩa hiện thực mới và chủ nghĩa hiện thực hậu cổ điển từ chủ nghĩa hiện thực cấu trúc đã chủ trương rằng, so với việc Nhật Bản sẽ trở thành một nước lớn về quân sự tương ứng với tiềm lực kinh tế và cân bằng thế lực với Mỹ thì nên tiếp tục là một cường quốc kinh tế(17). Hai chủ trương này được kiến giải theo hai cách tương phản nên cần có sự trao đổi để làm rõ. Tuy nhiên, việc dự đoán tương lai của một nước là một vấn đề khó. Liên quan đến tới vấn đề này, bài viết muốn nói rằng, (a) Đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, Nhật Bản luôn luôn đối ứng trên cơ sở ưu tiên tối cao vấn đề an ninh của Nhật Bản. Từ đó tuỳ thuộc vào chiến lược của Mỹ, nhưng phải chăng là không chịu khuất phục trước áp lực của Mỹ. Hơn nữa, liên quan đến hiến pháp hoà bình và ba nguyên tắc phi hạt nhân, Nhật Bản không tham gia một cách vô điều kiện. Vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đây chỉ là câu chuyện giới hạn trong trường hợp vấn đề an ninh của Nhật Bản bị uy hiếp.
Thứ hai, Alexan der Wolts cho rằng tuy vai trò của cấu tạo có tính vật chất trong quan hệ quốc tế mà Volts đã chủ trương là quan trọng, nhưng chúng ta cũng không được xem thường việc cấu tạo có tính xã hội cũng như cấu tạo có tính quan niệm có một ảnh hưởng tương tự. Với tư cách một ví dụ, Volts đã nêu ý kiến, phải chăng Mỹ cho rằng so với nước Anh có 500 đầu đạn hạt nhân thì CHDCND Triều Tiên có 5 đầu đạn hạt nhân là có tính uy hiếp hơn và ông rất trọng thị cấu tạo có tính xã hội và tính quan niệm. Về vấn đề này, từ bài viết có thể nói (b) hình dung của Nhật Bản về CHDCND Triều Tiên là mang tính không tin tưởng. Coi CHDCND Triều Tiên là nước đối địch nên đối với Nhật Bản, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là nguyên nhân chính tạo nên nguy cơ uy hiếp.
Thứ ba, đối với vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên thì  trong giai đoạn đầu (1989-1991.12), Nhật Bản thể hiện sự hợp tác, nhưng nửa giai đoạn sau (1992-1993.2) thì thái độ của Nhật Bản dần dần thay đổi. Điều này có nguyên nhân là với Mỹ thì vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là một mắt xích trong chiến lược thế giới. Còn với Nhật Bản thì đây là vấn đề liên quan đến an ninh và quốc phòng của nước này. Về điều, bài viết muốn nói là (c) Nhật Bản đã nắm lấy việc vấn đề hạt nhân của Bán đảo Triều Tiên có liên quan đến an ninh của nước mình. Khu vực phi hạt nhân của Bán đảo Triều Tiên và Ba nguyên tắc phi hạt nhân của Nhật Bản là có tính toàn vẹn chỉnh thể cho nên việc phát triển vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, không còn nghi ngờ gì nữa, đã làm tăng cường khả năng Nhật Bản vũ trang bằng vũ khí hạt nhân. Vấn đề vũ trang hạt nhân của Nhật Bản chẳng những là vấn đề quan hệ Nhật-Mỹ mà còn là vấn đề có liên quan đến chiến lược thế giới. Theo nghĩa như vậy, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên cũng chính là vấn đề hạt nhân của Nhật và Mỹ. Do vấn đề (c) mà (a) và (b) có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, (b) đóng vai trò trung gian ảnh hưởng đến (a) và (c ).
Thứ tư, điều muốn nói từ bài viết này là: (d) việc ô hạt nhân của Mỹ có tác dụng tốt là Nhật-Mỹ-Hàn cần phải hối thúc CHDCND Triều Tiên để họ tiếp nhận sự thanh sát hạt nhân. Sau đó, Mỹ cần phải có thái độ thể hiện vai trò về sau đối với IAEA và Hàn Quốc. Tại đó, Nhật-Hàn có liên hệ vấn đề hạt nhân với vấn đề của bản thân Nhật Bản và của Hàn Quốc nên thúc ép CHCND Triều Tiên. Trong thời gian này Nhật Bản và Hàn Quốc đã lĩnh hội vấn đề hạt nhân của CHCND Triều Tiên từ phương diện an ninh và ổn định của khu vực và trong thâm tâm có ý phản ứng lại chiến lược tiêu giải mối nghi ngờ về hạt nhân của nước Mỹ. Nói cách khác, từ quan điểm chiến lược quốc tế xung quanh nghi vấn về vấn đề hạt nhân, Nhật-Mỹ-Hàn đã có sự điều chỉnh. Trên phương diện chiến lược khu vực và an ninh của mỗi nước đã nảy sinh những khác biệt. Tại đây CHCND Triều Tiên phản ứng lại thái độ cứng rắn của Nhật Bản và Hàn Quốc và tìm con đường rút khỏi Hiệp ước là một sự lựa chọn không có cách nào khác. Cái ô hạt nhân của Mỹ nếu không phát huy hiệu quả tốt thì an ninh của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ không được bảo đảm và sự ma sát này đã này sinh khác biệt. Thời kỳ này, CHCND Triều Tiên đã thông qua Tokyo mà tiếp xúc được với Wasington. Vậy nên một khi cự tuyệt Tokyo thì CHCND Triều Tiên cũng rơi vào tình trạng bị cắt liên hệ với Washinton. Kết quả của việc mất liên hệ đó đã dẫn tới việc CHCND Triều Tiên rút lui khỏi hiệp định về hạt nhân.
Người dịch: Phạm Hồng Thái
Nguyên bản tiếng Nhật do tác giả gửi đến Tạp chí 北朝鮮の核問題をめぐる日本の対応―NPT加入から脱退まで(1989-1993)”.



(1) 参議院、外務委員会123-2,p.8(谷野政府委員、1992/03/26)。
(2) 参議院、外務委員会123-3,p.4(谷野政府委員、1992/04/07)。
(3) 衆議院、外務委員会123-7,p.12(谷野政府委員、1992/04/22)。
(4) 朝日新聞朝刊、1992年4月24日5面。
(5) 朝日新聞夕刊、1992年5月6日1面。
(6) 参議院、外務委員会123-9,pp.5-6(谷野政府委員、1992/05/14)。
(6) 朝日新聞朝刊、1992年5月16日2面。
(7) 参議院、外務委員会123-9,p.6(渡辺美智雄外務大臣、1992/05/14)。
(8) 朝日新聞朝刊、1992年8月2日2面。
(9) 朝日新聞朝刊、1992年9月16日6面。
(10) 参議院、外務委員会125-1,p.3(池田維政府委員、1992/12/07)。
(11) 朝日新聞朝刊、1992年9月29日1面。
(12) 朝日新聞朝刊、1993年1月27日6面。
(13) 朝日新聞朝刊、1993年3月7日5面。
(14) 参議院、外務委員会125-1,p.4(渡辺美智雄外務大臣、1992/12/07)。
(15参議院、外務委員会126-1,p.11(池田維政府委員、1993/03/26)。)
(16) 李明賛「日本の安全保障戦略に関するネオリアリズム主張の批判的考察」pp.294-295。これに関する詳しいことは、Kenneth N. Waltz, “The Emerging Structure of International Politics”, International Security, Vol.18, No.2(Fall, 1993),pp.44-79.
(17) Stephen G. Brooks, “Dueling Realisms”, International Organization, Vol.51, No.3(Summer, 1997),pp.445-477。

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét